Thứ Ba, 22 tháng 11, 2022

GIA CÁT LƯỢNG TRUYỆN (Phần II)

 


Lưu Bị, Gia Cát Lượng, Quan Vũ, Trương Phi

GIA CÁT LƯỢNG TRUYỆN (Phần II)

 

Năm thứ năm, cất đại quân ra bắc đóng ở Hán Trung, trước khi đi, dâng biểu tâu lên Hậu Chủ rằng:


“Tiên đế sáng nghiệp chưa lâu nửa đường đã băng hà, nay thiên hạ chia ba, Ích châu mỏi mệt, quả là sự nguy cấp tồn vong đã ở ngay trước mắt. Thế nên kẻ bầy tôi chầu chực chẳng dám lười nhác ở bên trong, kẻ sĩ có chí trung thành vong thân ngoài cõi, là vì nhớ đến cái ơn tri ngộ của Tiên đế, muốn đáp đền cùng Bệ hạ vậy. Bệ hạ nên rộng rãi thánh minh, để sáng đức tốt của Tiên đế, thúc đẩy chí khí của kẻ sĩ, chẳng nên làm bừa mà tự coi rẻ mình, dẫn dụ điều thất nghĩa, lấp con đường trung thực của kẻ can gián. Trong cung phủ đều là một thể, tưởng thiện phạt ác, chẳng nên phân biệt. Nếu như có điều sai phạm hoặc trung thiện, nên giao cho sở ty luận rõmà thưởng phạt, để làm sáng tỏ đạo lý công bằng sáng suốt của Bệ hạ, không nên riêng tư nghiêng lệch, khiến cho khuôn phép trong ngoài sai khác.


Bọn Thị trung, Thị lang như Quách Du Chi-Phí Y-Đổng Doãn đều là những lương thần, biết toan tính mà trung thuận, ấy là tiên đế đã lựa chọn và để lại cho bệ hạ. Ngu ý cho rằng việc ở trong cung, chẳng kể lớn nhỏ, đều phải bàn kỹ với họ, sau mới thi hành, như thế có thể bồi bổ thiếu sót, có ích rộng rãi. Tướng quân Hướng Sủng tính hạnh thuần thục, hiểu rõ việc quân, được thử dùng ngày trước, Tiên đế khen là có tài cán, thế nên mọi người bàn luận và tiến cử làm Đô đốc. Ngu ý cho rằng việc ở trong doanh trại, ắt phải bàn bạc kỹ với ông ấy, ắt có thể khiến hàng ngũ hoà thuận, định rõ hơn kém. Thân với hiền thần, xa lánh tiểu nhân, ấy là lẽ nhà Tiền Hán đã hưng; thân với tiểu nhân, xa lánh hiền thần, ấy là lẽ nhà Hậu Hán đã nghiêng đổ vậy. Thời Tiên đế còn sống, mỗi lần cùng với thần đàm luận về việc ấy, không lần nào không than thở đau xót oán giận cho Hoàn-Linh(29). Các Thị trung, Thượng thư, Trưởng sử, Tham quân đều là những bề tôi trung trinh đến chết, xin Bệ hạ thân thiết và tin dùng họ, được thế tất nhà Hán hưng vượng, điều đó có thể tính ngày mà đợi được vậy.


Thần vốn là kẻ áo vải, đem thân cày ruộng ở Nam Dương, mong toàn tính mệnh ở đời loạn, chẳng cần nổi tiếng với chư hầu. Tiên đế không coi thần là kẻ hèn mọn, đem lòng chiếu cố, ba lần tìm đến kiếm thần nơi lều cỏ, hỏi thần về việc đương thời, bởi thế thần rất cảm kích, nguyện theo Tiên đế ruổi rong. Sau gặp lúc nghiêng ngả, nhận việc giữa lúc quân thua tướng bại, phụng mệnh lúc gian nguy, tính đến nay đã trải hai mươi mốt năm.


Thần Tùng Chi xét rằng: Lưu Bị thua chạy vào năm Kiến An thứ mười ba, sai Lượng đi sứ sang Ngô. Đến năm Kiến Hưng thứ năm Lượng dâng biểu Bắc phạt, tính rõ chỉ có hai mươi năm. Như vậy Bị cùng Lượng tương ngộ, trước lúc bại quân một năm vậy.


Tiên đế biết thần cẩn thận, trước lúc lâm chung đã phó thác đại sự cho thần. Từ lúc phụng mệnh đến nay, sớm khuya lo lắng, sợ phụ lại sự uỷ thác, làm tổn hại đến đức sáng suốt của tiên đế, nên tháng năm vượt Lô giang, vào sâu nơi đất không cây. Hán thư địa lý chí chép: Dòng Lô giang bắt đầu ở quận Tang ca huyện Câu Đinh. Nay phương Nam đã định, binh giáp đầy đủ, đương lúc cần khích lệ ba quân, bắc định Trung nguyên, dốc hết tài mọn, diệt trừ kẻ gian hung, trùng hưng Hán thất, trở lại cố đô. Như thế thần mới báo đáp được Tiên đế, mà trung thành với chức phận mà bệ hạ đã giao phó.


Còn như việc châm chước lợi hại, bày tỏ lời trung, đã có Du Chi-Y-Doãn đảm nhiệm vậy. Những mong bệ hạ uỷ thác để thần được đánh kẻ nghịch tặc phục hưng nhà Hán; nếu chẳng thành công, xin bắt tội thần, để báo cáo cùng vong linh Tiên đế. Còn như chẳng tiến dẫn được lời trung khiến cho đức không được hưng thịnh tất phải trách lỗi của Du Chi-Y-Doãn; Bệ hạ nên tự mình toan tính, hỏi han đạo phải, xét nạp lời ngay, tuân theo di chiếu của Tiên đế. Thần thụ ân mà cảm kích khôn cùng, nay đương ở nơi xa, dâng biểu mà khóc, chẳng thể nói hết lời”.


Liền đó, Lượng đem quân ra đóng ở Miện Dương.



"Không thành kế" chỉ là "chuyện hão" - lời Tam Quốc Chí

Việc thứ ba Quách Xung nói rằng: Lượng đóng ở Dương Bình, sai Ngụy Diên dẫn binh Đông hạ, Lượng chỉ lưu một vạn quân giữ thành. Tấn Tuyên Đế(30) thống xuất hai mươi vạn binh chống Lượng, mà quân Diên bị lạc đường, Tuyên Đế theo lối tắt mà đến, còn cách Lượng chừng sáu mươi dặm, quân do thám báo với Tuyên Đế rằng Lượng ở trong thành binh đơn lực bạc. Lượng cũng biết Tuyên Đế sắp đến, tình thế bức bách, muốn chạy tới chỗ quân của Diên, nhưng khoảng cách quá xa, địch theo vết mà truy đuổi, tất không chạy kịp, tướng sỹ đều thất sắc, chẳng biết làm sao. Lượng tỏ ý thản nhiên, lệnh cho trong quân đều ngả cờ im trống, không được ra khỏi lều trại, lại sai mở toang bốn cửa thành, quét đất dọn rửa. Tuyên Đế thường nói Lượng là người cẩn trọng, mà giờ thấy thế bên kia yếu nhược, nghi có phục binh, bèn dẫn quân về phía bắc Thú Sơn. Hôm sau vào giờ ăn cơm, Lượng cười lớn bảo với các vị Tham tá thủ hạ rằng: “Tư Mã Ý tất bảo là ta khiếp nhược, chắc rằng có phục binh, ắt men theo núi mà chạy”. Quân do thám về báo lại, quả như lời Lượng nói. Tuyên Đế sau biết việc đó, rất lấy làm tiếc hận.


Luận rằng: Xét thấy Dương Bình ở Hán Trung. Khi Lượng mới đóng quân ở Dương Bình, Tuyên Đế còn làm đô đốc ở Kinh Châu, trấn giữ Uyển Thành, đến khi Tào Chân chết đi mới nắm quyền ở Quan Trung chống giữ với Lượng. Nguỵ từng sai Tuyên Đế từ Uyển Thành đến Tây Thành phạt Thục, gặp mưa dầm, chẳng nên công. Trước sau là thế, chẳng thể nào đến Dương Bình giao chiến được. Nếu quả như lời Xung nói, Tuyên Đế có hai vạn quân, lại biết Lượng binh ít lực yếu, dẫu nghi có quân mai phục, đúng ra phải bày đặt bố phòng cẩn trọng, sao lại bỏ chạy ngay? Lại xét Nguỵ Diên truyện rằng: “Diên thường theo Lượng ra quân, muốn xin riêng một vạn tinh binh, cùng với Lượng theo đường khác hội quân ở Đồng Quan, Lượng kiềm chế không cho; Diên vẫn thường nói Lượng nhút nhát, than thở rằng tài của mình chẳng được dùng hết”. Lượng còn chẳng cho Diên riêng một vạn quân, sao được như lời Xung nói, là đang nắm giữ trọng binh ở phía trước, mà tự thủ lại khinh xuất vậy? Vả lại Xung nói với Phù Phong vương như thế, rõ ràng Tuyên Đế quá kém cỏi, nói chuyện với con lại chê bai cha, lý chẳng thể dung, bảo rằng: “Phù Phong vương cho rằng lời của Xung là đúng”, thế nên biết sách ấy dẫn toàn chuyện hão vậy.


Năm thứ sáu mùa xuân, Lượng tung tin theo lối Tà Cốc ra lấy Mi thành, sai Triệu Vân-Đặng Chi làm nghi binh, chiếm giữ Cơ Cốc. Đại tướng quân Tào Chân nhà Nguỵ cất quân chống cự. Lượng thân cầm quân ra đóng ở Kì Sơn, quân nhung chỉnh tề, thưởng phạt đầy đủ mà hiệu lệnh nghiêm minh. Ba quận Nam An, Thiên Thủy, An Định phản Nguỵ hưởng ứng Lượng. Quan Trung rung động.


Nguỵ lược chép: Lúc trước, quốc gia cho là Thục trung chỉ có một mình Lưu Bị. Bị đã chết, mấy năm chẳng có động tĩnh gì, bởi thế cũng không tính chuyện phòng bị; Chợt nghe tin Lượng xuất binh, trong triều ngoài dã đều kinh hãi, ở Lũng Hữu-Kỳ Sơn lại càng đáng ngại, ba quận ấy cùng hưởng ứng Lượng.


Ngụy Minh Đế(31) sang Tây trấn thủ Trường An, mệnh cho Trương Cáp chống cự Lượng. Lượng cử Mã Tắc đốc suất ba quân ở trước trận cùng với Cáp đại chiến ở Nhai Đình. Tốc trái phép của Lượng, hành động thất thố, bị Trương Cáp đánh tan. Lượng dời hơn một ngàn hộ dân từ Tây Thành vào Hán Trung.


Việc thứ tư Quách Xung nói rằng: Lượng ra Kỳ Sơn, hai quận Lũng Tây- Nam An hưởng ứng ra hàng, Lượng lại vây Thiên Thuỷ, phá Ký Thành, bắt được Khương Duy, đuổi mấy ngàn trai gái vào đất Thục. Mọi người đều đến mừng Lượng, Lượng cau mặt không vui tỏ vẻ thương xót, tạ rằng: “Khắp trong thiên hạ, chẳng ai không phải dân Hán, uy lực của quốc gia còn chưa dấy lên được, khiến cho bách tính phải khốn đốn trong miệng sài lang. Mỗi người chết đi, đều là tội của Lượng, lấy việc ấy là mừng, ta không thẹn sao được”. Bởi thế người Thục đều biết Lượng nuôi chí diệt Nguỵ, chẳng phải chỉ là nói thác ra thế thôi vậy.


Luận rằng: “Lượng nuôi chí diệt Nguỵ từ lâu, chẳng phải lúc ấy mọi người mới biết, vả lại bấy giờ ra quân chẳng thành, bị tổn thất phải quay về, ba quận theo hàng chẳng thể lấy được. Còn Khương Duy, chỉ là một kẻ thất phu ở Thiên Thuỷ, bắt được là tổn hại cho nước Nguỵ sao? Được một nghìn nhà ở xứ Tây thành, chẳng bù nổi mất mát ở Nhai Đình, coi đó là công lao, mà người Thục đều đến chúc mừng ư?


Lượng đem giết Tắc rồi phanh thây để tạ tội với ba quân. Rồi viết sớ tâu lên Hậu Chủ rằng: “Thần vốn tài hèn, trộm giữ ngôi cao, thân cầm mao việt thống soái ba quân, mà chẳng thể nêu cao minh pháp, lâm việc sợ hãi, đến nỗi có việc trái mệnh lầm lỗi ở Nhai Đình, ở phía Cơ Cốc cũng không sao phòng thủ được, những lỗi ấy đều là bởi thần xét việc không đến nơi. Thần đã không sáng suốt nhìn người, làm việc u minh, nghĩa Xuân Thu trách tại thống soái, chức phận của thần phải đảm đương lỗi ấy. Xin tự biếm quan ba bậc, để phạt lỗi lầm”. Hậu chủ theo đó giáng Lượng làm Hữu tướng quân, coi việc thừa tướng, vẫn nắm quyền thống soái như trước.


Hán Tấn Xuân thu chép: Có kẻ khuyên Lượng tăng cường binh lực để đánh Nguỵ, Lượng nói: “Đại quân của ta ở Kỳ Sơn-Cơ cốc đều nhiều hơn địch, thế mà chẳng thể phá giặc lại bị quân giặc đánh tan, thế tất chẳng phải bởi binh lực yếu kém, mà bởi tại người cầm đầu vậy. Nay ta muốn giảm binh xét tướng, sáng phép tỏ lỗi, tính đến cái đạo biến thông mai sau; nếu chẳng làm được như thế, dẫu nhiều binh cũng chả ích gì! Từ nay về sau, những người trung tín lo lắng vì quốc gia, nên chuyên cần sửa lỗi cho ta, tất việc có thể nên, giặc sẽ bị tiêu diệt, cái công có thể nhón chân mà đợi vậy.” Rồi xét kỹ từng việc nhỏ, nêu rõ những điểm mạnh, chỉ ra những lỗi lầm, cáo rõ với thiên hạ, rồi luyện quân giảng võ, mưu toan việc về sau, lại kén chọn binh sĩ để rèn luyện, để dân chúng quên đi thất bại đã qua. Lượng nghe tin Quyền phá Tào Hưu, quân Nguỵ phải kéo về phía đông, Quan Trung suy yếu, tháng mười một năm ấy, dâng biểu lên Hậu chủ rằng:


“Tiên đế lo Hán-tặc không thể chung ngôi, vương nghiệp chẳng thể yên một nửa, nên uỷ thác cho thần thảo phạt giặc giã. Bởi Tiên đế sáng suốt, lượng được tài mọn của thần, nên biết rằng thần thảo phạt là lấy yếu đánh mạnh; nhưng nếu không đánh giặc nghiệp vương sẽ mất; chỉ ngồi mà đợi mất, ai sẽ chịu đánh giặc? Đó là cái cớ để Tiên đế ủy thác lại cho thần mà không nghi ngại. Từ ngày thần lĩnh mệnh, ăn không ngon, ngủ không yên, chỉ nghĩ đến việc Bắc chinh, nên trước dẫn quân xuống phương Nam, tháng năm vượt Lô giang, vào sâu nơi đất không cây, nhiều ngày đói khát. Thần chẳng phải không tiếc thân mình, bởi vương nghiệp chẳng được toàn vẹn ở Thục đô, nên phải xông pha vào chốn nguy nam để khỏi phụ lòng Tiên đế, mà kẻ nghị luận bảo rằng chẳng phải kế hay. Nay kẻ địch đang mỏi mệt ở phía tây, lại lo lắng ở phía Đông, binh pháp dạy rằng phải thừa lúc địch đang mệt nhọc mà đánh tới. Thần cẩn trọng xin tấu trình mọi nhẽ:


Cao Đế(32) sáng tựa nhật nguyệt, mưu thần uyên bác, thế mà phải vượt mọi hiểm nguy chịu thương, bị nguy rồi sau mới được an. Nay bệ hạ chưa thể sánh bằng Cao Đế, mưu thần chẳng được như Lương-Bình(33) mà lại muốn lấy kế lâu dài để thủ thắng, ngồi yên để an định thiên hạ, đó là điều thứ nhất thần không hiểu nổi.


Lưu Do-Vương Lãng(34) chiếm cứ châu quận, lập kế sách vỗ yên, dẫn dụ lời thánh nhân, mọi người còn mang lòng ngờ vực, khó nói ra lời, năm này không ra đánh, năm sau chẳng cất quân, khiến cho Tôn Sách ngày càng mạnh mẽ, thâu tóm cả xứ Giang Đông, đó là điều thứ hai thần không hiểu nổi.


Tào Tháo mưu kế kỳ tuyệt hơn người, dùng binh phảng phất như Tôn- Ngô(35), thế mà vẫn bị khốn ở Nam Dương, gặp hiểm ở Ô Sào, nguy nan ở Kỳ Liên, bị bức ở Lê Dương, mấy lần thua trận ở Bắc Sơn, suýt chết ở Đồng Quan, sau mới tạm yên định được một thời, huống chi thần tài mọn, lại muốn không trải nguy nan mà yên định được, đó là điều thứ ba thần không hiểu nổi.


Tào Tháo năm lần đánh Xương Bá mà không xong, bốn lần vượt Sào Hồ mà không thành, tin dùng Lý Phục mà Lý Phục mưu mô, uỷ thác cho Hạ Hầu mà Hạ Hầu bại trận, Tiên đế thường khen Tào Tháo là người tài giỏi, còn có chỗ kém ấy, huống hồ thần là kẻ kém cỏi, lẽ nào lại nắm chắc phần thắng? Đó là điều thứ tư mà thần không hiểu nổi.


Từ lúc thần đến Hán Trung, trong khoảng một năm, đã mất Triệu Vân(36), Dương Quần, Mã Ngọc, Diễm Chi, Đinh Lập, Bạch Thọ, Lưu Cáp, Đặng Đồng, cùng hơn bảy chục tướng giữ đồn, là những mãnh tướng ít thấy. Những Tán kỵ, Vũ kỵ người Tung-Tẩu-Thanh Khương cũng mất hơn một nghìn người, những người ấy đều là tinh hoa thu thập trong vài chục năm, từ bốn phương, chẳng phải từ một châu mà có được, thế mà chỉ vài năm, đã mất đến hai phần ba, biết lấy gì để đánh giặc? Đó là điều thứ năm thần không hiểu nổi.


Nay dân nghèo quân mỏi, việc lại chẳng thể dừng, việc chẳng thể dừng, tất phải chạy ngược chạy xuôi tổn tâm hao trí, mà nay chẳng sớm liệu, muốn lấy một châu để mưu toan đánh giặc lâu dài, đó là điều thứ sáu thần không hiểu nổi.


Việc khó bàn định, chính là việc ấy vậy. Xưa kia Tiên Đế thua quân ở Sở, lúc bấy giờ, Tào Tháo vỗ tay, bảo là thiên hạ đã định. Sau này Tiên đế liên minh với Ngô-Việt ở phía đông, giữ Ba-Thục ở phía tây, cất quân bắc chinh, Hạ Hầu mất đầu, ấy là Tháo thất kế mà nghiệp Hán sắp thành vậy. Về sau Đông Ngô phản bội minh ước, Quan Vũ bị diệt, rồi sai lầm vấp ngã ở Tỷ Quy, Tào Phi xưng đế. Phàm những việc như thế, khó mà biết đến được. Thần cúc cung tận tuỵ, đến chết mới thôi, đến như việc thành bại được mất, chẳng phải thần sáng suốt hay đủ tài năng mà biết trước được”.


Liền đó có chiến dịch Tán Quan. Biểu này không có trong Gia Cát Lượng tập, mà thấy được ở sách Mặc ký của Trương Nghiễm(37).


Mùa đông, Lượng lại ra Tán Quan, vây Trần Thương, Tào Chân chống cự, Lượng hết lương phải quay về. Nguỵ tướng Vương Song dẫn kỵ binh truy đuổi Lượng, Lượng giao chiến, phá được, chém chết Song. Năm thứ bảy, Lượng sai Trần Thức tiến công Vũ Đô-Âm Bình. Thứ sử Ung Châu nhà Nguỵ là Quách Hoài dẫn quân muốn tập kích Thức, Lượng tự mình dẫn quân ra Kiến Uy, Hoài phải lui binh, Lượng lấy được hai quận ấy. 


Hậu chủ viết chiếu gửi Lượng, rằng: “Chiến dịch Nhai Đình, lỗi bởi Mã Tốc, khanh lại lấy làm lỗi của mình, tự xin biếm chức, bởi tôn trọng ý kiến của khanh, trẫm miễn cưỡng thuận theo. Song năm trước khanh đã làm rạng danh quân ta, chém chết Vương Song mang tai trái về dâng; năm nay viễn chinh, Quách Hoài phải trốn chạy, hàng phục được các bộ tộc Đê-Khương, thu về hai quận, uy trấn kẻ hung nghịch, công trạng đã rõ rệt. Nay thiên hạ đang nhiễu loạn, kẻ địch đầu sỏ chưa bị tiêu diệt, khanh vâng mệnh gánh vác việc lớn, là rường cột quan trọng của quốc gia, mà ở địa vị uỷ khuất đã lâu, chẳng phải là điều hay để biểu dương kẻ sỹ. Nay phục chức Thừa tướng cho khanh, xin chớ chối từ”.


Hán Tấn xuân thu chép: Năm ấy, Tôn Quyền xưng tôn hào(38), cùng quần thần suy tôn nhị đế(39) bá cáo thiên hạ. Mọi người bàn luận cho rằng việc giao hiếu là vô ích, mà danh bất thuận, nên sáng rõ chính nghĩa(40), cắt đứt minh ước. 

Lượng nói: “Quyền có tâm ý tiếm nghịch đã lâu, quốc gia sở dĩ bỏ qua ý đồ gây hấn ấy, cầu lấy thế ỷ giốc cứu giúp nhau. Nay nếu công nhiên tuyệt giao với họ, ắt thù hận của họ với ta rất sâu sắc, đương nhiên chúng ta phải dời quân sang đông, cùng với họ đấu lực, thôn tính đất đai của họ, rồi mới tính đến chuyện Trung nguyên. Hiềm vì bên ấy hiền tài đông đúc, đồng lòng nhất ý, chưa thể một sớm dẹp yên. Dừng binh giằng co, ngồi mà đợi già, khiến kẻ địch ở phương bắc được lợi, chẳng phải là thượng sách. 

Xưa Hiếu Văn phải nhún nhường với Hung Nô(41), Tiên đế cùng với Ngô kết minh, đều là ứng với cái lẽ quyền mưu biến thông vậy, cần phải nghĩ tới lưọi ích sâu xa, chớ nên làm việc lỗ mãng gây chia rẽ. Nay bàn định đều cho rằng Quyền được lợi ở thế ba chân đỉnh, chẳng ngang sức với người, ước vọng đã được mãn nguyện, mà chẳng có ý muốn lên bờ nữa, xét điều ấy, tưởng rằng đúng mà lại sai. Sao vậy? Bởi vì Quyền trí lực chẳng đủ, nên chỉ giới hạn ở Trường Giang tự thủ; Quyền chẳng đủ sức vượt Trường Giang, cũng như giặc Nguỵ chẳng thể vượt qua Hán Thuỷ, đều chẳng phải lực có thừa mà thấy lợi chẳng làm. 

Nếu nay ta mang đại quân thảo phạt, trên thì cùng với họ phân chia đất đai(42) mưu tính về sau, dưới thì thu lấy dân mở rộng bờ cõi, bày ra uy vũ bên trong, họ chẳng ngồi yên vậy. Ví bằng họ án binh bất động giữ tình hoà hảo, khi ta Bắc phạt, chẳng phải lo nghĩ về phía Đông, mà địch quân ở Hà Nam chẳng dám về hết phía Tây, cái lợi ấy, cũng đã là to lớn lắm rồi. Cái tội tiếm xưng của Quyền, chưa nên làm rõ vậy”. Rồi sai Vệ uý Trần Chấn đến chúc mừng Quyền lên ngôi đế.


Năm thứ chín, Lượng lại ra Kỳ sơn, lấy trâu gỗ vận chuyển lương thảo. 


Hán Tấn xuân thu chép: Lượng vây Kỳ Sơn, cho vời vua rợ Tiên Ti là Kha Bỉ Năng, Bỉ Năng đến phía bắc Thạch Thành hưởng ứng Lượng. Bởi Đại tư mã Tào Chân nhà Nguỵ đang ốm, Tư mã Tuyên Vương từ Kinh Châu về triều, Nguỵ Minh nói: “Phương Tây có việc trọng đại, phi tướng quân không còn ai để phó thác nữa”. Rồi sai Tuyên Vương đi về Tây đến Trường An, đôn đốc bọn Trương Cáp, Phí Diệu, Đới Lăng, Quách Hoài. Tuyên Vương sai Diệu-Lăng giữ bốn nghìn tinh binh phòng thủ Thượng Nhai, còn lại đều sang tây cứu Kỳ Sơn. 

Cáp muốn chia binh đóng ở Ung-My, Tuyên Vương nói: “Ta đồ rằng để độc lập đảm đương việc nơi tiền tuyến, chỉ còn mỗi tướng quân vậy; nếu tướng quân chẳng gánh vác mà phân binh làm tiền hậu, lại giống như nước Sở chia quân làm ba cánh rồi bị Kình Bố đánh bại ngày trước(43).” Rồi tiến binh. Lượng chia vây đánh, lại thân chinh đón đánh Tuyên Vương ở Thượng Nhai. 

Quách Hoài-Phí Diệu tập kích Lượng, bị Lượng đánh tan, nhân đó gặt hết lúa mạch ở ngoài đồng, gặp Tuyên Vương ở phía đông Thượng Nhai, Tuyên Vương thu binh cậy hiểm mà giữ, hai bên không giao chiến, Lượng đành dẫn quân quay về. Tuyên Vương bám theo Lượng đến Lỗ Thành. Trương Cáp nói: “Bên kia từ xa đến đánh ta, muốn đánh không được, ấy là ta không đánh mà có lợi, muốn dụng kế lâu dài để kiềm chế họ. Vả lại Kỳ Sơn biết rằng đại quân ở gần đây, cũng yên tâm cố thủ, ta có thể dừng viện đóng binh giữ vững thế này, nên chia một đội kỳ binh, bất ngờ vòng phía sau đánh tập hậu, chứ chẳng nên tiến quân mà không dám quyết đấu, ngồi yên một chỗ khiến người dân mất cả hy vọng. Nay Lượng ít quân thiếu lương, cũng phải rút vậy” 

Tuyên Vương không nghe, vẫn bám theo Lượng. Đã vậy, lại lên núi lập doanh trại, nhất định không giao chiến. Giá Hủ-Nguỵ Bình mấy lần xin đánh, nhân đó nói: “Công sợ Thục như cọp, làm trò cười cho thiên hạ sao!” Tuyên vương lấy làm tức giận. 

Chư tướng đều xin đánh. Tháng năm ngày Tân Tị, mới sai Trương Cáp tấn công Hà Bình khi ấy đang canh giữ vòng vây phía Nam, còn tự mình ở trung quân đối đầu với Lượng. Lượng sai Nguỵ Diên-Cao Tường-Ngô Ban đến đánh, thắng lớn một trận, thu được ba ngàn thủ cấp cùng áo dầy, giáp đen năm ngàn bộ, cung cứng ba ngàn chiếc, Tuyên Vương quay về giữ vững doanh trại.


Sau Lượng hết lương phải lui quân, cùng Nguỵ tướng Trương Cáp giao chiến, bắn chết Cáp.


Việc thứ năm Quách Xung kể rằng: Nguỵ Minh đế thân chinh chống Thục, đóng ở Tràng An, sai Tuyên Vương đốc suất Trương Cáp cùng chư quân ở các xứ Ung-Lương hơn ba mươi vạn, ba quân ngầm tiến, nhằm hướng Kiếm Các. Lượng bấy giờ ở Kỳ Sơn, cờ quạt nghiêm chỉnh khí giới sắc bén, giữ vững những nơi hiểm yếu, cứ mười binh được thay hai, tại đó đang có tám vạn binh(44). Bấy giờ quân Nguỵ dàn trận, đúng lúc đổi binh,  các Tham tá đều cho rằng thế giặc cường thịnh, không có binh lực chẳng thể đối địch, nên quyền biến đình binh lại thêm một tháng, để giữ thanh thế. Lượng nói: “Ta là thống soái cầm quân, lấy đại tín làm gốc, nay lại thất tín, đó là việc người xưa lấy làm tiếc; quân lính được về đã thu xếp hành trang chờ đợi, vợ con ở nhà vươn cổ hạc trông ngóng từng ngày, dẫu gặp chinh chiến gian nguy, tín nghĩa chẳng thể bỏ”. Rồi cứ truyền lệnh cho quân lính được đi. Bởi thế kẻ được đi đều cảm động, xin ở lại đánh một trận, kẻ ở lại phấn chấn, dẫu chết cũng cam lòng. Chúng đều nói rằng: “Ân của Gia Cát công, chết cũng chẳng thể báo đáp được.” Đến ngày lâm trận, chẳng ai không rút đao tranh nhau xông lên, một địch nổi mười, giết Trương Cáp, đánh lui Tuyên Vương, đại thắng một trận, ấy chỉ bởi giữ vững chữ tín mà nên công vậy.


Luận rằng: Thần Tùng Chi xét: Lần trước Lượng ra Kỳ Sơn, Nguỵ Minh Đế đích thân dẫn quân đến Tràng An, năm ấy chẳng trở lại nữa. Vả lại đại quân của Lượng đang ở Quan-Lũng, người Nguỵ sao có thể vượt qua quân của Lượng để thẳng hướng Kiếm Các mà tới? Lượng ở chiến trường, vốn không tính ở lâu dài, sao lại cho quân Thục về nghỉ ngơi, đều là nói những lời trái với lẽ thường vậy. Tôn Thịnh-Tập Tạc Xỉ đã tìm kiếm những điểm dị đồng, không bỏ sót điều gì, mà đều không ghi chép lời Xung nói, biết lời ấy đa phần là ngang trái vậy.


Năm thứ mười hai, Lượng đem hết ba quân theo lối Tà Cốc tiến ra, lấy ngựa máy để vận chuyển, chiếm núi Võ Công trên Ngũ Trượng nguyên, cùng với Tư mã Tuyên vương đối trận ở bờ nam sông Vị. Lượng thường lo lắng việc lương thảo chẳng chuyển kịp, khiến chí của mình chẳng tỏ, bởi thế chia binh lập đồn điền, muốn làm kế ở lâu dài. Quân lính làm ruộng lẫn với dân nơi bãi sông Vị, mà trăm họ an cư, quân lính không có chút riêng tư.


Hán Tấn xuân thu chép: Lượng từ lúc đến, mấy lần dụ chiến. Tuyên Vương cũng dâng biểu về triều cố xin được đánh. Nguỵ sai Vệ uý Tân Bì cầm cờ tiết đến không cho đánh. Khương Duy nói với Lượng rằng: “Tân Tá Trị mang cờ tiết đến, quân giặc tất không ra đánh vậy.” Lượng nói: “Bên ấy vốn không muốn đánh, sở dĩ cố xin được đánh, cốt để yên bụng quân đấy thôi. Tướng ở trong quân, mệnh vua có chỗ không theo, ví như có thể thắng ta, há phải đi xa nghìn dặm để xin đánh sao!”


Nguỵ thị Xuân thu chép: Sứ của Lượng đến, Vương chỉ hỏi chuyện ăn ngủ và những việc làm hàng ngày, chẳng hỏi han gì đến việc binh. Sứ thưa rằng: “Gia Cát công thức khuya dậy sớm, án phạt từ hai mươi gậy trở lên, đều tự mình xét hỏi; mà mỗi bữa ăn chẳng được mấy thưng(45)“. Tuyên Vương nói: “Lượng sắp chết rồi vậy!”


Gia Cát lượng nghe xong, thầm không khỏi sốt ruột, nghĩ bụng "Tào Ngụy không phải lo lắng Đông Ngô, có thể dốc lực cản trở ta bắc phạt rồi". Thở dài một tiếng liền ngất ra.

Cầm giữ nhau hơn trăm ngày. Tháng tám năm ấy, Lượng ốm nặng, mất ở trong quân, lúc ấy được năm mươi tư tuổi.


Nguỵ thư chép: Lượng thế cùng hết lương, lo buồn tức giận đến thổ huyết, một đêm đốt nhang trong doanh rồi xua binh trốn chạy, vào tới cốc, đã phát bệnh mà chết.


Hán Tấn Xuân thu chép: “Lượng chết ở Quách thị ổ”.


Tấn Dương thu(46)chép: “Có ngôi sao màu đỏ có sừng nhọn, từ phía đông bắc bay về tây nam, rơi xuống doanh trại của Lượng, ba lần rơi xuống rồi lại bay lên, loé sáng rồi vụt tắt(47). Lát sau Lượng chết”.


Thần Tùng Chi cho rằng Lượng mất ở bãi sông Vị, người Nguỵ lần theo dấu vết lén đuổi theo, cái hình thế được thua, chưa thể lường được, mà bảo rằng Lượng bị thổ huyết, chỉ là nhân việc Lượng chết mà tự khoa trương vậy. Người như Khổng Minh là bậc mưu lược, há vì Trọng Đạt mà thổ huyết hay sao? Sau này Lưu Côn thua quân, có tấu lên Tấn Nguyên đế(48)rằng: “Lượng thua quân thổ huyết”, ấy là bởi tin theo những ghi chép hư hão mà nói vậy. Còn nói rằng vào cốc rồi chết, là bởi người Thục vào đến cốc mới phát tang vậy.


Đến khi quân Thục đã bỏ đi, Tuyên Vương đến xem xét quân doanh luỹ ở đó, nói: “Thật là kỳ tài thiên hạ vậy!”


Hán Tấn Xuân thu chép: Bọn Dương Nghi chỉnh đốn quân sĩ rút về, bách tính cấp báo Tuyên Vương, Tuyên Vương đuổi theo, Khương Duy vâng lệnh Nghi quay cờ gióng trống, nhằm hướng Tuyên Vương đón đánh, Tuyên Vương bèn lui binh, không dám bức bách. Bọn Nghi lại nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi, về đến cốc mới cho phát tang. Nhân chuyện Tuyên Vương sợ phải lui binh, trăm họ vì chuyện ấy có câu ngạn ngữ rằng: “Tử Gia Cát năng tẩu sinh Trọng Đạt(49)”. Có người mách chuyện ấy với Tuyên Vương, Tuyên Vương bảo: “Ta chỉ có thể liệu được việc sống, chẳng liệu được việc chết vậy!”


Lượng di mệnh được táng tại Định Quân Sơn thuộc Hán Trung, mộ phần tựa vào núi, mả chỉ đủ chứa quan tài, liệm bằng quần áo bình thường, không chôn theo tài vật. Chiếu viết rằng: “Chỉ ngài văn võ kiêm toàn, sáng suốt thành thực, chịu mệnh thác cô, đem thân phò trẫm, hưng dòng đã tuyệt, chí mưu dẹp loạn; sửa việc binh cơ, chinh chiến liền năm, thần vũ hiển hách, uy trấn tám phương, lập công lớn vào thời cuối Hán, công lao sánh tựa Y- Chu(50). Sao chẳng xót thương, việc lớn chưa thành, gặp bệnh mà thác! Lòng trẫm đớn đau, tim gan tan nát. Trọng người đức lớn công đầu, tên hiệu khắc sâu, danh còn sáng mãi về sau, tiếng thơm bất hủ. Nay sai sứ là Tả trung lang tướng Đỗ Quỳnh cầm cờ tiết, truy tặng ngài ấn thụ Thừa tướng Võ Hương Hầu, thuỵ hiệu Trung Vũ Hầu. Hồn thiêng có linh, xin về thượng hưởng. Than ôi thương thay! Than ôi thương thay!”


Lúc trước, Lượng tự viết biểu tâu lên Hậu chủ rằng: “Nhà thần ở Thành Đô có tám trăm gốc dâu, ruộng xấu mười lăm khoảng, cái ăn mặc của con cái xem ra đầy đủ. Đến như thần gánh vác việc ở bên ngoài, cũng chẳng có gì khác người, cái ăn cái mặc đều trông vào cửa quan, chẳng chút tơ hào cho riêng mình, ấy là để lâu dài thước tấc vậy. Đến ngày thần mất, trong nhà chẳng để thừa gấm vóc, bên ngoài không có điền sản dư dôi, chính là để khỏi phụ lại lòng tin tưởng của Bệ hạ vậy”. Sau này Lượng chết, quả đúng như lời đã nói.


CHÚ THÍCH

(29) Tức Hoàn Đế, Linh Đế nhà Đông Hán.

(30) Tư Mã Ý.

(31) Tức Tào Tuấn.

(32) Tức Hán Cao Tổ, người lập ra vương triều Tây Hán.

(33) Trương Lương, Trần Bình đều là những mưu thần nổi danh giúp Hán Cao tổ hưng vương nghiệp.

(34) Lưu Do là thứ sử Dương Châu, Vương Lãng là thái thú Cối Kê thuộc Giang Đông. Hai người này đều bị Tôn Sách đánh tan cả.

(35) Tôn Vũ, Ngô Khởi là những nhà quân sự tài giỏi đời Chiến quốc.

(36) Có một chi tiết đáng ngờ là Triệu Vân, một mãnh tướng hàng đầu của Thục Hán, ông mất sau khi Lượng ra quân phạt Nguỵ lần thứ hai, mà bài biểu này lại có trước đó? Vì sao Gia Cát Lượng có nhầm lẫn vô lý như thế? Đây là một chi tiết mà học giả đời sau suy luận rằng trước tác này không phải do Gia Cát Lượng viết ra.

(37) Trương Nghiễm tác giả sách Mặc Ký là người xứ Đông Ngô.

(38) Xưng đế.

(39) Tức là truy tôn Tôn Kiên, Tôn Sách.

(40) Nhà Thục Hán nối hương hoả nhà Hán, tự coi mình là chính thống. Ý các quan lại Thục Hán cho rằng Ngô xưng đế tức là tiếm xưng vậy.

(41) Nhà Hán thời Hiếu Văn Đế bị quân Hung Nô vào cướp phá, Hiếu Văn Đế phải cầu hoà với Hung Nô, gả công chúa cho vua Hung Nô.

(42) Tỏ ý đem quân Bắc phạt và cùng phân chia giang sơn của Tào Nguỵ.

(43) Hán Cao Tổ thống nhất thiên hạ, Kình Bố làm phản, đem quân đánh nước Sở. Tướng Sở muốn chia làm ba đạo quân, hòng cứu lẫn nhau, cho là hay. Có người nói: “Bố rất thạo việc dùng binh. Nay ta tách quân làm ba cánh, nếu một cánh quân bị bại tất hai cánh quân kia đều bỏ chạy, làm sao cứu được nhau?”. Tướng Sở không nghe, quả nhiên khi Bố đánh tan một cánh quân, hai cánh quân kia đều bỏ chạy cả.

(44) Tạm luận theo ý của sách Hán Tấn Xuân Thu như sau, Lượng xuất mười vạn quân bắc phạt, muốn cho quân sĩ được nghỉ ngơi, vậy nên mười vạn binh thì cho hai vạn binh được nghỉ ở tuyến sau, như vậy ở tiền tuyến luôn có tám vạn binh.

(45) Thưng tức là một lưng bát vậy.

(46) Sách của Tôn Thịnh, người nước Ngô.

(47) Nguyên văn: Vãng đại hoàn tiểu tức là lúc lớn lúc nhỏ, dịch thoát ý.

(48) Tấn Nguyên Đế là Tư Mã Duệ vua nhà Đông Tấn. Tư Mã Viêm lập nhà Tấn được mấy chục năm thì xảy loạn bát vương, Tấn Nguyên Đế sau chỉ làm chủ được vùng Giang Nam. Lưu Côn là bầy tôi của Tấn Nguyên Đế.

(49) Tức là “Gia Cát chết còn đuổi được Trọng Đạt sống”.

(50) Y Doãn, Chu Công là những hiền thần nổi tiếng đời nhà Thương, Chu.

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét