Lưu Bị, Gia Cát Lượng, Quan Vũ, Trương Phi |
GIA CÁT LƯỢNG TRUYỆN (Phần II)
Năm thứ năm, cất đại
quân ra bắc đóng ở Hán Trung, trước khi đi, dâng biểu tâu lên Hậu Chủ rằng:
“Tiên đế sáng nghiệp
chưa lâu nửa đường đã băng hà, nay thiên hạ chia ba, Ích châu mỏi mệt, quả là sự
nguy cấp tồn vong đã ở ngay trước mắt. Thế nên kẻ bầy tôi chầu chực chẳng dám
lười nhác ở bên trong, kẻ sĩ có chí trung thành vong thân ngoài cõi, là vì nhớ
đến cái ơn tri ngộ của Tiên đế, muốn đáp đền cùng Bệ hạ vậy. Bệ hạ nên rộng rãi
thánh minh, để sáng đức tốt của Tiên đế, thúc đẩy chí khí của kẻ sĩ, chẳng nên
làm bừa mà tự coi rẻ mình, dẫn dụ điều thất nghĩa, lấp con đường trung thực của
kẻ can gián. Trong cung phủ đều là một thể, tưởng thiện phạt ác, chẳng nên phân
biệt. Nếu như có điều sai phạm hoặc trung thiện, nên giao cho sở ty luận rõmà
thưởng phạt, để làm sáng tỏ đạo lý công bằng sáng suốt của Bệ hạ, không nên
riêng tư nghiêng lệch, khiến cho khuôn phép trong ngoài sai khác.
Bọn Thị trung, Thị
lang như Quách Du Chi-Phí Y-Đổng Doãn đều là những lương thần, biết toan tính
mà trung thuận, ấy là tiên đế đã lựa chọn và để lại cho bệ hạ. Ngu ý cho rằng
việc ở trong cung, chẳng kể lớn nhỏ, đều phải bàn kỹ với họ, sau mới thi hành,
như thế có thể bồi bổ thiếu sót, có ích rộng rãi. Tướng quân Hướng Sủng tính hạnh
thuần thục, hiểu rõ việc quân, được thử dùng ngày trước, Tiên đế khen là có tài
cán, thế nên mọi người bàn luận và tiến cử làm Đô đốc. Ngu ý cho rằng việc ở
trong doanh trại, ắt phải bàn bạc kỹ với ông ấy, ắt có thể khiến hàng ngũ hoà
thuận, định rõ hơn kém. Thân với hiền thần, xa lánh tiểu nhân, ấy là lẽ nhà Tiền
Hán đã hưng; thân với tiểu nhân, xa lánh hiền thần, ấy là lẽ nhà Hậu Hán đã
nghiêng đổ vậy. Thời Tiên đế còn sống, mỗi lần cùng với thần đàm luận về việc ấy,
không lần nào không than thở đau xót oán giận cho Hoàn-Linh(29). Các Thị trung,
Thượng thư, Trưởng sử, Tham quân đều là những bề tôi trung trinh đến chết, xin
Bệ hạ thân thiết và tin dùng họ, được thế tất nhà Hán hưng vượng, điều đó có thể
tính ngày mà đợi được vậy.
Thần vốn là kẻ áo vải,
đem thân cày ruộng ở Nam Dương, mong toàn tính mệnh ở đời loạn, chẳng cần nổi
tiếng với chư hầu. Tiên đế không coi thần là kẻ hèn mọn, đem lòng chiếu cố, ba
lần tìm đến kiếm thần nơi lều cỏ, hỏi thần về việc đương thời, bởi thế thần rất
cảm kích, nguyện theo Tiên đế ruổi rong. Sau gặp lúc nghiêng ngả, nhận việc giữa
lúc quân thua tướng bại, phụng mệnh lúc gian nguy, tính đến nay đã trải hai
mươi mốt năm.
Thần Tùng Chi xét rằng:
Lưu Bị thua chạy vào năm Kiến An thứ mười ba, sai Lượng đi sứ sang Ngô. Đến năm
Kiến Hưng thứ năm Lượng dâng biểu Bắc phạt, tính rõ chỉ có hai mươi năm. Như vậy
Bị cùng Lượng tương ngộ, trước lúc bại quân một năm vậy.
Tiên đế biết thần cẩn
thận, trước lúc lâm chung đã phó thác đại sự cho thần. Từ lúc phụng mệnh đến
nay, sớm khuya lo lắng, sợ phụ lại sự uỷ thác, làm tổn hại đến đức sáng suốt của
tiên đế, nên tháng năm vượt Lô giang, vào sâu nơi đất không cây. Hán thư địa lý
chí chép: Dòng Lô giang bắt đầu ở quận Tang ca huyện Câu Đinh. Nay phương Nam đã
định, binh giáp đầy đủ, đương lúc cần khích lệ ba quân, bắc định Trung nguyên,
dốc hết tài mọn, diệt trừ kẻ gian hung, trùng hưng Hán thất, trở lại cố đô. Như
thế thần mới báo đáp được Tiên đế, mà trung thành với chức phận mà bệ hạ đã
giao phó.
Còn như việc châm chước
lợi hại, bày tỏ lời trung, đã có Du Chi-Y-Doãn đảm nhiệm vậy. Những mong bệ hạ
uỷ thác để thần được đánh kẻ nghịch tặc phục hưng nhà Hán; nếu chẳng thành
công, xin bắt tội thần, để báo cáo cùng vong linh Tiên đế. Còn như chẳng tiến dẫn
được lời trung khiến cho đức không được hưng thịnh tất phải trách lỗi của Du
Chi-Y-Doãn; Bệ hạ nên tự mình toan tính, hỏi han đạo phải, xét nạp lời ngay,
tuân theo di chiếu của Tiên đế. Thần thụ ân mà cảm kích khôn cùng, nay đương ở
nơi xa, dâng biểu mà khóc, chẳng thể nói hết lời”.
Liền đó, Lượng đem
quân ra đóng ở Miện Dương.
"Không thành kế" chỉ là "chuyện hão" - lời Tam Quốc Chí |
Việc thứ ba Quách Xung nói rằng: Lượng đóng ở Dương Bình, sai Ngụy Diên dẫn binh Đông hạ, Lượng chỉ lưu một vạn quân giữ thành. Tấn Tuyên Đế(30) thống xuất hai mươi vạn binh chống Lượng, mà quân Diên bị lạc đường, Tuyên Đế theo lối tắt mà đến, còn cách Lượng chừng sáu mươi dặm, quân do thám báo với Tuyên Đế rằng Lượng ở trong thành binh đơn lực bạc. Lượng cũng biết Tuyên Đế sắp đến, tình thế bức bách, muốn chạy tới chỗ quân của Diên, nhưng khoảng cách quá xa, địch theo vết mà truy đuổi, tất không chạy kịp, tướng sỹ đều thất sắc, chẳng biết làm sao. Lượng tỏ ý thản nhiên, lệnh cho trong quân đều ngả cờ im trống, không được ra khỏi lều trại, lại sai mở toang bốn cửa thành, quét đất dọn rửa. Tuyên Đế thường nói Lượng là người cẩn trọng, mà giờ thấy thế bên kia yếu nhược, nghi có phục binh, bèn dẫn quân về phía bắc Thú Sơn. Hôm sau vào giờ ăn cơm, Lượng cười lớn bảo với các vị Tham tá thủ hạ rằng: “Tư Mã Ý tất bảo là ta khiếp nhược, chắc rằng có phục binh, ắt men theo núi mà chạy”. Quân do thám về báo lại, quả như lời Lượng nói. Tuyên Đế sau biết việc đó, rất lấy làm tiếc hận.
Luận rằng: Xét thấy
Dương Bình ở Hán Trung. Khi Lượng mới đóng quân ở Dương Bình, Tuyên Đế còn làm
đô đốc ở Kinh Châu, trấn giữ Uyển Thành, đến khi Tào Chân chết đi mới nắm quyền
ở Quan Trung chống giữ với Lượng. Nguỵ từng sai Tuyên Đế từ Uyển Thành đến Tây
Thành phạt Thục, gặp mưa dầm, chẳng nên công. Trước sau là thế, chẳng thể nào đến
Dương Bình giao chiến được. Nếu quả như lời Xung nói, Tuyên Đế có hai vạn quân,
lại biết Lượng binh ít lực yếu, dẫu nghi có quân mai phục, đúng ra phải bày đặt
bố phòng cẩn trọng, sao lại bỏ chạy ngay? Lại xét Nguỵ Diên truyện rằng: “Diên
thường theo Lượng ra quân, muốn xin riêng một vạn tinh binh, cùng với Lượng
theo đường khác hội quân ở Đồng Quan, Lượng kiềm chế không cho; Diên vẫn thường
nói Lượng nhút nhát, than thở rằng tài của mình chẳng được dùng hết”. Lượng còn
chẳng cho Diên riêng một vạn quân, sao được như lời Xung nói, là đang nắm giữ
trọng binh ở phía trước, mà tự thủ lại khinh xuất vậy? Vả lại Xung nói với Phù
Phong vương như thế, rõ ràng Tuyên Đế quá kém cỏi, nói chuyện với con lại chê
bai cha, lý chẳng thể dung, bảo rằng: “Phù Phong vương cho rằng lời của Xung là
đúng”, thế nên biết sách ấy dẫn toàn chuyện hão vậy.
Năm thứ sáu mùa xuân,
Lượng tung tin theo lối Tà Cốc ra lấy Mi thành, sai Triệu Vân-Đặng Chi làm nghi
binh, chiếm giữ Cơ Cốc. Đại tướng quân Tào Chân nhà Nguỵ cất quân chống cự. Lượng
thân cầm quân ra đóng ở Kì Sơn, quân nhung chỉnh tề, thưởng phạt đầy đủ mà hiệu
lệnh nghiêm minh. Ba quận Nam An, Thiên Thủy, An Định phản Nguỵ hưởng ứng Lượng.
Quan Trung rung động.
Nguỵ lược chép: Lúc
trước, quốc gia cho là Thục trung chỉ có một mình Lưu Bị. Bị đã chết, mấy năm
chẳng có động tĩnh gì, bởi thế cũng không tính chuyện phòng bị; Chợt nghe tin
Lượng xuất binh, trong triều ngoài dã đều kinh hãi, ở Lũng Hữu-Kỳ Sơn lại càng
đáng ngại, ba quận ấy cùng hưởng ứng Lượng.
Ngụy Minh Đế(31) sang
Tây trấn thủ Trường An, mệnh cho Trương Cáp chống cự Lượng. Lượng cử Mã Tắc đốc
suất ba quân ở trước trận cùng với Cáp đại chiến ở Nhai Đình. Tốc trái phép của
Lượng, hành động thất thố, bị Trương Cáp đánh tan. Lượng dời hơn một ngàn hộ
dân từ Tây Thành vào Hán Trung.
Việc thứ tư Quách
Xung nói rằng: Lượng ra Kỳ Sơn, hai quận Lũng Tây- Nam An hưởng ứng ra hàng, Lượng
lại vây Thiên Thuỷ, phá Ký Thành, bắt được Khương Duy, đuổi mấy ngàn trai gái
vào đất Thục. Mọi người đều đến mừng Lượng, Lượng cau mặt không vui tỏ vẻ
thương xót, tạ rằng: “Khắp trong thiên hạ, chẳng ai không phải dân Hán, uy lực
của quốc gia còn chưa dấy lên được, khiến cho bách tính phải khốn đốn trong miệng
sài lang. Mỗi người chết đi, đều là tội của Lượng, lấy việc ấy là mừng, ta
không thẹn sao được”. Bởi thế người Thục đều biết Lượng nuôi chí diệt Nguỵ, chẳng
phải chỉ là nói thác ra thế thôi vậy.
Luận rằng: “Lượng
nuôi chí diệt Nguỵ từ lâu, chẳng phải lúc ấy mọi người mới biết, vả lại bấy giờ
ra quân chẳng thành, bị tổn thất phải quay về, ba quận theo hàng chẳng thể lấy
được. Còn Khương Duy, chỉ là một kẻ thất phu ở Thiên Thuỷ, bắt được là tổn hại
cho nước Nguỵ sao? Được một nghìn nhà ở xứ Tây thành, chẳng bù nổi mất mát ở
Nhai Đình, coi đó là công lao, mà người Thục đều đến chúc mừng ư?
Lượng đem giết Tắc rồi
phanh thây để tạ tội với ba quân. Rồi viết sớ tâu lên Hậu Chủ rằng: “Thần vốn
tài hèn, trộm giữ ngôi cao, thân cầm mao việt thống soái ba quân, mà chẳng thể
nêu cao minh pháp, lâm việc sợ hãi, đến nỗi có việc trái mệnh lầm lỗi ở Nhai
Đình, ở phía Cơ Cốc cũng không sao phòng thủ được, những lỗi ấy đều là bởi thần
xét việc không đến nơi. Thần đã không sáng suốt nhìn người, làm việc u minh,
nghĩa Xuân Thu trách tại thống soái, chức phận của thần phải đảm đương lỗi ấy.
Xin tự biếm quan ba bậc, để phạt lỗi lầm”. Hậu chủ theo đó giáng Lượng làm Hữu
tướng quân, coi việc thừa tướng, vẫn nắm quyền thống soái như trước.
Hán Tấn Xuân thu
chép: Có kẻ khuyên Lượng tăng cường binh lực để đánh Nguỵ, Lượng nói: “Đại quân
của ta ở Kỳ Sơn-Cơ cốc đều nhiều hơn địch, thế mà chẳng thể phá giặc lại bị
quân giặc đánh tan, thế tất chẳng phải bởi binh lực yếu kém, mà bởi tại người cầm
đầu vậy. Nay ta muốn giảm binh xét tướng, sáng phép tỏ lỗi, tính đến cái đạo biến
thông mai sau; nếu chẳng làm được như thế, dẫu nhiều binh cũng chả ích gì! Từ
nay về sau, những người trung tín lo lắng vì quốc gia, nên chuyên cần sửa lỗi
cho ta, tất việc có thể nên, giặc sẽ bị tiêu diệt, cái công có thể nhón chân mà
đợi vậy.” Rồi xét kỹ từng việc nhỏ, nêu rõ những điểm mạnh, chỉ ra những lỗi lầm,
cáo rõ với thiên hạ, rồi luyện quân giảng võ, mưu toan việc về sau, lại kén chọn
binh sĩ để rèn luyện, để dân chúng quên đi thất bại đã qua. Lượng nghe tin Quyền
phá Tào Hưu, quân Nguỵ phải kéo về phía đông, Quan Trung suy yếu, tháng mười một
năm ấy, dâng biểu lên Hậu chủ rằng:
“Tiên đế lo Hán-tặc
không thể chung ngôi, vương nghiệp chẳng thể yên một nửa, nên uỷ thác cho thần
thảo phạt giặc giã. Bởi Tiên đế sáng suốt, lượng được tài mọn của thần, nên biết
rằng thần thảo phạt là lấy yếu đánh mạnh; nhưng nếu không đánh giặc nghiệp
vương sẽ mất; chỉ ngồi mà đợi mất, ai sẽ chịu đánh giặc? Đó là cái cớ để Tiên đế
ủy thác lại cho thần mà không nghi ngại. Từ ngày thần lĩnh mệnh, ăn không ngon,
ngủ không yên, chỉ nghĩ đến việc Bắc chinh, nên trước dẫn quân xuống phương
Nam, tháng năm vượt Lô giang, vào sâu nơi đất không cây, nhiều ngày đói khát.
Thần chẳng phải không tiếc thân mình, bởi vương nghiệp chẳng được toàn vẹn ở Thục
đô, nên phải xông pha vào chốn nguy nam để khỏi phụ lòng Tiên đế, mà kẻ nghị luận
bảo rằng chẳng phải kế hay. Nay kẻ địch đang mỏi mệt ở phía tây, lại lo lắng ở
phía Đông, binh pháp dạy rằng phải thừa lúc địch đang mệt nhọc mà đánh tới. Thần
cẩn trọng xin tấu trình mọi nhẽ:
Cao Đế(32) sáng tựa nhật
nguyệt, mưu thần uyên bác, thế mà phải vượt mọi hiểm nguy chịu thương, bị nguy
rồi sau mới được an. Nay bệ hạ chưa thể sánh bằng Cao Đế, mưu thần chẳng được
như Lương-Bình(33) mà lại muốn lấy kế lâu dài để thủ thắng, ngồi yên để an định
thiên hạ, đó là điều thứ nhất thần không hiểu nổi.
Lưu Do-Vương Lãng(34)
chiếm cứ châu quận, lập kế sách vỗ yên, dẫn dụ lời thánh nhân, mọi người còn
mang lòng ngờ vực, khó nói ra lời, năm này không ra đánh, năm sau chẳng cất
quân, khiến cho Tôn Sách ngày càng mạnh mẽ, thâu tóm cả xứ Giang Đông, đó là điều
thứ hai thần không hiểu nổi.
Tào Tháo mưu kế kỳ
tuyệt hơn người, dùng binh phảng phất như Tôn- Ngô(35), thế mà vẫn bị khốn ở
Nam Dương, gặp hiểm ở Ô Sào, nguy nan ở Kỳ Liên, bị bức ở Lê Dương, mấy lần
thua trận ở Bắc Sơn, suýt chết ở Đồng Quan, sau mới tạm yên định được một thời,
huống chi thần tài mọn, lại muốn không trải nguy nan mà yên định được, đó là điều
thứ ba thần không hiểu nổi.
Tào Tháo năm lần đánh
Xương Bá mà không xong, bốn lần vượt Sào Hồ mà không thành, tin dùng Lý Phục mà
Lý Phục mưu mô, uỷ thác cho Hạ Hầu mà Hạ Hầu bại trận, Tiên đế thường khen Tào
Tháo là người tài giỏi, còn có chỗ kém ấy, huống hồ thần là kẻ kém cỏi, lẽ nào
lại nắm chắc phần thắng? Đó là điều thứ tư mà thần không hiểu nổi.
Từ lúc thần đến Hán
Trung, trong khoảng một năm, đã mất Triệu Vân(36), Dương Quần, Mã Ngọc, Diễm
Chi, Đinh Lập, Bạch Thọ, Lưu Cáp, Đặng Đồng, cùng hơn bảy chục tướng giữ đồn,
là những mãnh tướng ít thấy. Những Tán kỵ, Vũ kỵ người Tung-Tẩu-Thanh Khương
cũng mất hơn một nghìn người, những người ấy đều là tinh hoa thu thập trong vài
chục năm, từ bốn phương, chẳng phải từ một châu mà có được, thế mà chỉ vài năm,
đã mất đến hai phần ba, biết lấy gì để đánh giặc? Đó là điều thứ năm thần không
hiểu nổi.
Nay dân nghèo quân mỏi,
việc lại chẳng thể dừng, việc chẳng thể dừng, tất phải chạy ngược chạy xuôi tổn
tâm hao trí, mà nay chẳng sớm liệu, muốn lấy một châu để mưu toan đánh giặc lâu
dài, đó là điều thứ sáu thần không hiểu nổi.
Việc khó bàn định,
chính là việc ấy vậy. Xưa kia Tiên Đế thua quân ở Sở, lúc bấy giờ, Tào Tháo vỗ
tay, bảo là thiên hạ đã định. Sau này Tiên đế liên minh với Ngô-Việt ở phía
đông, giữ Ba-Thục ở phía tây, cất quân bắc chinh, Hạ Hầu mất đầu, ấy là Tháo thất
kế mà nghiệp Hán sắp thành vậy. Về sau Đông Ngô phản bội minh ước, Quan Vũ bị
diệt, rồi sai lầm vấp ngã ở Tỷ Quy, Tào Phi xưng đế. Phàm những việc như thế,
khó mà biết đến được. Thần cúc cung tận tuỵ, đến chết mới thôi, đến như việc
thành bại được mất, chẳng phải thần sáng suốt hay đủ tài năng mà biết trước được”.
Liền đó có chiến dịch
Tán Quan. Biểu này không có trong Gia Cát Lượng tập, mà thấy được ở sách Mặc ký
của Trương Nghiễm(37).
Mùa đông, Lượng lại ra Tán Quan, vây Trần Thương, Tào Chân chống cự, Lượng hết lương phải quay về. Nguỵ tướng Vương Song dẫn kỵ binh truy đuổi Lượng, Lượng giao chiến, phá được, chém chết Song. Năm thứ bảy, Lượng sai Trần Thức tiến công Vũ Đô-Âm Bình. Thứ sử Ung Châu nhà Nguỵ là Quách Hoài dẫn quân muốn tập kích Thức, Lượng tự mình dẫn quân ra Kiến Uy, Hoài phải lui binh, Lượng lấy được hai quận ấy.
Hậu chủ viết
chiếu gửi Lượng, rằng: “Chiến dịch Nhai Đình, lỗi bởi Mã Tốc, khanh lại lấy làm
lỗi của mình, tự xin biếm chức, bởi tôn trọng ý kiến của khanh, trẫm miễn cưỡng
thuận theo. Song năm trước khanh đã làm rạng danh quân ta, chém chết Vương Song
mang tai trái về dâng; năm nay viễn chinh, Quách Hoài phải trốn chạy, hàng phục
được các bộ tộc Đê-Khương, thu về hai quận, uy trấn kẻ hung nghịch, công trạng
đã rõ rệt. Nay thiên hạ đang nhiễu loạn, kẻ địch đầu sỏ chưa bị tiêu diệt,
khanh vâng mệnh gánh vác việc lớn, là rường cột quan trọng của quốc gia, mà ở địa
vị uỷ khuất đã lâu, chẳng phải là điều hay để biểu dương kẻ sỹ. Nay phục chức
Thừa tướng cho khanh, xin chớ chối từ”.
Hán Tấn xuân thu chép: Năm ấy, Tôn Quyền xưng tôn hào(38), cùng quần thần suy tôn nhị đế(39) bá cáo thiên hạ. Mọi người bàn luận cho rằng việc giao hiếu là vô ích, mà danh bất thuận, nên sáng rõ chính nghĩa(40), cắt đứt minh ước.
Lượng nói: “Quyền có tâm ý tiếm nghịch đã lâu, quốc gia sở dĩ bỏ qua ý đồ gây hấn ấy, cầu lấy thế ỷ giốc cứu giúp nhau. Nay nếu công nhiên tuyệt giao với họ, ắt thù hận của họ với ta rất sâu sắc, đương nhiên chúng ta phải dời quân sang đông, cùng với họ đấu lực, thôn tính đất đai của họ, rồi mới tính đến chuyện Trung nguyên. Hiềm vì bên ấy hiền tài đông đúc, đồng lòng nhất ý, chưa thể một sớm dẹp yên. Dừng binh giằng co, ngồi mà đợi già, khiến kẻ địch ở phương bắc được lợi, chẳng phải là thượng sách.
Xưa Hiếu Văn phải nhún nhường với Hung Nô(41), Tiên đế cùng với Ngô kết minh, đều là ứng với cái lẽ quyền mưu biến thông vậy, cần phải nghĩ tới lưọi ích sâu xa, chớ nên làm việc lỗ mãng gây chia rẽ. Nay bàn định đều cho rằng Quyền được lợi ở thế ba chân đỉnh, chẳng ngang sức với người, ước vọng đã được mãn nguyện, mà chẳng có ý muốn lên bờ nữa, xét điều ấy, tưởng rằng đúng mà lại sai. Sao vậy? Bởi vì Quyền trí lực chẳng đủ, nên chỉ giới hạn ở Trường Giang tự thủ; Quyền chẳng đủ sức vượt Trường Giang, cũng như giặc Nguỵ chẳng thể vượt qua Hán Thuỷ, đều chẳng phải lực có thừa mà thấy lợi chẳng làm.
Nếu nay ta mang đại quân thảo phạt, trên thì cùng với họ phân chia đất đai(42) mưu tính về sau, dưới thì thu lấy dân mở rộng bờ cõi, bày ra uy vũ bên trong, họ chẳng ngồi yên vậy. Ví bằng họ án binh bất động giữ tình hoà hảo, khi ta Bắc phạt, chẳng phải lo nghĩ về phía Đông, mà địch quân ở Hà Nam chẳng dám về hết phía Tây, cái lợi ấy, cũng đã là to lớn lắm rồi. Cái tội tiếm xưng của Quyền, chưa nên làm rõ vậy”. Rồi sai Vệ uý Trần Chấn đến chúc mừng Quyền lên ngôi đế.
Năm thứ chín, Lượng lại ra Kỳ sơn, lấy trâu gỗ vận chuyển lương thảo.
Hán Tấn xuân thu chép: Lượng vây Kỳ Sơn, cho vời vua rợ Tiên Ti là Kha Bỉ Năng, Bỉ Năng đến phía bắc Thạch Thành hưởng ứng Lượng. Bởi Đại tư mã Tào Chân nhà Nguỵ đang ốm, Tư mã Tuyên Vương từ Kinh Châu về triều, Nguỵ Minh nói: “Phương Tây có việc trọng đại, phi tướng quân không còn ai để phó thác nữa”. Rồi sai Tuyên Vương đi về Tây đến Trường An, đôn đốc bọn Trương Cáp, Phí Diệu, Đới Lăng, Quách Hoài. Tuyên Vương sai Diệu-Lăng giữ bốn nghìn tinh binh phòng thủ Thượng Nhai, còn lại đều sang tây cứu Kỳ Sơn.
Cáp muốn chia binh đóng ở Ung-My, Tuyên Vương nói: “Ta đồ rằng để độc lập đảm đương việc nơi tiền tuyến, chỉ còn mỗi tướng quân vậy; nếu tướng quân chẳng gánh vác mà phân binh làm tiền hậu, lại giống như nước Sở chia quân làm ba cánh rồi bị Kình Bố đánh bại ngày trước(43).” Rồi tiến binh. Lượng chia vây đánh, lại thân chinh đón đánh Tuyên Vương ở Thượng Nhai.
Quách Hoài-Phí Diệu tập kích Lượng, bị Lượng đánh tan, nhân đó gặt hết lúa mạch ở ngoài đồng, gặp Tuyên Vương ở phía đông Thượng Nhai, Tuyên Vương thu binh cậy hiểm mà giữ, hai bên không giao chiến, Lượng đành dẫn quân quay về. Tuyên Vương bám theo Lượng đến Lỗ Thành. Trương Cáp nói: “Bên kia từ xa đến đánh ta, muốn đánh không được, ấy là ta không đánh mà có lợi, muốn dụng kế lâu dài để kiềm chế họ. Vả lại Kỳ Sơn biết rằng đại quân ở gần đây, cũng yên tâm cố thủ, ta có thể dừng viện đóng binh giữ vững thế này, nên chia một đội kỳ binh, bất ngờ vòng phía sau đánh tập hậu, chứ chẳng nên tiến quân mà không dám quyết đấu, ngồi yên một chỗ khiến người dân mất cả hy vọng. Nay Lượng ít quân thiếu lương, cũng phải rút vậy”
Tuyên Vương không nghe, vẫn bám theo Lượng. Đã vậy, lại lên núi lập doanh trại, nhất định không giao chiến. Giá Hủ-Nguỵ Bình mấy lần xin đánh, nhân đó nói: “Công sợ Thục như cọp, làm trò cười cho thiên hạ sao!” Tuyên vương lấy làm tức giận.
Chư tướng đều xin đánh. Tháng năm ngày Tân Tị, mới sai Trương Cáp tấn công Hà Bình khi ấy đang canh giữ vòng vây phía Nam, còn tự mình ở trung quân đối đầu với Lượng. Lượng sai Nguỵ Diên-Cao Tường-Ngô Ban đến đánh, thắng lớn một trận, thu được ba ngàn thủ cấp cùng áo dầy, giáp đen năm ngàn bộ, cung cứng ba ngàn chiếc, Tuyên Vương quay về giữ vững doanh trại.
Sau Lượng hết lương
phải lui quân, cùng Nguỵ tướng Trương Cáp giao chiến, bắn chết Cáp.
Việc thứ năm Quách
Xung kể rằng: Nguỵ Minh đế thân chinh chống Thục, đóng ở Tràng An, sai Tuyên
Vương đốc suất Trương Cáp cùng chư quân ở các xứ Ung-Lương hơn ba mươi vạn, ba
quân ngầm tiến, nhằm hướng Kiếm Các. Lượng bấy giờ ở Kỳ Sơn, cờ quạt nghiêm chỉnh
khí giới sắc bén, giữ vững những nơi hiểm yếu, cứ mười binh được thay hai, tại
đó đang có tám vạn binh(44). Bấy giờ quân Nguỵ dàn trận, đúng lúc đổi
binh, các Tham tá đều cho rằng thế giặc
cường thịnh, không có binh lực chẳng thể đối địch, nên quyền biến đình binh lại
thêm một tháng, để giữ thanh thế. Lượng nói: “Ta là thống soái cầm quân, lấy đại
tín làm gốc, nay lại thất tín, đó là việc người xưa lấy làm tiếc; quân lính được
về đã thu xếp hành trang chờ đợi, vợ con ở nhà vươn cổ hạc trông ngóng từng
ngày, dẫu gặp chinh chiến gian nguy, tín nghĩa chẳng thể bỏ”. Rồi cứ truyền lệnh
cho quân lính được đi. Bởi thế kẻ được đi đều cảm động, xin ở lại đánh một trận,
kẻ ở lại phấn chấn, dẫu chết cũng cam lòng. Chúng đều nói rằng: “Ân của Gia Cát
công, chết cũng chẳng thể báo đáp được.” Đến ngày lâm trận, chẳng ai không rút
đao tranh nhau xông lên, một địch nổi mười, giết Trương Cáp, đánh lui Tuyên
Vương, đại thắng một trận, ấy chỉ bởi giữ vững chữ tín mà nên công vậy.
Luận rằng: Thần Tùng
Chi xét: Lần trước Lượng ra Kỳ Sơn, Nguỵ Minh Đế đích thân dẫn quân đến Tràng
An, năm ấy chẳng trở lại nữa. Vả lại đại quân của Lượng đang ở Quan-Lũng, người
Nguỵ sao có thể vượt qua quân của Lượng để thẳng hướng Kiếm Các mà tới? Lượng ở
chiến trường, vốn không tính ở lâu dài, sao lại cho quân Thục về nghỉ ngơi, đều
là nói những lời trái với lẽ thường vậy. Tôn Thịnh-Tập Tạc Xỉ đã tìm kiếm những
điểm dị đồng, không bỏ sót điều gì, mà đều không ghi chép lời Xung nói, biết lời
ấy đa phần là ngang trái vậy.
Năm thứ mười hai, Lượng
đem hết ba quân theo lối Tà Cốc tiến ra, lấy ngựa máy để vận chuyển, chiếm núi
Võ Công trên Ngũ Trượng nguyên, cùng với Tư mã Tuyên vương đối trận ở bờ nam
sông Vị. Lượng thường lo lắng việc lương thảo chẳng chuyển kịp, khiến chí của
mình chẳng tỏ, bởi thế chia binh lập đồn điền, muốn làm kế ở lâu dài. Quân lính
làm ruộng lẫn với dân nơi bãi sông Vị, mà trăm họ an cư, quân lính không có
chút riêng tư.
Hán Tấn xuân thu
chép: Lượng từ lúc đến, mấy lần dụ chiến. Tuyên Vương cũng dâng biểu về triều cố
xin được đánh. Nguỵ sai Vệ uý Tân Bì cầm cờ tiết đến không cho đánh. Khương Duy
nói với Lượng rằng: “Tân Tá Trị mang cờ tiết đến, quân giặc tất không ra đánh vậy.”
Lượng nói: “Bên ấy vốn không muốn đánh, sở dĩ cố xin được đánh, cốt để yên bụng
quân đấy thôi. Tướng ở trong quân, mệnh vua có chỗ không theo, ví như có thể thắng
ta, há phải đi xa nghìn dặm để xin đánh sao!”
Nguỵ thị Xuân thu
chép: Sứ của Lượng đến, Vương chỉ hỏi chuyện ăn ngủ và những việc làm hàng
ngày, chẳng hỏi han gì đến việc binh. Sứ thưa rằng: “Gia Cát công thức khuya dậy
sớm, án phạt từ hai mươi gậy trở lên, đều tự mình xét hỏi; mà mỗi bữa ăn chẳng
được mấy thưng(45)“. Tuyên Vương nói: “Lượng sắp chết rồi vậy!”
Gia Cát lượng nghe xong, thầm không khỏi sốt ruột, nghĩ bụng "Tào Ngụy không phải lo lắng Đông Ngô, có thể dốc lực cản trở ta bắc phạt rồi". Thở dài một tiếng liền ngất ra.
Cầm giữ nhau hơn trăm ngày. Tháng tám năm ấy, Lượng ốm nặng, mất ở trong quân, lúc ấy được năm mươi tư tuổi.
Nguỵ thư chép: Lượng
thế cùng hết lương, lo buồn tức giận đến thổ huyết, một đêm đốt nhang trong
doanh rồi xua binh trốn chạy, vào tới cốc, đã phát bệnh mà chết.
Hán Tấn Xuân thu
chép: “Lượng chết ở Quách thị ổ”.
Tấn Dương
thu(46)chép: “Có ngôi sao màu đỏ có sừng nhọn, từ phía đông bắc bay về tây nam,
rơi xuống doanh trại của Lượng, ba lần rơi xuống rồi lại bay lên, loé sáng rồi
vụt tắt(47). Lát sau Lượng chết”.
Thần Tùng Chi cho rằng Lượng mất ở bãi sông Vị, người Nguỵ lần theo dấu vết lén đuổi theo, cái hình thế được thua, chưa thể lường được, mà bảo rằng Lượng bị thổ huyết, chỉ là nhân việc Lượng chết mà tự khoa trương vậy. Người như Khổng Minh là bậc mưu lược, há vì Trọng Đạt mà thổ huyết hay sao? Sau này Lưu Côn thua quân, có tấu lên Tấn Nguyên đế(48)rằng: “Lượng thua quân thổ huyết”, ấy là bởi tin theo những ghi chép hư hão mà nói vậy. Còn nói rằng vào cốc rồi chết, là bởi người Thục vào đến cốc mới phát tang vậy.
Đến khi quân Thục đã
bỏ đi, Tuyên Vương đến xem xét quân doanh luỹ ở đó, nói: “Thật là kỳ tài thiên
hạ vậy!”
Hán Tấn Xuân thu chép: Bọn Dương Nghi chỉnh đốn quân sĩ rút về, bách tính cấp báo Tuyên Vương, Tuyên Vương đuổi theo, Khương Duy vâng lệnh Nghi quay cờ gióng trống, nhằm hướng Tuyên Vương đón đánh, Tuyên Vương bèn lui binh, không dám bức bách. Bọn Nghi lại nghiêm chỉnh đội ngũ mà đi, về đến cốc mới cho phát tang. Nhân chuyện Tuyên Vương sợ phải lui binh, trăm họ vì chuyện ấy có câu ngạn ngữ rằng: “Tử Gia Cát năng tẩu sinh Trọng Đạt(49)”. Có người mách chuyện ấy với Tuyên Vương, Tuyên Vương bảo: “Ta chỉ có thể liệu được việc sống, chẳng liệu được việc chết vậy!”
Lượng di mệnh được
táng tại Định Quân Sơn thuộc Hán Trung, mộ phần tựa vào núi, mả chỉ đủ chứa
quan tài, liệm bằng quần áo bình thường, không chôn theo tài vật. Chiếu viết rằng:
“Chỉ ngài văn võ kiêm toàn, sáng suốt thành thực, chịu mệnh thác cô, đem thân
phò trẫm, hưng dòng đã tuyệt, chí mưu dẹp loạn; sửa việc binh cơ, chinh chiến
liền năm, thần vũ hiển hách, uy trấn tám phương, lập công lớn vào thời cuối
Hán, công lao sánh tựa Y- Chu(50). Sao chẳng xót thương, việc lớn chưa thành, gặp
bệnh mà thác! Lòng trẫm đớn đau, tim gan tan nát. Trọng người đức lớn công đầu,
tên hiệu khắc sâu, danh còn sáng mãi về sau, tiếng thơm bất hủ. Nay sai sứ là Tả
trung lang tướng Đỗ Quỳnh cầm cờ tiết, truy tặng ngài ấn thụ Thừa tướng Võ
Hương Hầu, thuỵ hiệu Trung Vũ Hầu. Hồn thiêng có linh, xin về thượng hưởng.
Than ôi thương thay! Than ôi thương thay!”
Lúc trước, Lượng tự
viết biểu tâu lên Hậu chủ rằng: “Nhà thần ở Thành Đô có tám trăm gốc dâu, ruộng
xấu mười lăm khoảng, cái ăn mặc của con cái xem ra đầy đủ. Đến như thần gánh
vác việc ở bên ngoài, cũng chẳng có gì khác người, cái ăn cái mặc đều trông vào
cửa quan, chẳng chút tơ hào cho riêng mình, ấy là để lâu dài thước tấc vậy. Đến
ngày thần mất, trong nhà chẳng để thừa gấm vóc, bên ngoài không có điền sản dư
dôi, chính là để khỏi phụ lại lòng tin tưởng của Bệ hạ vậy”. Sau này Lượng chết,
quả đúng như lời đã nói.
CHÚ THÍCH
(29) Tức Hoàn Đế, Linh Đế nhà Đông Hán.
(30) Tư Mã Ý.
(31) Tức Tào Tuấn.
(32) Tức Hán Cao Tổ,
người lập ra vương triều Tây Hán.
(33) Trương Lương, Trần
Bình đều là những mưu thần nổi danh giúp Hán Cao tổ hưng vương nghiệp.
(34) Lưu Do là thứ sử
Dương Châu, Vương Lãng là thái thú Cối Kê thuộc Giang Đông. Hai người này đều bị
Tôn Sách đánh tan cả.
(35) Tôn Vũ, Ngô Khởi
là những nhà quân sự tài giỏi đời Chiến quốc.
(36) Có một chi tiết
đáng ngờ là Triệu Vân, một mãnh tướng hàng đầu của Thục Hán, ông mất sau khi Lượng
ra quân phạt Nguỵ lần thứ hai, mà bài biểu này lại có trước đó? Vì sao Gia Cát
Lượng có nhầm lẫn vô lý như thế? Đây là một chi tiết mà học giả đời sau suy luận
rằng trước tác này không phải do Gia Cát Lượng viết ra.
(37) Trương Nghiễm
tác giả sách Mặc Ký là người xứ Đông Ngô.
(38) Xưng đế.
(39) Tức là truy tôn
Tôn Kiên, Tôn Sách.
(40) Nhà Thục Hán nối
hương hoả nhà Hán, tự coi mình là chính thống. Ý các quan lại Thục Hán cho rằng
Ngô xưng đế tức là tiếm xưng vậy.
(41) Nhà Hán thời Hiếu
Văn Đế bị quân Hung Nô vào cướp phá, Hiếu Văn Đế phải cầu hoà với Hung Nô, gả
công chúa cho vua Hung Nô.
(42) Tỏ ý đem quân Bắc
phạt và cùng phân chia giang sơn của Tào Nguỵ.
(43) Hán Cao Tổ thống
nhất thiên hạ, Kình Bố làm phản, đem quân đánh nước Sở. Tướng Sở muốn chia làm
ba đạo quân, hòng cứu lẫn nhau, cho là hay. Có người nói: “Bố rất thạo việc
dùng binh. Nay ta tách quân làm ba cánh, nếu một cánh quân bị bại tất hai cánh
quân kia đều bỏ chạy, làm sao cứu được nhau?”. Tướng Sở không nghe, quả nhiên
khi Bố đánh tan một cánh quân, hai cánh quân kia đều bỏ chạy cả.
(44) Tạm luận theo ý
của sách Hán Tấn Xuân Thu như sau, Lượng xuất mười vạn quân bắc phạt, muốn cho
quân sĩ được nghỉ ngơi, vậy nên mười vạn binh thì cho hai vạn binh được nghỉ ở
tuyến sau, như vậy ở tiền tuyến luôn có tám vạn binh.
(45) Thưng tức là một
lưng bát vậy.
(46) Sách của Tôn Thịnh,
người nước Ngô.
(47) Nguyên văn: Vãng
đại hoàn tiểu tức là lúc lớn lúc nhỏ, dịch thoát ý.
(48) Tấn Nguyên Đế là
Tư Mã Duệ vua nhà Đông Tấn. Tư Mã Viêm lập nhà Tấn được mấy chục năm thì xảy loạn
bát vương, Tấn Nguyên Đế sau chỉ làm chủ được vùng Giang Nam. Lưu Côn là bầy
tôi của Tấn Nguyên Đế.
(49) Tức là “Gia Cát
chết còn đuổi được Trọng Đạt sống”.
(50) Y Doãn, Chu Công
là những hiền thần nổi tiếng đời nhà Thương, Chu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét