Bộ bình gốm thu nhỏ bộ binh và kỵ binh Tây Hán, được khai quật năm 1990 ở lăng mộ Hán Cảnh Đế |
7. PHẦN II Thời Quân Chủ - Giai đoạn đầu Hán
thịnh, Hồ còn yếu
TỔNG QUAN VỀ THỜI QUÂN CHỦ
1. Tần Thủy Hoàng chấm dứt thời phong kiến dài non ngàn năm và mở
đầu thời Quân chủ đế quốc dài nhất trong lịch sử Trung Hoa, trên hai ngàn năm.
Khi ông mất thì dân tộc Trung Hoa đã có đủ những yếu tố của một
nền văn minh rực rỡ và đặc biệt: đất đai rất rộng mà liền một khối (khác hẳn đế
quốc La Mã), bằng hai phần ba châu Âu ngày nay; dân số đông nhất thời đó:
khoảng 40 triệu người; một tổ chức hành chánh tập quyền, mạnh về võ bị; một nền
nông nghiệp tiến bộ nhờ sự phát triển về thủy lợi; công nghiệp gồm đồ gốm, đồ
đồng đời Thương rất đẹp, đồ sắt rất bén; kiến trúc có một công trình đồ sộ: Vạn
lí trường thành, nhiều đường sá tốt, rộng, nhiều cung điện và lăng tẩm nguy nga
(tiếc rằng nay không còn đấu vết vì hầu hết dùng gỗ làm vật liệu), nhất là một
nền triết học rất nhân bản, thực tế mà nhiều vẻ; một nền văn học với những thơ
văn bất hủ; và một nền khoa học tuy còn bập bẹ, kém La Mã, nhưng cũng đã có một
số phát minh... ấy là chưa kể đến một lối chữ tượng hình, biểu ý không giống
một lối nào.
Nhà Hán, non một thế kỉ dò dẫm, tạo nên một chế độ quân chủ đặc
biệt mà tôi muốn gọi là chế độ quân chủ sĩ trị, nghĩa là ngôi vua thì thế tập,
truyền tử mà quan lại các cấp thì là kẻ sĩ được tuyển, chứ không ở trong giai
cấp quí tộc như chế độ quân chủ của phương Tây. Nền quân chủ đó tuy chuyên chế
nhưng theo nguyên tắc, vẫn trọng ý dân, do các sử quan và gián quan phát biểu.
Nó được các đời sau củng cố, mở rộng ra và sửa đổi tùy hoàn cảnh bên ngoài,
nhưng những nét chính thì vẫn giữ đủ, khiến nhiều học giả phương Tây ngạc nhiên
rằng trong khi các nền văn minh khác bị tiêu diệt thì nền văn minh Trung Hoa
vẫn đứng vững, hơn nền văn minh Ấn Độ nữa. Dân tộc và văn hóa Trung Hoa có một
sức kết hợp, một nguyên động lực ra sao mà có thời trong nước bị chia năm xẻ
bảy, có thời lại bị ngoại nhân cai trị cả mấy trăm năm, mà khi lấy lại chủ
quyền rồi, thống nhất lại rồi, thì nền văn hóa của họ vẫn thuần nhất. Hình như
sau mỗi lần nguy kịch, họ được tiếp huyết để rồi mạnh hơn trước. Họ biết mau
thích hợp với hoàn cảnh, cương quyết tiếp thu cái mới mẻ của ngoại nhân, biết
thích ứng mả vẫn giữ được căn bản của họ. Có lẽ như vậy là nhờ họ tin ở nòi
giống của họ, ở số đông của họ, ở văn hóa đặc biệt của họ?
Họ mạnh nhờ chữ viết của họ, đoàn kết họ với nhau. Họ tôn quân
nhưng vua phải trọng ý của họ, nếu không thì họ lật đổ. Hễ tài sản (đất đai) mà
bất quân quá thì họ nổi loạn và nhà cầm quyền lâu lâu phải tìm cách chia lại.
Họ được truyền thống của đạo Khổng, coi trọng sự tu thân, tề gia và kính kẻ sĩ
áo vải hơn cả những kẻ giàu sang nhất trong nước.
°
2. Đọc lịch sử Trung Hoa thời Đế Quốc, tức thời Quân chủ chuyên
chế, chúng ta thấy tất cả các triều đại chỉ lo đối phó với ba vấn đề:
- Giữ được sự nội trị: thời thì theo chế độ quận quốc nửa phân
quyền, nửa tập quyền như đời Hán, đời Đường, giao bớt quyền hành trung ương cho
các thân thích hoặc đại thần tận trung để họ gần như tự ý cai trị các địa
phương ở xa; thời thì trái lại, như đời Tống, đời Thanh, theo chế độ trung ương
tập quyền, tước hết quyền hành của thái thú địa phương, kiểm soát họ chặt chẽ
để họ khỏi làm phản.
- Phân phát đất đai cho dân cày để đừng có sự cách biệt quá giữa
kẻ giàu và người nghèo, kẻ giàu khỏi có thế lực quá mạnh mà người nghèo khó
điêu đứng đến nỗi không còn sợ chết nữa, "đành bỏ thí cái thân mà cha mẹ
vợ con trông cậy vào, để làm đạo tặc" (lời Tô Tuân); và nông dân Trung Hoa
rất hay nổi loạn, thời nào cũng lập những hội kín để chống chính quyền.
- Chống đỡ ngoại xâm ở hai mặt: bắc và tây, vì đông là biển, họ
khỏi phải lo cho tới khi tàu chiến của phương Tây vào hải phận họ; còn về phía
nam, các dân tộc như Việt Nam, Miến Điện, đất hẹp, người ít, chuyên về nông
nghiệp, ưa hòa bình, không làm cho họ phải bận tâm lắm, trái lại hễ lấn được là
họ lấn. Trái lại về phía tây và phía bắc, các dân tộc hung hăng hiếu chiến, vẫn
thường quấy nhiễu, uy hiếp họ nhiều lần, chinh phục được họ nữa; luôn luôn họ
phải gian nan chống đỡ và chính vì vậy mà họ mở mang thêm được đất đai như đời
Hán. Có thể nói lịch sử đế quốc Trung Hoa là lịch sử tranh chấp giữa người Hán
và người Hồ (các rợ).
Nên nhớ thêm điểm này nữa, ở trên tôi đã nói qua: chế độ quân
chủ của Trung Quốc thường bị cái họa ngoại thích và hoạn quan mà phương Tây
không có. Ngay từ thời Tây Chu, hễ nhà vua còn nhỏ hoặc nhu nhược, nhất là
hoang dâm, thì anh em, họ hàng của hoàng hậu hoặc thái hậu, lập bè đảng để cướp
ngôi báu; từ đời Hán triều đình có thời đã phải dùng bọn hoạn quan để trừ ngoại
thích, do đó hoạn quan lộng quyền, sĩ phu và hoạn quan thanh toán lẫn nhau.
Thời nào mà ngoại thích và hoạn quan liên kết với nhau thì triều đại tất sụp
đổ.
°
3. Dưới đây là bảng các thời thịnh suy, thống nhất và phân tranh
của Trung Hoa từ đầu Hán tới cuối Thanh.
Như mọi dân tộc khác, dân tộc Trung Hoa mà sử thường gọi là
người Hán cứ một thời thịnh lại tới một thời suy.
Suy ít thì trong nước chia làm nhiều địa phương tự trị chống đối
nhau.
Suy nhiều hơn thì bị các rợ Bắc và Tây (tôi gọi chung là người
Hồ chiếm một phần, có khi trọn phương Bắc, tới sông Dương Tử.
Suy cùng cực thì bị mất luôn chủ quyền trong một hay nhiều thế
kỉ
Xét chung thì người Hán mạnh nhất ở đời Hán, Đường; đời Tống đã
bắt đầu suy (mặc dầu văn minh rực rỡ); từ đời Nguyên trở đi dân tộc Hán suy
nặng: trong non 6 thế kỉ rưỡi thì mất chủ quyền về Mông Cổ và Mãn Thanh trên 3
thế kỉ rưỡi. Trái lại đế quốc Trung Hoa thì nhờ Mông và Mãn mà bành trướng
thêm.
Vì vậy tôi chia thời đế quốc quân chủ Trung Hoa làm hai giai
đoạn:
- giai đoạn Hán thịnh, Hồ còn yếu (từ Hán đến Tống).
- giai đoạn Hán suy, Hồ mạnh lên (từ Nguyên tới Thanh).
Hán Cao Tổ Lưu Bang (256 TCN – 195 TCN), lãnh đạo thống nhất Trung Quốc, thành lập Nhà Hán. |
NHÀ
HÁN (-206 - +220)
Không kể nhà Chu thì nhà Hán là triều đại dài nhất của Trung
Hoa; trên bốn thế kỉ, từ -206 đến +220, chỉ gián đoạn trong 14 năm, thời Vương
Mãng thoán vị (+9 đến +23). Triều đại đó cũng là một trong những triều đại rực
rỡ nhất Trung Quốc và có công mở rộng đế quốc, lại lập chế độ quân chủ sĩ trị
cho đời sau, phát triển những nét chính của văn minh Trung Hoa.
Nó gồm hai thời đại:
- Tiền Hán, cũng gọi là Tây Hán, từ -206 đến +25, kinh đô ở
Tràng An (Tây An ngày nay).
- Hậu Hán, cũng gọi là Đông Hán, từ +25 đến +220, kinh đô ở Lạc
Dương.
Chúng ta nhận thấy, cũng như nhà Chu, khi nước mạnh thì kinh đô
ở phía Tây, khi nước yếu thì kinh đô dời qua Đông để xa các rợ Hung Nô.
A. TIỀN HÁN
1. Trong 65 năm đầu, từ Cao Tổ đến Cảnh đế, các vua Hán còn dò dẫm
một đường lối phát triển.
Cao Tổ 1 (Lưu
Bang) vốn là một nông dân vô học, làm đình trưởng (như cai trạm) thời nhà Tần,
nhờ bọn sĩ Tiêu Hà, Trương Lương, Hàn Tín, Trần Bình, Anh Bố, Bành Việt... mà
thắng được Sở Bá Vương (Hạng Võ), cho đó toàn là công của mình, có thể không
dùng tới họ nữa, có lần mắng Lục Giả rằng: "Ta ngồi trên mình ngựa mà được
thiên hạ, đâu cần đọc Thi, Thư", thậm chí lột mũ của bọn nho sinh, liệng
xuống đất rồi đái vào.
Nhưng rồi ông ta cũng phải nhận rằng có thể ngồi trên lưng ngựa
mà chiếm thiên hạ, chứ không thể ngồi trên lưng ngựa mà trị thiên hạ, nên phải
nghe lời Thúc Tôn Thông, Lục Giả, Lịch Tự Cơ theo phép tắc thời trước mà đặt ra
triều nghi, từ đó triều đình mới có trật tự, có vẻ tôn nghiêm.
Tuy nhiên ông vẫn cấm đạo Nho, vẫn không bỏ hiệp thư (lệnh đốt
sách Nho); mà cũng như Tần Thủy Hoàng, rất mê Đạo giáo (tức một biến thái của
Lão giáo, không còn là một triết học cao siêu nữa mà thiên về dị đoan, tìm phép
trưởng sinh bất tử, (sẽ nói sau).
Ông vô tài mà lại độc tài, mới đầu thưởng công họ, như phong Hàn
Tín làm Sở Vương, Bành Việt làm Lương Vương, Anh Bố làm Hoài Nam Vương..., sau
nghi kị họ, chỉ sợ họ lật đổ mình, nên Tín, Việt, kế nhau đều bị tru di tam
tộc; Bố sợ họa đến mình, cử binh làm phản, thua rồi chết, chỉ có Trương Lương
lả sáng suốt như Phạm Lãi thời Xuân Thu, biết tránh trước cái họa, công thành
rồi thì bỏ hết danh lợi mà về ở ẩn 2.
Ông cầm quyền chỉ được bảy tám năm rồi chết, nên chỉ tạm tổ chức
được hành chánh, mà đại khái vẫn giữ chế độ của Tần, không thay đổi gì nhiều.
Ông thấy nhà Tần vì bỏ chế độ phong kiến mà thành cô lập, đến nỗi mất nước, còn
nhà Chu thì phong vương cho chư hầu nhiều quá, sau triều đình nhà Chu không
thống trị họ nổi, để họ uy hiếp, rồi khuynh đảo, nên ông dung hòa hai chế độ,
một mặt phong vương cho họ hàng và các công thần cai trị các yếu địa (các đất
đó gọi là quốc), còn lại thì chia làm quận (dưới quận là huyện), trực thuộc
trung ương. Chế độ kiêm dụng quốc và quận đó gọi là chế độ "quận
quốc".
Cũng như Tần Thủy Hoàng, ông ghét thương mà khuyến khích nông;
giảm nhẹ thuế má, ai khẩn hoang được đất mới thì mấy năm đầu miễn thuế, cho
quân lính được giải ngũ, về nhà làm ruộng.
Việc bổ dụng các quan, tự ông quyết định, và ông tin dùng bọn
điền chủ phú nông; họ hơi có học, có tài sản, được dân trong miền kính nể, họ
lại thu thuế giỏi, mà nhiệm vụ quan trọng nhất của các quan quận, huyện thời đó
là thu thuế. Lần lần bọn đó thành một giai cấp vừa giàu vừa có chức, sau này
khi nho học được trọng dụng, mới thêm bọn nho sĩ.
Về việc đối ngoại, đặc biệt với Hung Nô, chúng tôi sẽ xét sau.
2. Huệ đế và Lữ hậu.
Huệ đế kế vị, bị Lữ thái hậu (vợ Cao Tổ) tranh quyền, ở ngôi chỉ
được 7 năm (-194-188), chỉ mới hủy bỏ luật hiệp thư (năm -191), rồi thì chết vì
hoang dâm. Kế đó là một thời loạn trong gia đình họ Lưu, Lữ thái hậu phế Thiếu
đế tên là Cung rồi ngầm giết Cung, lập Hoằng Sơn Vương tên là Nghĩa, làm đế,
nhưng không cải hiệu, nắm hết chính quyền. Bà đàn áp công thần, lần lần sát hại
kẻ sĩ có uy tín mà không tòng phục bà rồi phong vương cho họ hàng mình. Như vậy
là cái họa ngoại thích đã bắt đầu phát rồi. Để củng cố quyền hành, bà muốn trở
lại chế độ phong kiến, nhưng bị họ Lưu và triều đình hầu hết là giai cấp mới
cầm quyền (địa chủ và kẻ sĩ) chống đối dữ dội. Bà nắm quyền cũng chi được bảy
năm rồi chết (-187-180). Tức thì bọn sĩ (Chu Bột, Trần Bình) phản động lại,
chém hết cả họ hàng của Lữ. Lần đó là lần đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc mà
bọn sĩ lợi dụng mâu thuẫn giữa các bọn quí tộc (họ Lưu và họ Lữ) và nắm được
hết quyền hành trong triều đình, bắt bọn quí tộc phải kiêng nể mình.
3. Văn đế và Cảnh đế
Tiếp theo là một thời tương đối thịnh trị dài 40 năm dưới triều
Văn đế (-179-155), con Cao Tổ, và Cảnh đế (-156-139) con Văn đế.
Hai ông vua đó đều theo cả đạo Khổng lẫn đạo Lão, nhân và kiệm,
sống giản dị 3, để
dân tự do làm ăn, ít can thiệp vào đời sống của họ, bỏ nhục hình, bỏ lệ cống,
miễn thuế ruộng đất trong nhiều năm, lấy đức hóa dân, từ quan tới dân đều chất
phác, trọng hậu, hình phạt không dùng đến.
Dân số tăng lên, đất đai được khai phá thêm, sản xuất được
nhiều. Một điểm đặc biệt là triều đình cho dân được đúc tiền đồng, do đó mà sự
trao đổi dễ dàng, thương mãi tiến bộ. Tại các châu thành, giới điền chủ và sĩ
đông lên và giàu thêm, sống như giới quí tộc thời phong kiến, nhưng giản dị
hơn, có thì giờ nghiên cứu đạo Khổng và đạo Lão trong cổ văn (coi một đoạn
sau). Người ta mở trường dạy học và đạo Khổng được trọng dụng: ai muốn làm quan
cũng học đạo Khổng. Theo Eberhard, trong Histoire de la Chine thì cuối thế kỉ
II trước Tây lịch (thời Văn đế) đã có những cuộc thi để tuyển quan lại, nhưng
theo tôi đó chỉ là nhưng cuộc khảo sát xem thí sinh có biết đọc biết viết
không, chứ chưa dùng thơ phú để tuyển như thời sau. Trường mở để dạy con các
công chức, mà viên quan ở quận nào cũng có quyền đề cử thí sinh, như vậy thì
con quan lại làm quan là lẽ dĩ nhiên. Những người được đề cử đó được coi là
Hiếu liêm, theo nguyên tắc phải là có đức, cứ mỗi năm mỗi quận lựa một người.
Điều đó tiến bộ hơn đời Tần. Kết quả chưa tốt đẹp lắm: bọn phú hào vẫn mua quan
cho con được, cho nên trong dân gian thời đó đã có lời mỉa mai: "Hiếu liêm
mà không liêm", "Hễ phú quý thì là hiền", nhưng vẫn còn hơn chế
độ tập tước.
Trong thời hai ông vua đó, nước giàu mà dân sung sướng, mặc dầu
gặp vài thiên tai: hạn hán và lụt, nhưng không ai chết đói.
Theo sử chép thì kho của triều đình chứa đầy tiền, để lâu không
dùng tới, dây cột tiền mục ra; còn lẫm thì đầy lúa, có khi hư, phải đổ đi.
Những người dân nghèo cũng có được một con ngựa hay con bò, được ăn thịt. Tuy
nhiên, Văn đế hiền quá, thiếu cương quyết, bọn chư hầu dần dần kiêu căng, Hung
Nô càng không kiêng nể, do đó, Cảnh đế trong 16 năm cầm quyền phải lo dẹp một
cuộc nổi loạn của bảy chư hầu ở Ngô, Sở, Triệu... và đối phó với Hung Nô.
4. Võ đế 4
Ông là con Cảnh đế mà tính tình khác hẳn cha, ở ngôi rất lâu, 53
năm (-140-87). Độc tài, nóng nảy, cương quyết, nhiều tham vọng, nhưng cũng rất
nhiều mưu lược tài năng, rất sùng Nho học, không theo chính sách ít can thiệp
vào việc dân (vô vi của Lão, như ông cha, mà ưa đạo thần tiên (Đạo giáo) như
Cao Tổ, Tần Thủy Hoàng. Cơ hồ bọn vua độc tài thời đó đều muốn trường sinh bất
tử cả.
Thấy đời vua cha, bọn thất vương làm phản, ông quyết tâm bỏ hẳn
chế độ phong kiến. Một mặt ông dùng thuật của Pháp gia để trị bọn chư hầu quí
tộc (sai kẻ thân tín giúp việc họ để do thám họ, chặn mưu phản của họ và lần
lần tước hết quyền hành, đất đai của họ); một mặt ông đề cao Khổng học, đặt ra
chức ngũ kinh, bác sĩ, tuyển dụng những kẻ tài năng như Công Tôn Hoằng, rồi lại
thay đổi triều chính, sửa lại lịch, định lễ phong (tế trời) và thiền (tế đất),
xây cất cung điện.
Như vậy là ông dùng cả Pháp lẫn Nho mà hoàn thành được cuộc cách
mạng về chính trị, củng cố được chính thể quân chủ chuyên chế: quyền hành tập
trung vào cả triều đình và giao phó cho kẻ sĩ có tài năng do dân tiến cử và do
nhà vua tuyển dụng. Bọn quí tộc, bọn "phụ huynh" (cha anh nhà vua vẫn
còn được hưởng nhiều đặc quyền, nhưng phải tuân lệnh vua và tể tướng. Chính
sách tuyển nhân tài để trị dân đó, tiến bộ hơn châu Âu nhiều (châu Âu mãi tới
thế kỉ XVIII) mới theo kịp hơn cả Ấn Độ. Chỉ ở Trung Hoa và Ấn Độ, giai cấp
lãnh đạo là giai cấp trí thức; nhưng ở Ấn Độ, giai cấp đó gồm các tu sĩ
(Bà-la-môn chứ không phải là công chức (quan lại như Trung Hoa, mà quan lại
Trung Hoa do học hành, thi cử, chứ không do thế tập, hay do giai cấp mà nắm
quyền hành. Thực ra quan lại Trung Hoa không phải là một giai cấp như ở Ấn, cha
làm quan mà con dốt thì cũng chỉ là thường dân, thường dân mà học giỏi thì cũng
được làm quan, còn các Bà-la-môn ở Ấn Độ thì sinh ra đã là Bà-la-môn, ở trong
giai cấp cao rồi, mặc dầu có kẻ dốt nát, không chịu học vẫn là Bà-la- môn.
°
Muốn diệt cái họa Hung Nô và mở mang thêm bờ cõi (coi ở sau thì
quân đội phải mạnh, quân luật phải nghiêm, và ông dùng chính sách của Pháp gia.
Võ đế không tha thứ những tướng lỡ thua địch, không xét hoàn cảnh, tình thế của
họ, cứ thẳng tay trừng trị, thành thử có nhiều tướng thua trận không dám về
triều mà đành phải hàng địch. Thấy vậy, ông càng tàn nhẫn, tru di tam tộc (họ
cha, họ mẹ, họ vợ những tướng hàng địch, như trường hợp Lí Lăng. Không ai dám
trái ý ông, chỉ tỏ vẻ bất mãn, bất phục cũng đủ cho ông trị tội rồi. Vì vậy
không ai dám can gián. Tư Mã Thiên chỉ vì bênh vực Lí Lăng mà ông bắt chịu một
tội nhục nhã nhất thời đó: tội bị thiến.
Nhưng ông thưởng những tướng thắng trận cũng rất hậu: phải có
quân công mới được phong tước hầu. Văn quan không ai được tước đó.
Một điểm nữa ông chịu ảnh hưởng của Pháp gia là ông rất chuyên
chế. Nho gia chỉ trung với ông vua có đủ tư cách, đáng cho mình thờ; nếu không
thì có thể bỏ mà thờ ông vua khác, như Khổng Tử đã bỏ vua Lỗ. Chính pháp gia
mới đưa ra quan niệm "trung thần bất sự nhị quân". Hơn nữa họ trọng
cái "thế" (quyền thế của vua tới mức khiến vua hóa ra độc tài, bắt bề
tôi chết thì không kể phải trái, bề tôi cũng phải chết, không chết thì không
trung (quân xử thần tử, thần bất tử, bất trung). Từ Hán Võ đế trở đi, quan niệm
đó được các vua chấp nhận, và hình như không có nhà Nho nào phản đối, mà nền
quân chủ của Trung Hoa hóa ra chuyên chế, mặc dầu cũng có một số ông vua nhân
từ, theo đúng đạo Khổng.
°
Năm nào cũng chinh phạt, mà Võ đế lại xa xỉ, xây cất thêm nhiều
cung thất, cho nên triều đình luôn luôn thiếu tiền. Muốn có tiền, ông dùng ba
cách dưới đây:
- phát hành một thứ tiền làm bằng hợp kim bạc và thiếc, như vậy
trữ kim tăng lên; ông lại đặt ra một thứ tiền bằng da nữa,
- bán tước và cho chuộc tội bằng tiền; Tư Mã Thiên vì nghèo, bạn
bè không ai giúp, nên không chuộc tội được mà chịu nhục suốt đời,
- tuyên bố bao nhiêu tài nguyên trong nước thuộc về quốc gia
hết, như vậy "tư nhân không thể chiếm các nguồn lợi của núi, biến làm của
riêng mà thao túng các giai cấp thấp hơn".
Triều đình giữ độc quyền cất và bán rượu, độc quyền làm muối,
khai thác các mỏ sắt, năm -119 đặt ra chức quan coi về sắt, muối, gọi là diêm
thiết quan.
Vấn đề độc quyền sắt, muối không phải chỉ là một vấn đề kinh tế,
mà còn là một vấn đề chính trị, gây một sự tranh luận sôi nổi giữa phái theo
Nho và phái theo Pháp (Pháp trị), tôi sẽ xét thêm ở sau.
Nhưng ông có sáng kiến diệt bọn trung gian đầu cơ, bọn cho vay
nặng lãi hoặc chứa cất hàng hóa khi giá rẻ rồi bán cho dân khi giá đắt.
Ông tổ chức một cơ quan chuyên chở và trao đổi thuộc quyền quốc
gia, kiểm soát chặt chẽ thương mãi để giá cả khỏi thình lình lên xuống. Trong
khắp đế quốc đâu đâu cũng có những nhân viên của triều đình lo việc chuyên chở
và giao hàng. Lúc nào dư sản phẩm thì triều đình giữ lại, đợi lúc giá tăng thì
đem bán rẻ cho dân, hễ giá xuống thì lại mua vào để trữ; như vậy "bọn phú
thương không đầu cơ mà vơ được những món lợi lớn... và giá được bình lại."
Người ta ghi sổ tất cả những lợi tức của họ để thâu thuế hàng năm là 5%.
Ông lại cho khởi công nhiều công tác lớn để cho hàng triệu thợ
bị các xí nghiệp tư sa thải có công ăn việc làm, khỏi thất nghiệp: bắt cầu qua
sông, đào nhiều kinh để nối các con sông với nhau và để dẫn nước vô ruộng.
Marcel Granet, trong cuốn La civilisation Chinoise (Albin
Michel, 1948 bảo: "Chính sách đó thật cách mạng. Nếu Võ đế có tinh thần
kiên trì thì ông... đã tạo nên quốc gia Trung Hoa trong một xã hội mới
rồi...Nhưng ông chỉ biết nhìn cái lợi trước mất, làm cái gì gấp nhất, dùng
những phương tiện để giải quyết từng lúc một, xong rồi thì bỏ đi, chỉ dùng
những người mới một thời gian, hễ họ thành công, uy tín tăng lên có thể lấn át
ông được là ông hi sinh họ liền. Tính đa nghi của một ông vua chuyên chế, óc
thiển cận của bọn quan lập pháp tại triều khiến cho Trung Hoa bỏ lỡ cơ hội hiếm
nhất đó."
Sau mấy trận lụt xen với mấy cơn đại hạn kéo dài, vật giá tăng
vọt lên, dân chúng la ó, đòi trở lại chế độ cũ, bọn kinh doanh bất bình vì
triều đình can thiệp vào công việc của họ, thuế má nặng quá, không còn làm ăn
gì được; lại thêm bọn cung phi được sủng ái lấn át các đại thần, nên khi Võ đế
băng rồi, nạn tham nhũng lan tràn khắp nước, sự bóc lột kẻ nghèo yếu bắt đầu
trở lại, và trong non một thế kỉ, những cải cách của ông bị chê bai.
Nhưng ai cũng nhận rằng triều đại Võ đế là triều đại rực rỡ nhất
của nhà Hán: uy quyền được củng cố, trong nước được bình trị, bờ cõi được mở
mang (sẽ nói rõ ở sau), thương mãi thịnh vượng nhờ khuếch trương, sự giao thông
(đào kinh), nhờ liên lạc với các nước láng giềng, nhất là Tây Vực, miền ông mới
chiếm được, mà văn học cũng phát triển (sẽ xét ở sau nhờ ông trọng những nhà
Nho như Đổng Trọng Thư, và thích bọn văn nhân có tài làm phú ca tụng ông như Tư
Mã Tương Như.
Vương Mãng |
5. Vương Mãng biến pháp
Sau Võ đế đến Chiêu đế (lên ngôi hồi 8 tuổi, mất năm 21 tuổi,
không làm được gì và Tuyên đế ở ngôi 25 năm, chăm lo việc chính trị mà lập được
võ công: dẹp Hung Nô, đặt đô hộ ở Tây Vực chia rẽ hai Thiền vu (vua Hung Nô)
làm cho từ đó Hung Nô suy đi.
Nhưng rồi vì hoạn quan và ngoại thích, Hán bị Vương Mãng (một
ngoại thích) thoán quyền, mới đầu tự xưng là Giả Hoàng đế (nghĩa là thay quyền
Hoàng đế), sau tiếm hẳn ngôi vua, đổi quốc hiệu là Tân, năm 8 sau Tây lịch.
Ý kiến các sử gia Trung Hoa và Âu châu về Vương Mãng rất phân
vân. Người thì không hề nhắc tới, như M. Granet, coi là một nhân vật không quan
trọng. Người thì như Eberhard chê rằng khi biến pháp, Vương sửa cả cổ thư, cả
sử, giải thích theo ý ông ta để tỏ rằng mình theo đúng đạo tiên thánh thời xưa,
dùng những mánh khóe tuyên truyền ở thời đại chúng ta, mà những cải cách của
ông chỉ nhắm mỗi một mục đích là chiếm hết độc quyền khai thác tài nguyên, độc
quyền thương mãi, độc quyền cho vay, độc quyền có nô lệ là làm giàu cho quốc
gia, còn dân chúng phải chịu mọi thứ thuế: thuế câu cá ở sông rạch, thuế lượm
củi khô trên rừng; triều đình mua thì rẻ mà bán cho dân thì đắt, nhất là đòi nợ
của dân thì tàn nhẫn, không nương tay chút nào cả. Tôi nghĩ những lại chê trách
đó có thể đúng một phần nào, mà lỗi do kẻ thừa hành của Vương (ngay thời nay cũng
vậy) chứ không phải là chủ tâm của Vương.
Người thì hết lời khen ngợi Vương, như Will Durant trong tập Văn
minh Trung Quốc, cho Vương đúng là bậc quân tử Trung Hoa, sống đạm bạc (y như
Vương An Thạch đời Tống), có tiền thì phân phát cho người nghèo, mặc dầu rất
bận việc, phải tổ chức lại kinh tế, chính trị mà vẫn có thì giờ che chở văn
nhân, trau dồi thêm kiến thức thành một nhà bác học, và khi cầm quyền ông lựa
văn sĩ và triết gia chứ không dùng các chính trị gia nhà nghề.
Xúc động vì chế độ nô lệ phát triển mạnh trong các trang trại,
ông quốc hữu hóa tất cả ruộng (gọi là vương điền), như vậy đồng thời vừa diệt
chế độ nông nô, vừa diệt các tài sản lớn. Ông trở lại chính sách tỉnh điền thời
xưa, chia đều đất cho dân cày. Chủ trương của ông là diệt kẻ mạnh thôn tính đất
đai của kẻ yếu, khiến không có kẻ giàu người nghèo. Các điền chủ lớn dĩ nhiên
là bất bình.
Ông thu hết các doanh nghiệp lớn như khai mỏ, làm muối, nấu rượu
(việc này Võ đế đã làm rồi); hơn nữa nhà nước còn độc quyền khai thác rừng,
đầm, điều này làm cho dân nghèo bất bình, vì từ xưa họ vẫn không phải nộp thuế
đánh cá, đốn cây làm củi.
Các nghề nghiệp công thương phải nạp một thứ thuế bằng một phần
mười lợi tức thu được.
Ông thu về hết các thứ tiền đương lưu thông, đem đúc lại tiền
mới.
Đặt ra chức quan "tư thị" để mỗi năm bốn lần qui định
giá hàng hóa bắt người mua bán phải tuân theo.
Lại đặt chức quan "ngũ quân" để bình giá hàng hóa:
người buôn bán có hàng hóa bán không được thì nhà nước theo giá đã định mua
lấy, để khi giá hàng lên cao thì theo giá cũ mà bán ra cho dân.
Thêm chức quan "tuyền phủ" để cho nhân dân vay: nếu
vay để làm ma chay thì không lấy lời, nếu vay để làm ăn thì thu lời.
Biến pháp của ông thời đó rất mới mẻ, có tính cách nửa tư bản
nhà nước (capitalist d'état nửa xã hội (socialisme).
Ông mong rằng chính sách đó sẽ giúp triều đình có tiền để diệt
Hung Nô, mà lại công bằng, tài sản của kẻ giàu người nghèo không quá chênh
lệch, nhưng ông không ngờ rằng quốc gia đã chẳng lợi gì vì bọn tham quan ô lại
có cơ hội vơ vét của dân, nộp cho chính phủ rất ít, quốc khố vẫn rỗng; mà phản
động lực của bọn đại điền chủ, đại thương gia hợp với lòng oán than của dân
nghèo bị bọn thừa hành nhũng nhiễu, khiến cho chính sách của ông hoàn toàn thất
bại.
Giặc cướp nổi lên như ong sau một vài thiên tai. Đảng Xích Mi
(một hội kín của nông dân theo Đạo giáo, bôi lông mày đỏ), đông tới triệu
người, tiến quân lên kinh đô, gặp các quan lại, các đại điền chủ, phú thương là
chém giết. Vương Mãng phái quân đi dẹp thì một số quân qua phía nông dân.
Đảng đó vừa mới nổi thì tôn thất nhà Hán là Lưu Tú (cháu sáu đời
Cảnh đế cũng khởi binh. Vương Mãng đem quân tới đánh, nhưng hào kiệt bốn phương
nổi dậy hưởng ứng với quân Hán. Vương thua và Lưu Tú đem quân vào được Tràng
An.
Vương Mãng tin rằng mạng trời của mình chưa hết, không chết
được, nên không trốn, cứ bận long bào ngồi trên ngai đọc kinh của đạo Nho, rốt
cuộc bị một tên lính chặt đầu (năm +23). Như vậy là triều đại Tân chỉ được 15
năm.
Lưu Tú thắng được Vương Mãng rồi, quay lại dẹp đảng Xích Mi,
thành công, lên ngôi, mở đầu thời Hậu Hán.
Trong mấy năm nội loạn đó, mấy triệu dân chết vì họa binh đao
B. HẬU HÁN
6. Quang Võ
Lưu Tú lên ngôi, hiệu là Quang Võ. Ông thiên đô qua Lạc Dương,
nên nhà Hậu Hán cũng có tên là Đông Hán. Cũng như Thương, Chu, thời nào yếu thì
dời đô qua Đông.
Trong khoảng trên nửa thế kỉ, ba ông vua đầu có tư cách, cương
quyết nên nhà Hán trung hưng được.
Quang Võ ở ngôi trên ba chục năm, lập lại được trật tự trong
nước sau hai chục năm nhiễu loạn, chăm lo chính trị, giảm quan, bớt việc, nhẹ
thuế khóa, trong nước được thanh bình. Ông lại gây được uy thế ở nước ngoài:
sai Mã Viện sang Giao Chỉ (Việt Nam sau này) dẹp cuộc khởi nghĩa của hai bà
Trưng vì chính sách tàn bạo của Tô Định; các phiên bang lần lần qui phục.
Thấy thời Vương Mãng nhiều sĩ phu theo Vương, ông cho rằng đạo
Nho đã suy, ông lại đề cao đạo đó, mở mang việc học, lập đại học đầu tiên của
Trung Quốc (theo Tsui Chi), biểu dương khí tiết, cổ lệ thanh nghị, làm cho sĩ
phong rực rỡ: kẻ sĩ biết trọng danh tiết, lễ giáo không sợ quyền quí, không
tránh nguy hiểm, thành một giai cấp có uy tín, được triều đình và dân gian kính
nể.
Ông phong nhiều công thần làm chư hầu, mà công thần thường ở
trong giai cấp đại điền chủ. Thời loạn bọn phú thương càng dễ làm giàu, chiếm
địa vị cao. Nhiều nông dân thấy vậy bỏ đất ruộng, ra thành thị làm ăn, đường
phố chật những xe, bò, và ngựa của bọn con buôn. Vài ông vua đời sau thấy tình
trạng đó bất lợi cho xã hội, lại phải ức thương và khuyến nông.
Triều đình ban lệnh cấm thương nhân bận đồ tơ lụa, có xe và ngựa,
người ta đánh thuế họ rất nặng. Khi trật tự xã hội lập lại lần lần được rồi,
những lệnh đó bớt ngặt đi, nhưng con cái thương nhân vẫn không được làm quan,
không được mua đất. Mặc dầu vậy, họ vẫn phát đạt, và khi người ta có nhiều tiền
thì luật pháp nào cũng qua được hết. Thời nào cũng vậy.
Đời Minh đế, Chương đế tương đối còn thịnh trị, rồi từ đó trở đi
nhà Hán suy luôn.
Trương Giác |
7. Họa ngoại thích và hoạn quan. Giặc Hoàng Cân. Hậu Hán chấm
dứt
Các ông vua sau, có ông lên ngôi còn nhỏ quá, có ông ham tửu
sắc, bạc nhược, chết non, quyền hành vào tay thái hậu và bọn ngoại thích. Các
kẻ sĩ ở triều đình, trung với họ Lưu, muốn trừ bọn ngoại thích thì phải dùng
bọn hoạn quan làm tay trong, vì chỉ bọn chúng mới biết rõ những mưu mô hành
động của các bà hậu cùng anh em, họ hàng của các bà. Nhưng khi diệt được bọn
ngoại thích rồi thì bọn hoạn quan lại hống hách, diệt lại kẻ sĩ để đưa lên ngôi
một ông vua chúng có thể lung lạc được. Chúng giết thêm một trăm kẻ sĩ tiết
nghĩa cả gan dám chỉ trích chúng; hơn bảy trăm sĩ phu khác hoặc bị giam hoặc bị
đuổi về vườn, cấm cố chung thân. Vụ đó, sử gọi là "đảng cố", ở vào
cuối đời Hoàn đế (167 sau Tây lịch).
Non một thế kỉ, triều đình hóa loạn vì luôn luôn các phe, các
đảng chống đối nhau, tàn sát nhau. Các họ lớn, một số đại thần sống cực kì xa
hoa. Đầy tớ của họ cũng bận áo lụa áo gấm.
Một thân nhân của một hoàng hậu treo ở đòn tay nhà rất nhiều
châu ngọc để đêm tối thấy lấp lánh như ngôi sao và tỏa sáng như ánh trăng.
Trong vườn, người ta dựng những non bộ bằng vàng, bạc chạm rất khéo.
Một đám cưới mà xe nối đuôi nhau mấy cây số trên đường phố, màn
thêu, trướng gấm phất phới, kẻ hầu người hạ lăng xăng chật hai bên lề đường.
Đám tang còn tốn kém hơn nữa. Quan tài phải dùng một thứ gỗ quí
từ phía nam sông Dương Tử chở lên kinh đô. Chung quanh mộ trồng cả chục mẫu
tùng, bách và dựng những ngôi đền rất đẹp.
Sau vụ đảng cố, từ triều Linh đế, nhà Hán còn suy hơn nữa.
"Trong triều, hoạn quan và ngoại thích tranh nhau thay giữ chính quyền,
thuế khóa rất nặng, trăm họ khốn đốn. Ngoài xã hội thì bọn vương hầu, quí tộc,
phú hào, người nào nhà cửa cũng hằng trăm, ruộng tốt đầy nơi, tôi tớ từng bầy,
kẻ tới xu phụ có tới vạn mà đều ăn không ngồi rồi." Nông dân bị bóc lột
quá đỗi, số người đói rét nhan nhản khắp nơi, do đó mà sinh cuộc nổi loạn Hoàng
Cân (chít khăn vâng), ở Cự Lộc (Trực Lệ), đông tới 30 vạn người.
Người cầm đầu đảng đó, Trương Giác, theo Đạo giáo. Đã từ trên
hai thế kỉ trước, Đạo giáo tin ở thuật trường sinh bất tử, lập được nhiều hội
kín trong những điện nho nhỏ, được dân chúng vốn mê tín dị đoan, nhất là trong
các thời loạn, gia nhập khá đông. Các quan lại, sĩ phu theo đạo Khổng không ưa
họ, mà họ cũng chống lại triều đình. Khi triều đình suy nhược, nổi lên đánh phá
các nơi, chiếm các quận, huyện, hi vọng hễ lật được chính quyền thì lập một
trật tự mới, một xã hội mới, và đạo của họ sẽ thành quốc giáo.
Thanh thế của Hoàng Cân rất mạnh. Vua Linh đế sai Tào Tháo dẹp
được. Theo Eberhard thì hình như trong quân đội của Tháo có nhiều người Hung
Nô, mà chính sử tất nhiên không chép.
Hoàng Cân tuy bị dẹp, nhưng dư đảng vẫn còn, trở thành trộm
cướp, triều đình phải phái các đại thần làm quan châu, quan mục bốn phương để
trừ giặc, do đó sinh ra cái họa "quần hùng cát cứ" (các tướng lĩnh
cắt chiếm các miền), làm cho nhà Hán mất sau này.
Trong khi ấy bọn hoạn quan hoành hành, Đổng Trác giết được 2.000
hoạn quan, tự phong làm tướng quốc, nắm chính quyền; các tướng ở ngoài: Viên
Thiệu, Tôn Kiên, Lữ Bố, Tào Tháo... nổi lên đánh lẫn nhau, ai cũng tuyên bố là
phò vua mà sự thực là tranh nhau vua, tranh được vua rồi mà không giữ nổi kinh
đô thì bắt vua đi theo mình, vì vua giữ ấn, có gì xảy ra thì ấn về tay mình, và
mới có thể chính thức làm thiên tử được.
Tình hình rối beng, chép lại những cuộc tranh giành của họ chẳng
ích lợi gì. Chúng ta chỉ cần biết trong số quần hùng đó, Tào Tháo là tay kiệt
hiệt nhất, nắm được vua Hán lâu nhất, tự tôn là Ngụy vương; khi mất, con là Tào
Phì kế vị, ép vua Hán Hiến đế nhường ngôi cho mình. Phi lên ngôi hoàng đế tức
vua Văn đế nhà Ngụy (220). Nhà Hậu Hán chấm dứt, dài được 196 năm.
Tào Tháo sở dĩ thắng được địch thủ là nhờ rợ Hung Nô giúp sức,
và để thưởng công, ông ta cho 19 bộ lạc Hung Nô vào Sơn Tây định cư, dưới sự
canh chừng của quan nhà Hán, mong rằng chỉ ít lâu sau họ sẽ Hán hóa hết, không
ngờ họ đông quá mà chính quyền trong miền bạc nhược, lần lần họ lập được một
tiểu quốc có vua (Thiền vu), gây ra nhiều khó khăn cho người Hán trong bốn thế
kỉ sau.
C. CHỐNG NGOẠI XÂM - MỞ MANG ĐỂ QUỐC
1. Dẹp Hung Nô và các bộ lạc ở Tây Vực
Trở lên chúng ta đã xét chính sách đối nội của nhà Hán, tiết này
xét về chính sách đối ngoại với:
- Hung Nô ở phương bắc, các bộ lạc Tây Vực ở phía tây,
- Triều Tiên ở đông bắc,
- Các chủng tộc ở đông nam và tây nam.
Chúng ta chưa biết rõ nguồn gốc người Hung Nô; đại khái họ gồm
nhiêu bộ lạc Mông Cổ, Thổ Nhĩ Kì.. do Mông Cổ cầm đầu. Họ là những dân du mục ở
Trung Á, nuôi ngựa, bò, cừu, lạc đà..., không xây dựng thị trấn, mới đầu không
cày cấy, trồng trọt gì cả, cứ dời chỗ ở hoài tìm nơi nào có cỏ, có nước cho súc
vật; mùa lạnh, cánh đồng cỏ bị tuyết phủ thì họ dời xuống phương nam; mùa nóng,
tuyết tan họ lại dời lên phương bắc. Họ sống trong những lều bằng da, thức ăn
chủ yếu là thịt và sữa ngựa, bò, lạc đà...; quần áo toàn bằng da. Họ suốt ngày
sống trên lưng ngựa, thành những kị sĩ và xạ thủ rất tài. Ngay từ tuổi thơ, trẻ
con của họ đã cưỡi một con cừu, đeo một cây cung nhỏ đi bắn chim hay chuột, lớn
lên một chút chúng bắn thỏ và chồn. Vì vậy mà kị binh của họ vô địch. Nhưng
chúng ta đừng tưởng họ là dã man. Họ có một văn minh riêng của họ, khác với văn
minh nông nghiệp, thế thôi. Từ cuối thế kỉ III trước Tây lịch, họ đã trồng trọt
được một chút, có một tổ chúc xã hội, gần như xã hội phong kiến. Một quí tộc
nào đó mạnh hơn hết, cầm đầu, cai trị nhiều bộ lạc, những bộ lạc này lan ra,
xâm chiếm các bộ lạc lân cận, và thành ra có ba hạng bộ lạc: bộ lạc làm chúa,
bộ lạc thường và bộ lạc nô lệ.
Chúa của họ gọi là Thiền vu. Thiền vu thứ nhì là Mạo Đốn ở đầu
đời Hán, muốn bỏ chế độ phong kiến mà bắt chước chế độ trung ương tập quyền của
Trung Hoa. Hung Nô hóa mạnh lên, thường đột nhập biên cảnh Trung Hoa cướp phá
mùa màng. Vạn lí trường thành không hoàn toàn ngăn cản họ được, hễ Trung Hoa
loạn, yếu thì họ vẫn vượt qua được. Vả lại hình như thời đó đã có một số người
Trung Hoa di cư qua Hung Nô làm ruộng hoặc thợ thủ công, có kẻ làm cố vấn giúp
họ tổ chức hành chánh, chỉ cho họ chiến thuật phải dùng khi tranh đấu với một
đạo quân không phải là du mục. Họ không muốn tùy thuộc Trung Hoa về kinh tế:
bình thường thì họ đổi ngựa, da... lấy lúa của Trung Hoa, nhưng Trung Hoa có
thể không dùng ngựa của họ,.. mà họ cần có lúa của Trung Hoa, vì vậy họ luôn
luôn quấy rối các miền Cam Túc, Thiểm Tây, miền tây nam nội Mông Cổ, Sơn Tây,
có thời đến gần Tràng An nữa.
Họ muốn tranh hùng với Trung Hoa, cũng muốn làm thiên tử, có một
triều đình, bắt chước lễ nghi Trung Hoa. Đầu năm, họ tế tiên vương, tháng năm
họ tế trời đất; mỗi lần tế, các vua chư hầu tụ họp cả ở triều đình Thiền vu.
Mùa thu, họ hội họp để kiểm kê số dân và số súc vật.
Thường thường, lúc trăng tròn, họ đột nhập Trung Hoa cướp phá,
khi trăng khuyết nhiều thì rút lui, đem chiến lợi phẩm về chia nhau. Khi Lưu
Bang diệt được Tần, Hung Nô nhân thời loạn ở cuối Tần, Hung Nô đã chiếm được
phía bắc Trung Hoa, tới sông Hoàng Hà.
°
Suốt đời Hán, hầu hết các triều đại đều phải đối phó với Hung
Nô: khi yếu thì nhường nhịn họ, tặng họ vàng bạc, châu báu, lụa gấm, có khi
phải gả cả công chúa, dâng mĩ nhân cho Thiền vu của họ; khi mạnh thì tấn công;
chiến phí rất nặng: phải huấn luyện những đạo kị binh mạnh mẽ, phải mua nhiêu
ngựa của nước ngoài, phải đưa quân tiến sâu vào đất của địch, có khi xa biên
giới cả mấy ngàn cây số, mà vấn đề chuyển vận quân nhu, lương thực rất khó
khăn. Lại thêm chiếm được một nơi nào rồi phải lập đồn lũy, đóng quân để giữ,
tài chính sẽ hao hụt nhiều, cho nên các vua Hán phải vừa cương vừa nhu, vừa
đánh vừa ngoại giao, dùng mưu mô chia rẽ các bộ lạc, liên kết với nước này để
chống các nước khác, đề phòng họ tráo trở, ráng thu phục các nước nhỏ ở sát
biên giới để họ làm một hàng rào che đỡ Trung Hoa. Dĩ nhiên trước khi đem quân
xâm nhập một miền nào, phải có những nhà thám hiểm đò đường, tìm hiểu địa thế,
phong tục, nguồn lợi, chính trị miền đó đã. Sau mấy trăm năm kiên nhẫn, hi
sinh, dân tộc Trung Hoa đã thắng được mọi khó khăn, tạo được một đế quốc lớn
nhất thời đó, mở được đường qua phương Tây, truyền bá được văn minh ra nước
ngoài mà cũng tiếp thu được văn minh Ấn Độ, Ba Tư... Đó là công của nhà Hán
chẳng những đối với dân tộc họ mà cả với thế giới nữa.
Khi Cao Tổ mới lên ngôi, dân số giảm nhiều, kinh tế suy mà Hung
Nô đương thời thịnh, Thiền vu Mạo Đốn đem quân vào đánh cướp, Cao Tổ thân chinh
đi dẹp, thua, suýt nguy, may mà thoát được. Biết chưa đủ sức, Cao Tổ phải gả
con gái tôn thất cho Thiền vu để cầu hôn. Chính sách dùng hôn nhân để kết thân
trong lịch sử Trung Hoa bắt đầu từ đó. Hán hứa cung cấp lương thực, tơ lụa cho
Hung Nô và Hung Nô hứa không quấy phá nữa.
Đời Văn đế, Hung Nô chinh phục Tây Vực, một dải đất ở phía tây
nước Trung Hoa (tức Tân Cương ngày nay), gồm nhiều nước nhỏ như Lâu Lan
(Lobner), Xa Sư (Tourfan), Đại Uyển (Fergana), Sa Xa (Yarkand)... chế ngự các
dân tộc du mục ở phía bắc Trường thành, nghiễm nhiên thành một nước đối lập với
Trung Hoa, vua Hán phải tặng họ ngọc, lụa để cầu hòa, nhưng càng cho họ càng
đòi thêm, cũng nên nhận rằng Trung Quốc hay dùng mưu mô để gạt họ, thành thử
vẫn còn những vụ cướp bóc ở biên giới. Hung Nô nhiều khi bắt cóc người Trung
Hoa đem về nước, bắt phục vụ cho họ.
Võ đế có hùng tâm hơn, không chịu nhịn nữa, nhất định đánh, để
đẩy Hung Nô ra xa biên giới, có vậy mới chấm dút được những quấy phá của họ; bẻ
gãy uy quyền của họ ở Cam Túc, như vậy họ khỏi liên kết với Tây Tạng mà nguy
cho Trung Quốc; sau cùng - điểm này cũng quan trọng - để bảo vệ đường thông
thương qua phương Tây. Ngay từ thời Văn đế, Tràng An đã phát đạt về thương mãi
nhờ những đoàn thương nhân chở sản phẩm từ Trung đông qua. Hung Nô mà kiểm soát
được đường thông thương đó thì thiệt cho Trung Hoa nhiều. Ngoài ba lí do kể
trên, còn lí do thể diện nữa: không lẽ chịu nhục nhã, tặng Hung Nô hoài cả cống
phẩm lẫn công chúa.
Trong mươi năm đầu cầm quyền, ông còn lo thu xếp việc trong nước
và chuẩn bị, nên chỉ có những đụng độ nhỏ nhưng rất thường với Hung Nô. Từ năm
-127 trước Tây lịch, ông mới bắt đầu đại tấn công.
Thời đó, Hung Nô đã vượt Trường thành, xâm nhập miền bắc Trung
Hoa, ông đưa quân lên phía nam Hoàng Hà, đánh bại họ, lấy lại được Hà Nam,
"giết được hàng ngàn Hung Nô và bắt được cả triệu ngựa, bò, cừu." Đó
là trận đầu.
Sáu năm sau, năm 121, tướng Hán, Hoắc Khứ Bệnh, tiến lên phía tây
bắc, tới ranh giới tỉnh Cam Túc ngày nay, lại đại phá được Hung Nô, chia đất
chiếm được làm bốn khu vực, mỗi khu vực giao cho một tướng Hán cai trị, và ông
đưa dân Trung Hoa qua khai phá, truyền bá văn minh Trung Hoa. Như vậy là:
"cánh tay phải của địch bị chặt rồi", mà con đường thông với Tây Vực
đã được mở, quân Hán đi tới đâu thì thương nhân theo tới đó. Năm -119, Hoắc Khứ
Bệnh tấn công lần nữa, dùng những đoàn kị mã rất mạnh, Hung Nô bị thiệt hại
nhiều, Thiền vu của họ phải chạy trốn, rút lui lên phương bắc, và phía tây, tất
cả miền Cam Túc thành thuộc địa của Trung Hoa. Nhưng trong trận đó, quân Hán
cũng chết nhiều.
Người Trung Hoa từ đây làm chủ miền Tây Vực, đại khái là miền
Tân Cương ngày nay. Dân miền đó bán khai: một số còn là du mục, một số đã trồng
trọt, và các bộ lạc thường bị Hung Nô quấy phá, cướp bóc. Võ đế giao hảo với
họ, hai bên liên kết vế quân sự để cùng nhau chống Hung Nô.
Trước cuộc tấn công đầu tiên (-127), từ -138, Võ đế đã nhìn xa,
sai Trương Khiêm thông sứ Tây Vực, tới tận nước Đại Nhục Chi ở Trung Á, phía
bắc Ấn Độ, phía trên sông Indus. Xứ đó của giống người Indo-scythe, cũng bị
Hung Nô ức hiếp. Khiêm mạo hiểm qua các nước Ô Tôn, Đại Uyển, Khương Cư
(Sogolisne, nay là Boukhara, thuộc Turkestan russe). Hình như Khiêm tới cả Afganistan
ngày nay, hồi đó gọi là Đại Hạ nữa. Đến nước nào, Khiêm cũng tuyên dương uy đức
nhà Hán.
Về phương diện chính trị, cuộc thông sứ của ông không có kết
quả, nhưng trong 13 năm đi khắp miền Trung Á, ông đem về được rất nhiều tin tức
chính xác về miền Đại Tây (Grand Ouest) mà trước ông, người Trung Hoa chỉ biết
lờ mờ nhờ những lời thuật lại của các đoàn thương nhân. Từ đó Võ đế mới nghĩ
tới việc buôn bán với phương Tây mà thương mại của Trung Hoa có dịp phát triển.
Lần thông sứ đó thất bại, nhưng Võ đế vẫn chờ cơ hội khác. Vào khoảng đầu thế
kỉ thứ II trước Tây lịch, một ông vua Đại Nhục Chi bị Hung Nô chém đầu rồi dùng
cái sọ làm bình rượu, triều đình Đại Nhục Chi uất hận. Năm 100, Võ đế nắm lấy
cơ hội đó, sai Tô Vũ đi sứ Đại Nhục Chi nữa để hai nước liên kết đánh Hung Nô.
Dọc đường Tô Vũ bị Hung Nô bắt, không giết mà cũng không cho về, đành phải tạm
ở lại Hung Nô, chăn cừu sống với một phụ nữ Hung Nô trong núi, được một đứa
con, sau trốn thoát, chịu không biết bao nhiêu gian nan, tới được Đại Nhục Chi,
nhưng lúc này họ hết muốn trả thù Hung Nô rồi, chỉ muốn sống yên ổn, làm ruộng,
trồng trọt; Tô Vũ đành trở về tay không, trên đường lại bị Hung Nô bắt một lần
nữa.
Tô Vũ đi sứ năm 100 thì năm sau (99), tướng Hán là Lí Quảng Lợi
và Lí Lăng thua Hung Nô, Lí Lăng phải tạm đầu hàng đợi cơ hội trả thù, bị Võ đế
giết cả ba họ. Chín năm sau (90), Lí Quảng Lợi cũng thua Hung Nô và phải đầu
hàng nữa.
Tóm lại, mỗi bên đều có thắng, có bại và nạn Hung Nô vẫn chưa
dẹp yên.
Trên đường qua Đại Nhục Chi, Tô Vũ nhận thấy ở nước Đại Uyển
(Fergana), phía nam Sogoliané có một giống ngựa rất hung hăng, gọi là "hãn
huyết mã" (ngựa mà mồ hôi đỏ như máu). Võ đế rất thích loại ngựa quí đó,
phái người đem một ngàn đồng tiền vàng với một con ngựa bằng vàng để mua hãn
huyết mã. Vua Đại Uyển không chịu bán, người đi sứ nổi giận, xúc phạm vua Đại
Uyển, rồi trở về nước, giữa đường bị quân Đại Uyển phục kích giết. Võ đế bị
nhục, phái ngay 30 vạn quân tấn công Đại Uyển, ba năm chiến đấu mới tới được
kinh đô của Đại Uyển. Dân chúng sợ quá, giết vua để xin đầu hàng và xin tặng ba
ngàn con ngựa quí. Trên đường về, đoàn quân chiến thắng với ba ngàn con ngựa đó
làm cho các nước nhỏ phải kính nể rồi qui phục nhà Hán. Thật là một kết quả bất
ngờ. Thế của nhà Hán ở Tây Vực đã khá vững rồi.
Tuy nhiên người Trung Hoa vẫn phải đề phòng Hung Nô; gây sự bất
hòa, chia rẽ các bộ lạc Hung Nô, dùng đủ mưu mô do thám, phá hoại, nhờ vậy yên
ổn được trong nhiều năm.
Qua đời Tuyên đế, một bộ lạc ở Tây Vực, bộ lạc Ô Tôn, "mắt
xanh, râu đỏ, tướng như loài khỉ", muốn kết thân với Hán, xin cưới công
chúa Trung Hoa. Thiền Vu Hung Nô hay tin, đưa tối hậu thư: "Đuổi công chúa
Hán về đi, nếu không thì chiến tranh." Ô Tôn đành phải nhờ Hán che chở.
Năm 73 trước Tây lịch, liên quân Hán - Ô Tôn đại thắng quân Hung Nô: 4.000 người
chết, 70 vạn ngựa, bò, cừu, lạc đà bị cướp.
Năm sau, Hung Nô tấn công trả thù, thắng được ít trận nhỏ nhưng
trong khi rút quân với chiến lợi phẩm về thì chẳng may bị một cơn bão tuyết,
95% quân lính chết rét. Lợi dụng tình thế đó, Hán, Ô Tôn và vài kẻ thù khác của
Hung Nô cùng nhau tấn công một lúc: vậy là mùa đông đó, một phần vì chiến
tranh, một phần vì đói rét, một phần ba dân và một nửa súc vật của Hung Nô bị
giết.
Tranh vẽ Vương Chiêu Quân của họa sĩ người Nhật Bản |
Lại thêm những khó khăn nội bộ nữa: các thủ lĩnh bộ lạc tranh
quyền nhau, gây cảnh cốt nhục tương tàn. Trung Hoa do đó được yên trong khoảng
20 năm, rồi năm 54, Hung Nô hết nội loạn, mạnh lên, lại gây hấn, tấn công để
trừng phạt Ô Tôn. Hán tức thì đem quân vây kinh đô Hung Nô, giết được Thiền vu
của họ. Thiền vu nối ngôi cầu hòa, chỉ xin vua Hán gả cho mình một công chúa.
Vua Hán phải chiều lòng, bắt một cung phi tuyệt đẹp, nàng Chiêu Quân, gả cho
Hung Nô. Đây là vụ Chiêu Quân cống Hồ, làm đề tài cho các văn nhân thi sĩ đời
sau chép lại nỗi lòng đau xót của nàng, cuộc hành trình thê thảm của nàng qua
những miền hoang vu, và ngôi mộ của nàng mà "cỏ lúc nào cũng xanh",
như tấm lòng của nàng lúc nào cũng hướng về Hán.
Sau vụ đó, Hán được yên trong nửa thế kỉ: sự tan rã của Hung Nô
gần như hoàn toàn, Trung Hoa làm chủ cả Trung Á, cương vực bao quát từ Mông Cổ,
Tân Cương đến tận biên giới lãnh thổ Nga, uy danh lừng lẫy. Cả miền Đông Á và
Trung Á được hưởng một cuộc thái bình mà sử gia phương Tây gọi là Thái bình
Trung Hoa (Pax Sinica), tương đương với Thái bình La Mã (Pax Romana) ở phương
Tây. Vì thời đại vẻ vang ấy mà người Trung Hoa tự xưng là người Hán, và người
nước ngoài gọi Trung Quốc là người Hán, chữ Trung Quốc là chữ Hán.
Nhưng khi Vương Mãng thoán vị, Trung Hoa loạn lạc, Hung Nô bất
bình vì Vương Mãng giáng tước vương của các vua Hung Nô, Tây Vực, Cao Li xuống
tước hầu, một số nước ở Tây Vực nghe lời Hung Nô, tuyệt giao với Hán, quay lại
làm phản.
°
Đời Hậu Hán, trong mấy triều đại đầu, việc đối ngoại khá tốt
đẹp.
Vua Quang Võ lập lại trật tự rồi, nhiều nước ở Tây Vực nghĩ rằng
thà chịu lệ thuộc Hán ở xa còn hơn là lệ thuộc Hung Nô ở gần, nên xin Quang Võ
bảo hộ. Quang Võ không nhận vì không đủ quân đưa đi Tây Vực Khoảng 45 năm sau
T.L Hung Nô bị nhiều nạn hạn hán và một nạn châu chấu, súc vật chết nhiều, dân
đói. Nước chia làm hai: bắc sống độc lập, nam lệ thuộc Hán; Quang Võ mưu mô gây
sự bất hòa giữa hai bên.
Qua đời sau Minh đế làm tuyệt đường giao thông giữa Bắc và Nam
Hung Nô, rồi sai Đậu Cố đánh Bắc Hung Nô, chiếm đất làm đồn điền. Ông lại phái
Ban Siêu đi thông sứ các nước Tây Vực. Siêu cũng có óc mạo hiểm như Trương
Khiêm, đến nước Thiện Thiện (Chan Chan) thuyết phục vua nước đó bỏ Hung Nô mà
liên kết với Hán.
Mới đầu vua Thiện Thiện tiếp ông rất lễ độ, trong khi đó, một
phái đoàn của Hung Nô cũng tới, vua Thiện Thiện thay đổi thái độ, lơ là với
phái đoàn Hán. Ban Siêu cả gan dùng thuật vào hang cọp để bắt cọp con, nửa đêm
sai mười người núp sau nhà của phái đoàn Hung Nô, người nào cũng cầm trống; còn
hai mươi sáu người nữa, núp ở phía trước nhà, rồi một mình ông tiến vào đốt
nhà. Đêm đó có cơn dông, lửa bốc cao, bọn mười người phía sau đập trống vang
trời, phái đoàn Hung Nô hoảng hốt, chạy ra phía trước, bị người Hán bắn chết
một phần, phần còn lại chết cháy. Vua Thiện Thiện thấy vậy, vội thề kết thân
với Hán. Chưa thấy phái đoàn ngoại giao nào dùng thuật kì dị như vậy.
Sau đó, Ban Siêu tới nước Vu Điền (Khetan) giết một mụ phù thủy
quân sư của nhà vua vì mụ dám nhục mạ sứ giả của nhà Hán, đòi sứ giả phải giết
một con ngựa vàng mõm đen rồi hai bên mới thương thuyết. Vua Vu Điền thấy vậy
cũng hoảng như vua Thiện Thiện và vội xin qui phục nhà Hán, giết hết các sứ giả
Hung Nô ở trong nước. Bọn đế quốc Trung Hoa thời đó đâu có thua bọn đế quốc
phương Tây thế kỉ XVIII và XIX.
Nhờ phương pháp đó mà Ban Siêu thành công mĩ mãn: Nam Hung Nô và
trên 50 nước nhỏ ở Tây Vực đều thông hiếu với nhà Hán. Còn Bắc Hung Nô thì bị
Đậu Hiến đánh đuổi qua phía Tây. Năm 69 tuổi, sau 30 năm hoạt động ở Tây Vực,
Siêu về nước, nghỉ được một năm rồi chết năm 102 (đời Hòa đế).
Nhà Hán còn giữ được uy quyền ở Tây Vực trong một thời gian nữa,
rồi khi suy nhược vì nạn ngoại thích và hoạn quan thì không kiểm soát được miền
đó nữa. Nhưng công của Võ đế, của những tướng như Hoắc Khứ Bệnh, Đậu Cố, của
những nhà thám hiểm như Trương Khiêm, Ban Siêu không phải là vô ích. Nhờ ngững
người đó mà Trung Hoa trong 300 năm đã làm chủ và khai hóa được một miền rộng ở
châu Á.
Một hậu quả bất ngờ của công trình dẹp Hung Nô đó của nhà Hán là
đẩy nạn Hung Nô từ đông qua tây. Bị Đậu Hiến đời vua Hòa đế đánh đuổi, Bắc Hung
Nô chạy qua phương Tây, xâm chiếm lần lần châu Âu và tới thế kỉ thứ V, một
Thiền vu kiệt hiệt là Attila (A Đề Lạp) phá tan tành đế quốc La Mã, làm cho
châu Âu chìm đắm trong cảnh hắc ám thời Trung cổ. Còn Nam Hung Nô sau sẽ là một
trong Ngũ Hồ đời Tấn.
2. Chiếm Triều Tiên
Triều Tiên mới đầu lệ thuộc nhà Thương rồi sau thần phục nhà
Chu, đầu đời Hán, phản li Trung Quốc.
Đầu thế kỉ thứ II trước T.L. Triều Tiên đã đóng một vai trò quan
trọng trong việc trao đổi hàng hóa, thổ sản với Nhật Bản. Lại thêm vị trí của
Triều Tiên ở bên sườn Hung Nô, cho nên năm 108 Hán Võ đế đem thủy và lục quân
tấn công Triều Tiên, một là để uy hiếp Hung Nô, hai là để chiếm cái lợi thương
mãi với Nhật Bản. Triều Tiên mặc dầu anh dũng, hai lần thắng quân Hán nhưng rồi
nước nhỏ, sức yếu, rốt cuộc phải chịu thua.
3. Tiến xuống phía Nam
Đời Tần Thủy Hoàng, đế quốc Trung Hoa đã lan tới Quảng Đông và
một phần Bắc bộ nước ta đặt ra ba quận Nam Hải, Quế Lâm, Tượng Quận. Trong thời
loạn cuối Tần đầu Hán, viên quận úy Nam Hải là Triệu Đà (có sách chép là Triệu
Tha làm chủ cả ba quận đó), gọi là Nam Việt, tự xưng là Nam Việt vương.
Hán Cao Tổ dùng chính sách ôn hòa, chỉ bắt Đà chịu thần phục
mình thôi, cho Đà giữ tước vương đó.
Qua đời Võ đế, Hán chủ trương xâm lược để mở rộng bờ cõi, không
bán sắt cho Nam Việt, dân Nam Việt không đúc được khí giới, rèn được nông cụ,
nổi lên phản kháng, người cầm đầu là thừa tướng Lữ Gia, giết những người thân
Hán (như Cù Thái hậu, vợ góa của Đà Võ đế) sai Lộ Bạc Đức, Dương Bộc đem quân
xuống diệt, bình định Nam Việt, thu vào bản đồ, đặt làm chín quận, chiếm luôn
đảo Hải Nam, như vậy là khai thông được đường thương mãi với vài nước ở Nam
Dương (Indonésia).
Nhân đà đó, Võ đế tiến quân về phía Tây Nam, bắt các đất Điền
(Vân Nam ngày nay), Dạ Lang (Quí Châu) ngày nay phải qui thuận.
Đời Quang Võ, hai bà Trưng nổi lên giết Thái thú Giao Chỉ là Tô
Định vì Định ức hiếp dân ta quá, đòi cung cấp cho hắn hổ phách, đồi mồi, san
hô, ngọc trai, ngà voi... Hai bà xưng vương được mấy năm, Quang Võ sai Mã Viện
sang dẹp.
Việc xâm chiếm miền Nam dễ dàng vì các dân tộc miền đó không
đông, sống về nông nghiệp, không hung hăng như các dân du mục phương bắc và
phương tây.
Vậy là đời Hán, đế quốc Trung Hoa mở rộng rất nhiều phía bắc tới
Mãn Châu, Triều Tiên, phía nam tới Đông Dương, bắc Miến Điện, phía tây tới Tây
Tạng, phía tây bắc tới Trung Á, rộng hơn cả châu Âu ngày nay.
D. KINH TẾ
1. Nông nghiệp
Về nông nghiệp nhà Hán tiếp tục chính sách của nhà Tần mà phát
triển thêm. Như trên đã nói, sau mấy năm loạn lạc cuối đời Tần, nhiều đất bỏ
hoang, dân nghèo, Cao Tổ khuyến khích nông nghiệp, cho quân đội giải ngũ về làm
ruộng, giảm thuế ruộng, có nơi chỉ còn 3% huê lợi, có nơi lại miễn thuế luôn
nữa.
Nhờ kĩ thuật nấu sắt, nông cụ sắt bén hơn, cày sâu hơn, phá
rừng, đào kinh dễ hơn, nhiều miền trước chỉ làm rẫy (đốt rừng rồi gieo) bây giờ
thành điền.
Kĩ thuật cũng tiến bộ: người ta biết cách luân canh, chế tạo một
kiểu xe để gieo giống, một kiểu cối xay chạy bằng sức nước.
Võ đế rất quan tâm tới việc đắp đê ngăn lụt (nhất là sông Hoàng
Hà), đào kinh tháo nước và tưới ruộng. Ông cho đào một con kinh song song với
sông Vị nối Tràng An với sông Hoàng Hà.
Bọn quí tộc, quan liêu, được nâng đỡ trong việc khẩn hoang, miễn
phụ đảm. Do đó có nhiều địa chủ giàu lớn, có tới 800 nông nô, có hồ câu cá, có
rừng để săn. Cùng như châu Âu thời Trung cổ, giới quí tộc Trung Hoa thời thượng
cổ rất thích săn bắn: di tích của lối sống thời chưa có lối sống nông nghiệp.
Ngay thời Võ đế, khi Tư Mã Tương Như sống chung với nàng Trác Văn Quân, được bố
vợ cho một trăm nông nô và một triệu đồng tiền (Khoảng 72 kí lô vàng 5, theo Y.
Herveuet. Un Poète de cour sous les Han, Sseu-ma Siang-jou - PUF 1964 - Denys
Lombard dẫn trong La Chine impériale, PUF 1967, tr: 24).
Đó là một lí do khiến
Vương Mãng đời sau tịch thu đất đai của bọn đại điền chủ, chia lại cho dân
nghèo theo phép tỉnh điền thời Xuân Thu. Trong lịch sử Trung Hoa, lâu lâu khi
có sự chênh lệch quá giữa kẻ giàu và người nghèo, thì lại có một cuộc cải cách
điền địa như vậy; nếu chính quyền không làm thì nông dân nổi dậy, tự cải cách
lấy.
2. Công nghiệp
Thủ công nghiệp đời
Hán, về vài ngành, phát triển hơn đời trước nhiều. Người ta họp nhau thành
phường, gồm con cháu trong nhà và một số thợ học nghề, như phường ép dầu,
phường làm nước tương, phường may áo, đóng quan tài... Nông dân ở thôn quê tự
túc được, làm lấy được mọi đồ thường dùng, sản xuất được mọi thức ăn, chỉ phải
ra chợ, thị xã mua muối, rượu, sắt, đồng.
Xét những di vật khai
quật được thì các đồ tiểu công nghệ thời đó như đồ vàng, đồ ngọc, đồ đồng, đồ
gốm, đồ lụa, đồ nhuộm, đồ sơn... đã khá tinh xảo.
Ở Sơn Đông, ở kinh đô
Tràng An, nghề dệt lụa rất phát triển: có xưởng dùng mấy ngàn thợ. Trong một
ngôi mộ khai quật, người ta thấy những đồ liệm bằng lụa còn giữ được màu cũ.
Nghề gốm bắt đầu sản
xuất được những đồ sứ đẹp đẽ.
Tiến bộ nhất là đồ
sơn: sự phân công rất tỉ mỉ. Làm một bộ chén dĩa phải dúng một trăm người thợ,
làm một bức bình phong, phải một ngàn người thợ, mỗi người chuyên một việc nhỏ.
Vào khoảng 100 năm sau
T.L, Trung Hoa đã phát minh được thuật làm giấy bằng giẻ rách, giá rất đắt.
Trên một thế kỉ sau, đến Tây Tấn, Tả Tư làm bài Tam đô phú dài khoảng 1.000
chữ, rất nổi tiếng, dân chúng hoan nghênh đặc biệt, sao chép lại, làm cho giấy
ở kinh đô khan, giá tăng vọt lên, đủ biết giấy còn hiếm tới mức nào.
Thuật nấu sắt cũng
tiến bộ. Năm 1958 người ta khai quật được ở Hà Nam 17 lò nấu sắt có từ thế kỉ
II trước T.L., và thời đó lò đã dùng than để đốt.
Kĩ nghệ sắt và muối do
chính phủ giữ độc quyền, năm 119 đặt chức diêm thiết quan coi về hai ngành đó
như trên đã nói.
Vấn đề độc quyền muối,
sắt không phải chỉ là một vấn đề kinh tế, mà còn là một vấn đề chính trị, gây
sự tranh biện sôi nổi giữa phái theo Nho và phái theo Pháp. Theo Tư Mã Thiên
thì cuộc tranh luận bắt đầu trễ lắm là từ đời Cảnh đế, kéo dài tới đời Tuyên
đế, trong khoảng 100 năm. Theo Hán thư, cuộc tranh biện hăng hái nhất vào thời
Tuyên đế, nhân cuốn Diêm thiết luật của Hàn Khoan. Hàn Khoan là một nhà Nho ở
thời Chiêu đế, xin bãi bỏ thuế sắt muối cho dân đỡ khổ. Các nhà Nho khác lên
tiếng ủng hộ, nhưng đa số các đại phu theo Pháp gia đều đả kích Hàn Khoan. Hai
phe gồm trên 60 người cãi nhau về bốn vấn đề này: 1- dùng văn giáo hay võ lực;
2. lấy nông hay lấy công, thương làm gốc; 3. dùng nhân nghĩa hay chỉ nghĩ đến
lợi; 4. dùng đạo đức hay dùng hình pháp. Bọn Pháp gia bảo nhà Chu dùng nhân
nghĩa, trọng văn nên mới suy vong; bọn Nho gia bảo Tần độc tài chỉ dùng uy vũ,
không ai phục, nên mới mau đổ. Không bên nào thắng nổi bên nào, rốt cuộc các
vua Hán vẫn giữ thuế sắt, muối đời Võ đế vì triều đình rất cần tiền.
Về kiến trúc, Võ đế
rất thích kiến thiết lâu đài cung điện tráng lệ; có Thần minh đài cao tới 50
trượng, nếu mỗi thước thời đó là một gang tay thì 50 trượng bằng 100 mét ngày
nay, tiếc rằng đài đó nay không còn.
3. Thương mãi
Nhà Hán khuyến nông mà
ức thương, không cho con cháu thương nhân làm quan, nhưng thương nhân giàu có
đều mua đất, thành đại địa chủ, thành thử chính sách đó không có mấy hiệu quả.
Vả lại chính nhà nước cũng phát triển việc buôn bán, trao đổi hàng hóa với nước
ngoài, nên thương mại phát triển hơn các thời trước.
Trong những cuộc thám
hiểm và chiếm đóng Tây Vực, người Trung Hoa biết được các hàng hóa phương Tây
vô Trung Quốc do đường nào, và ngoại nhân mua hàng Trung Quốc rồi chở đi đâu.
Nguồn lợi đó khá lớn, triều đình muốn nắm lấy, bắt các nước lệ thuộc phải nộp
cống những sản phẩm triều đình cần dùng và triều đình cấp lại cho một số sản
phẩm nông nghiệp giá trị tương đương. Chính sách đó không có lợi, vì bọn sứ
thần thường thừa cơ buôn bán riêng với các thổ dân, phần lớn nguồn lợi vào tay
họ hết. Vả lại vua Hán chỉ đòi hỏi những sản phẩm lạ, đẹp để trang hoàng cung
điện, mà các nước ngoài chỉ thích hàng tơ lụa của Trung Hoa, thành thử triều
đình mất một số hàng có lợi cho kinh tế mà thu vào những thứ vô ích cho kinh
tế, thương mãi kiểu đó càng thịnh vượng thì nước càng nghèo đi.
Ở phương Nam, nhiều
thị trấn tại bờ biển, như Quảng Châu, thời đó đâu có những thương nhân ngoại
quốc lập những trung tâm buôn bán thinh vượng, đổi hàng của Ấn Độ, Trung Đông
lấy hàng Trung Hoa.
Ở trong nước, thương
mãi phát đạt nhờ Võ đế cho đúc nhiều tiền, mở nhiều đường giao thông. Trên
những con đường đó, cứ năm dặm (khoảng ba cây số) đặt một đoản đình (trạm nhỏ),
mười dặm đặt một trường đình (trạm lớn). Tại mỗi trạm có phu trạm chạy ngựa đem
thư tới trạm sau, lại có quán cho dân đi đường ghé ngủ ban đêm và ăn uống. Toàn
quốc có tới trên ba vạn quán như vậy.
4. Dân số
Về dân số, chúng ta
chỉ biết đại khái thôi, vì mỗi sách nói một khác. Từ đời Tần đã có lệnh nhà nào
cũng phải khai số người, nhưng lệnh đó không thể thi hành ở những nơi xa xôi,
không có quân triều đình đóng.
Theo Lombard (sách đã
dẫn) thì đầu đời Chiến Quốc, Trung Hoa có độ 20 triệu dân, đời Tần được 40
triệu, đầu kỉ nguyên Tây lịch được 57 triệu.
Nhưng theo Lữ Chấn Vũ,
tác giả Giản minh Trung Quốc thông sử (Nhân dân xuất bản xã, Bắc Kinh, 1955),
thì thời Quang Võ (25-57 sau T.L.) thì chỉ có 21 triệu, mà gần cuối đời Tiền
Hán, khoảng đầu kỉ nguyên, có tới 59 triệu (số này hợp với Lombard), như vậy là
giảm mất 38 triệu, gần hai phần ba, chỉ vì nạn Xích Mi nổi loạn ư?
E. VĂN HÓA
1. Triết học và tôn
giáo
Thời Tiên Tần là thời
xuất hiện của tất cả các triết gia lớn nhất của Trung Quốc, của các bậc
"tử", bậc thầy: Khổng Tử, Mặc Tử, Lão Tử, Trang Tử, Mạnh Tử, Tuân
Tử... Cho nên đời sau gọi thời đó là thời "tử học"; những tác phẩm
lớn của họ được đời sau gọi là kinh; từ đời Hán trở đi, trên hai ngàn năm, tới
cuối đời Thanh, thời nào cũng có ít nhiều triết gia, nhưng không nhà nào đưa ra
một học thuyết nào thật mới mẻ, quan trọng mà chỉ nghiên cứu, tìm hiểu, chú
giải, phát huy thêm những triết thuyết trong các kinh thời Tiên Tần, chỉ
"trị kinh", cho nên gọi là thời "kinh học".
Mặc học như tôi đã
nói, từ gần cuối thời Chiến Quốc đã biến thái, thành Biệt Mặc, thiên về biện
luận, khoa học, không bàn đến nhân sinh, chính trị nữa, rồi không ai tiếp tục
đạo của Mặc tử nữa. Từ đời Hán chỉ còn lại hai đạo Khổng và Lão.
a. Khổng giáo
Đầu đời Hán, đạo Khổng
không được trọng. Cao Tổ nghe lời Thúc Tôn Thông, lập triều nghi như đạo Nho,
để triều đình có tôn ti, ngôi vua được trọng, nhưng ông không bỏ lệnh hiệp thư
của nhà Tần.
Tới thời Văn đế, lệnh
hiệp thư bãi bỏ rồi, Nho và Lão được trọng ngang nhau. Các kinh thư của đạo Nho
thời đó đều chép bằng kim văn, tức thứ chữ mà Lý Tư đời Tần đã qui định cho
toàn cõi, gọi là tiểu triện, giản dị hơn lối đại triện dùng trong nhiều nước
thời trước.
Qua thời Võ đế, xuất
hiện một danh nho: Đổng Trọng Thư. Ông miệt mài nghiên cứu kinh sách, nhưng
không phát huy được gì. Ông đưa kiến nghị dùng Nho giáo làm quốc giáo, Võ đế
nhận là phải, vì thuyết tam cương ngũ thường có lợi cho nhà vua, nhưng chỉ giao
cho ồng một chức phụ tướng giúp Dịch Vương (anh vua cai trị đất Giang Tô), chứ
không được ở triều đình.
Làm quan bị biếm, ông
về ẩn ở quê nhà, soạn bộ "Xuân Thu phồn lộ" để làm rõ thuyết
"Thiên nhân tương ứng": trời đất và người cùng loại và tương ứng với
nhau, ví dụ người có 360 đốt xương, hợp với con số của trời (số ngày trong một
năm), có bắp thịt, thân thể dày dặn như đất, có mắt như mặt trời mặt trăng, có
tứ chi như năm có bốn mùa, có ngũ tạng như vũ trụ có ngũ hành. Tư cách ông cao
nhưng lí luận ông thô thiển, kém Vương Sung.
Vương Sung sống ở đầu
kỉ nguyên Tây lịch, làm một chức quan nhỏ rồi về dạy học, viết cuốn Luận hành
chỉ phương pháp nghị luận. Ông có tinh thần khoa học, có thể chịu ảnh hưởng của
Tuân Tử, chỉ trích nhiều ý kiến đương thời, những lối giải thích sai lầm về đạo
Khổng, nhất là những điều mê tín rất thịnh hành đời Hán. Như Lão Tử, ông cho vũ
trụ là Vô ý chí, vô vi, cứ tự nhiên sinh hóa. Ông không nhận rằng linh hồn bất
tử, chính ông nói câu "con người trong vũ trụ cũng như con rận trong
quần" mà sau này Nguyễn Tịch đời Ngụy lập lại. Ông phản đối thuyết tai dị,
thuyết "thiên nhân tương ứng" của Đổng Trọng Thư.
Ông không trọng cổ
khinh kim, mà đề cao sự thực nghiệm. Trong bộ Luận hành (cán cân - tức như tiêu
chuẩn - để nghị luận), mỗi khi lập luận, ông đều lấy sự thực tế để chứng minh.
Ông rất chê thiên "Minh quỉ" của Mặc Tử, cho rằng những dẫn chứng của
Mặc Tử vô giá trị; quỉ thần vốn không có. Ông là nhà tư tưởng sâu sắc nhất đời
Hán.
Triết lí của ông có
thể đưa tới tư tưởng và phong trào duy lí (rationaliste) ở châu Âu cuối thời
Trung cổ, nhưng giới cầm quyền Trung Hoa thấy nó có hại cho quyền uy của họ,
cho sự trị dân, nên triều đình không dùng ông.
Xét chung thì đời Tiền
Hán, các học giả có công phát minh những vi ngôn đại nghĩa trong kinh thư của
Khổng giáo; qua đời Hậu Hán, người ta chú trọng vào cái học "huấn
hỗ", tức giải thích những chỗ khác nhau trong cổ văn và kim văn.
Sở dĩ có phong trào đó
là do đời Cảnh đế, người ta tìm thấy trong vách nhà Khổng Tử một số kinh, thư
của đạo Nho viết bằng thứ chữ đời Hán gọi là cổ văn, mà Lí Tư đã bỏ, thay bằng
thứ chữ mới đời Tần, giản dị hơn, gọi là kim văn. Những sách đó chắc là chép
trên lụa (thời Cảnh đế chưa có giấy), và có lẽ giấu vào trong tường từ khi có
lệnh hiệp thư. Có điều đáng kể là so sánh những sách đó với những sách gọi là
kim văn do một số người học thuộc lòng rồi chép lại sau khi hủy lệnh hiệp thư,
thì thấy có nhiều cái khác nhau rất xa. Có thể là do người học thuộc lòng (bản
kim văn) đã nhớ sai, nhưng cũng có thể là do người viết bản cổ văn đã tự ý sửa
đổi, mà sửa đổi với mục đích gì?
Thế là các học giả đua
nhau nghiên cứu các từ cổ tìm hiểu ý nghĩa rồi rán hiệu đính. Hình như Vương
Mãng cũng làm công việc nghiên cứu đó và dụng tâm chú giải theo ý ông cho hợp
với đường lối biến pháp của ông. Phong trào "huấn hỗ học" đó kéo dài
suốt đời Hậu Hán và cả trong các đời sau nữa: cứ thời nào người ta muốn phục cổ
(trở về chính sách thời cổ) thì nó lại bùng lên, thời nào người ta muốn canh
tân thì nó lại xẹp xuống. Đó là một điểm đặc biệt trong học thuật Trung Hoa.
Cũng vì Hậu Hán chú trọng vào cái học huấn hỗ, nên không có một tư tưởng gia
nào đáng kể.
b. Lão giáo - Đạo giáo
Lão giáo được đời Tần
và các vua đầu đời Hán rất tin: Cao Tổ, Võ đế tin mà không dùng chính sách vô
vi trong chính trị. Văn đế và Cảnh đế thì vừa tin vừa noi theo chính sách vô vi
ít can thiệp vâo đời sống dân, cho dân được tự do kinh doanh.
Nhưng suốt đời Hán,
không có một học giả nào nghiên cứu Lão - Trang, cho nên Lão giáo được trọng mà
thực sự là suy.
Nguyên nhân là sau một
hai thế kỉ loạn lạc, lầm than, con người dễ tin dị đoan, âm dương học và pha
lẫn Nho học (Đổng Trọng Thư) như trên chúng ta đã thấy cả với Lão học nữa.
Trong Đạo đức kinh có
những câu: "Chết mà không mất là thọ", "Cái đạo gốc sâu rễ bền,
sống lâu mà trông xa mãi mãi" dễ làm cho dân chúng hiểu lầm, tin rằng có
phép trường sinh; lại thêm có truyền thuyết Lão Tử sống trăm rưỡi năm, nên
người ta càng tin có một bí quyết trường sinh mà Lão Tử không truyền lại.
Một số người rán tìm
bí quyết đó, nghĩ ra những cách điều hòa âm dương, lấy trộm cái huyền vi của
trời đất như cách luyện đan bằng chu sa, thần sa (cinabre: sulfure de mercure)
để uống; cách luyện "tinh, khí, thần" bằng trầm tư, bằng phép điều
khiển hơi thở, nín thở (ít nhất phải nín thở được 12 phút, nếu nín thở được một
giờ thì gần thành bất tử); cách tịch cốc (không ăn ngũ cốc mà ăn rau, mè, trái
táo...), nuốt tia sáng mặt trời, nuốt nước miếng; cách "đạo dẫn" (một
phép dưỡng hô hấp, cúi ngửa, co duỗi để cho khí huyết sung túc); cả bằng thuật
"phòng trung" nữa...
Võ đế cũng tin như Tần
Thủy Hoàng rằng có thuốc trường sinh, sai luyện thần sa để được bất tử.
Phái luyện đan đó (gọi
là phái đan đỉnh hợp với bọn có học và có tiền. Còn một phái nữa thấp hơn, dùng
bùa phép, gọi là phái phù lục, mê tín hơn, hợp với bình dân hơn. Cả hai đều tự
gọi là Đạo giáo (đừng lầm với Lão giáo), phái trên có từ đời Tần hay trước nữa,
phái dưới tới đời Quang Võ (Đông Hán) mới xuất hiện, thủy tổ là Trương Lăng,
cháu 9 đời của Trương Lương, một công thần của Hán Cao Tổ.
Trang trước, tôi đã
nói sự cúng tế trời, thần xã tắc, thần núi sông, thờ tổ tiên... không có tính
cách một tôn giáo, hoặc chỉ có thể coi là một tôn giáo có tính xã hội, mưu hạnh
phúc cho quốc gia, toàn thể nhân dân, chứ không có tính cách cá nhân, giải
thoát, tế độ cá nhân; mà bình dân thời nào cũng mong được tế độ, cần có một tin
tưởng ở kiếp sau, ở một thế giới khác, thiên đường chẳng hạn, mà có thiên đường
thì tất có địa ngục để sửa những bất công trong xã hội hiện tại.
Đạo Khổng không tặng
cho họ một tin tưởng như vậy; đạo Mặc cao quá (yêu người như yêu bản thân mình:
kiêm ái), lại có tính cách chính trị hơn tôn giáo (chính sách thượng đồng), nên
cũng không làm thỏa mãn dân, cho nên khi Đạo giáo - đúng hơn là phái phù lục
của Đạo giáo - xuất hiện thì dân chúng theo rất đông, miền nào cũng có, nhất là
miền bờ biển.
Trương Lăng đi chơi
khắp các danh sơn, tự xưng là đắc đạo ở núi Long Hổ (tỉnh Tây Giang), viết cuốn
Đạo Thư gồm 24 thiên, diễn một số tư tưởng của Lão Tử phụ thêm các cách bói
toán, phù chú để chữa bệnh, khoe có thể trị bệnh, trừ ma quỉ được, dân chúng
rất tin. Ông ta thờ cả Hoàng Đế lẫn Lão Đan (Lão Tử) mà ông gọi là Thái thượng
Lão quân, vì vậy đạo của ông có tên là Hoàng Lão. Ai muốn thụ đạo thì phải nộp
cho ông năm đấu gạo, do đó đạo còn có tên là đạo năm đấu gạo. Khi chết, Lăng
truyền kinh lại cho con là Trương Lỗ; tới đời Lỗ, phái phù lục đã lan khắp
trong nước, có nhiều điện thờ Hoàng Đế, Thái thượng Lão quân, và không biết bao
nhiêu là thần; riêng về thần trong cơ thể đã có tới 24 vị, mỗi vị quản trị một
bộ phận như tim, phổi, bao tử, thận... Họ thành lập được một hàng giáo phẩm mà
người cầm đầu giáo chủ phải là hậu duệ của Trương Lăng; tổ chức những buổi lễ
tập thể đông hàng ngàn tín đồ, nghi thức rất phiền phức. Đại khái họ như bọn
phù thủy, thầy pháp, triều đình không ưa họ, cho là vô học, mê tín dị đoan, mà
họ cũng ghét quan lại của triều đình, hi vọng hễ lật được chính quyền thì đưa
đạo của họ lên làm quốc giáo, thay đạo Khổng.
Đầu thế kỉ thứ II,
thời Đông Hán, Trương Giác dùng phù thủy mê hoặc quần chúng, lập hội kín, nhân
lúc loạn lạc, đói kém, cầm đầu nông dân nổi loạn ở khắp nơi, tức giặc Hoàng Cân
khăn vàng. Đồng thời, Trương Lỗ hùng cứ Hán Trung (phía nam Thiểm Tây), uy thế
của họ Trương rất lớn. Sau khi Hoàng Cân bị dẹp, Trương Lỗ đầu hàng Tào Tháo,
được Tháo phong tước kết làm thông gia, sống yên ổn ở Tứ Xuyên, đời gọi là
Trương Thiên Sư.
Phái phù lục lúc đó có
ảnh hưởng lớn ở Trung Quốc. Dân cũng tin rằng theo cách tu của họ thì bất tử.
Thời nào họ cũng lập hội kín để chống nhà cầm quyền. Mười vụ nông dân nổi loạn
thì 7-8 vụ do họ điều khiển, thanh thế mới đầu rất lớn, sau cùng rồi cùng thất
bại.
Đến cuối đời Thanh,
bọn Quyền phỉ, bọn Thiên địa hội đều do họ chỉ huy, và tín đồ mê muội tới nỗi
nghe lời họ, cứ lăn xả vào gươm, đao, cả súng ống của đối phương. Thiên địa hội
truyền qua nước ta, đầu Thế chiến thứ nhất còn hoạt động ở Saigon, sau thế
chiến, ở miền Tây Nam Việt.
Các sách sử ít nhắc
tới họ, coi họ như một bọn giặc cỏ, nhưng chính họ đã tạo nên một tôn giáo cho
bình dân Trung Hoa, mà tôn giáo đó chống chính quyền, tức là cũng làm chính trị
nữa. Rốt cuộc Trung Hoa vẫn không có một tôn giáo nào thuần túy như đạo Phật
của Ấn Độ. Có lẽ vì vậy mà khi đạo Phật vào Trung Hoa thì dễ được dân chấp
nhận, sau thành tôn giáo chính thức, và thịnh ở Trung Hoa còn hơn ở Ấn Độ nữa.
c. Phật giáo vào Trung
Quốc
Khó biết được chắc
chắn Phật giáo bắt đầu vào Trung Quốc từ bao giờ.
Trong cuốn Lịch sử
Phật giáo Trung Quốc (Vạn Hạnh, 1963), Thích Thanh Kiểm chép lại bảy thuyết
nhưng chỉ nhận có hai thuyết là đáng tin.
- Thời Hán Ai đế (-6
+1 T.L), một sứ giả nước Đại Nhục Chi tới Trung Quốc, đem Phù đồ giáo, tức Phật
giáo, truyền miệng cho Trần Cảnh Hiến;
- Rồi tới đời Minh đế,
năm 67 T.L, nhà vua phái 18 người qua Tây Vực thỉnh tượng Phật; nửa đường họ
gặp hai vị tăng Ca Diếp Ma Đằng và Trúc Pháp Lan tải kinh, tượng bằng ngựa
trắng đi về phía Đông, bên mời chùa Bạch Mã (Ngựa trắng) để thờ Phật và dịch
kinh điển.
Thuyết sau phổ thông
nhất, được coi là thuyết công truyền.
Ca Diếp Ma Đằng và
Trúc Pháp Lan phiên dịch được bộ kinh đầu tiên, kinh "Tứ thập nhị
chương". Riêng Trúc Pháp Lan dịch thêm được năm bộ kinh nữa.
Sau đó một vị thái tử
xứ An Tức (Parthia) là An Thế Cao tới Lạc Dương, hợp tác với Nghiêm Phật Điêu
dịch nhiều bộ kinh ra chữ Hán, nhưng công việc vẫn chưa có hệ thống gì cả.
Tới cuối đời Hậu Hán,
Phật giáo đã lan tràn trong dân gian và đời Hiến Đế đã có một tự viện lớn để
thờ Phật, số người đến lễ bái đã trên một vạn.
Có điều đáng để ý là
đạo Phật khi mới vào Trung Quốc thì các tín đổ Đạo giáo (cả phái đan đỉnh lẫn
phái phù lục) đều thấy ngay nó hợp với họ; mà các nhà sư cũng thấy các tín đồ
Đạo giáo như là anh em của mình, còn các kẻ sĩ đạo Khổng xa với họ quá. Thực
ra, Phật và Đạo khác hẳn nhau: Phật giáo không nhận cái Ngã (ta là thực), Đạo
trái lại; Phật tìm sự giải thoát ở Niết Bàn, Đạo tìm sự trường sinh; nhưng cả
hai tôn giáo đó có những điểm giống nhau: thờ phượng, trầm tư, luyện hơi thở,
kiêng một số thức ăn...; nhất là có truyền thuyết Lão Tử về già qua phương Tây,
mà đạo Phật cũng ở phương Tây, cho nên tín đồ Đạo giáo cho rằng Phật với Lão là
một.
Do đó những người Hán
đầu tiên theo đạo Phật phần nhiều là đã theo Đạo giáo, và những nhà sư phương
Tây qua muốn dịch kinh Phật, dùng ngay một số từ ngữ trong Đạo đức kinh, qua
các đời sau họ mới thấy sai mà sửa lại.
2. Văn học
Triết học đời Hán kém
xa đời Tiên Tần nhưng văn học thì phong phú hơn.
a. Văn xuôi
Văn xuôi đời Tiền Hán
làm mẫu mực cho đời sau, cũng như thơ thời Thịnh Đường 5: văn và chất (hình
thức) và nội dung đều đẹp đẽ, xứng nhau, lời thì gọn, cô, bình dị, tự nhiên mà
hùng, nội dung thì tình cảm dào dạt, tư tưởng sâu sắc.
Văn nghị luận (200-168) tác giả bài Trần chính sự xét về chính
trị và hình thế Trung Quốc, bài Quá Tần luận vạch những tội lỗi của nhà Tần,
bài Trị an sách, nghị luận minh bạch mà lòng nhiệt thành.
Vương Sung có óc phê bình sâu sắc, ghét lối văn hoa mĩ và cả lối
mô phỏng cổ nhân. Chủ trương của ông là viết để người ta hiểu (vì vậy) không
nên dùng cổ văn và diễn hết ý thì thôi.
Văn tự sự thì bộ Sử kí vĩ đại của Tư Mã Thiên (145- 87?) là một
tác phẩm bất hủ chẳng riêng của Trung Quốc mà của cả nhân loại nữa.
Đứng về phương diện sử học nó có bốn đặc điểm:
- Nó là bộ sử đầu tiên chép về nhiều đời, không như các bộ sử
trước chỉ chép riêng một đời (như đời Xuân Thu), có khi một nước nhỏ (như nước
Lỗ chẳng hạn).
- Sử gia trước ông chép về nước nào thì theo niên đại nước đó,
mà niên đại mỗi nước một khác, nhìn vào không sao tìm được manh mối, không biết
được năm thứ ba đời Chu Hiến Vương là năm nào đời vua nào ở Tề, Sở, Tống,
Ngụy... Tư Mã Thiên gỡ mối bòng bong đó cho ta, trong phần Biểu, đối chiếu các
niên đại với nhau.
- Ông không chỉ chép hành vi của vua chúa mà còn ghi cả văn hóa,
lễ nhạc, triết học, văn học... Sử gia châu Âu tới thế kỉ XVIII mới có nhãn quan
rộng như vậy. Ông đã hơn hẳn những sử gia Hi Lạp, La Mã rất xa.
- Thái độ của ông thành thực: điều nào chưa nghiên cứu rõ thì
tồn nghi, nếu có nhiều thuyết khác nhau thì kể hết.
Văn ông tuy bình dị mà hùng mạnh, siêu dật, có khi bóng bảy,
nhiều khi thắm thiết, nên cảm người rất sâu, ảnh hưởng lớn đến đời sau.
Qua đời Hậu Hán, xuất hiện một sử giả nữa: Ban Cố (32-92), anh
của Ban Siêu mà trên tôi đã nhắc tới. Cũng như Tư Mã Thiên, ông nối chí cha
(Ban Bưu soạn bộ Hán Thư, và cũng như Thiên), vì có kẻ ghen ghét, ông bị hạ
ngục, chết trong đó. Bộ Hán Thư chép nối bộ Sử kí, vì chỉ chuyên chép về đời
Hán, nên tường tế hơn Sử kí. Văn ông nghiêm cẩn, trang nhã, nhưng không kém vẻ
hùng kính.
b. Phú
Phú rất thịnh ở đời Hán cũng như thơ ở đời Đường, từ ở đời Tống.
Nó là thể văn có điệu, có vần, ở giữa thơ và tản văn. Nó phát sinh từ Sở từ;
cuối thời Chiến Quốc đã có Tống Ngọc với các bài Chiêu hồn, Cửu biện; qua đời
Hán thì được phổ cập. Đa số tác giả dùng thể đó để ca tụng cảnh thanh bình và
tài đức của nhà vua, lời bóng bảy du dương mà nội dung rất tầm thưởng (Vương
Sung rất chê).
Nổi danh nhất là Tư Mã Tương Như, tài hoa lãng mạn, quyến rũ
được một quả phụ trẻ, giàu, nàng Trác Văn Quân, viết khá nhiều bài phú mà bài
Tử hư phú được Võ đế thích, rồi phong chàng chức sứ thần, vào Ba Thục (quê của
ông) dụ bọn phụ lão phục tùng nhà Hán.
Các văn nhân khác, như Dương Hùng, cũng truyền được vài bài phú,
nhưng bài có giá trị nhất là bài phú điếu Khuất Nguyên của Giả Nghị, lời rất
lâm li vì tâm sự của ông giống Khuất Nguyên, cũng nhiệt tâm ái quốc cũng bị
gièm pha, phải đày ra Trường Sa.
c. Thơ
Vốn là những bài ca được Nhạc phủ - đời Đường gọi là giáo phường
- cơ quan coi về nhạc, thu thập để phổ vào nhạc.
Có hai loại:
- Loại ảnh hưởng của Sở từ, mỗi câu thường là bảy chữ, gốc của
thơ thất ngôn.
- Loại ảnh hưởng của Kinh Thi, mỗi câu thưởng năm chữ, gốc của
thơ ngũ ngôn.
Tới đời Hậu Hán văn nhân mới dùng hai thể đó, nhưng tác phẩm của
họ không chân thành, cảm động bằng những bài ca trong dân gian như bài Cô nhi
hành, Khổng tước đông nam phi...
Chúng ta nên nhớ thơ Trung Hoa xuất phát từ ca. Và thi ca gắn
liền với nhau, hễ nói tới thi thì nói tới ca, nên thơ rất chú trọng tới nhạc.
d. Biên khảo
Đời Tần có bộ Lữ Thị Xuân Thư chứa nhiều tài liệu về lễ nghi,
phong tục, tư tưởng, tín ngưỡng, luân lí... đúng là bộ Bách khoa tự điển đầu
tiên của Trung Hoa.
Đời Hán thêm bộ Sơn hải kinh thu thập những kiến thức thời đó về
địa lí vạn vật và thần thoại,
Bộ tự điển đầu tiên của Trung Hoa gồm 9.000 từ, cũng xuất hiện
đời Hán.
e. Thư viện - Trường đại học
Theo Lombard trong La Chine antique, Lạc Dương, kinh đô đời Đông
Hán là một trung tâm văn hóa quan trọng, năm 29 sau kỉ nguyên, thành lập một
trường đại học gồm 240 ngôi nhà với 1850 phòng, chứa được ba vạn sinh viên; và
một thư viện lớn. Khi vua Hán cuối cùng trốn khỏi kinh đô, phải dùng 7.000 xe
chở mới hết. Will Durant trong bộ Histoire de la Civilisation kể rõ hơn: 3.123
cuốn kinh điển, 2.705 cuốn triết, 1.318 cuốn thơ, 2.568 cuốn toán, 868 cuốn y
học, 790 cuốn binh pháp. Nên kể thêm một bộ luật vĩ đại gồm 960 cuốn, 26.272
mục, trên 17 triệu chữ. Bộ luật đó sau được sửa đổi, có chỗ thêm, có chỗ bớt,
đến cuối đời Thanh vẫn được dùng.
Bảy ngàn cỗ xe để chở khoảng 12.300 cuốn sách, trung bình mỗi cỗ
chở được 2 cuốn, sao mà ít vậy?
Nên kể thêm tủ sách của những tư gia giàu sang, học giả, như Lưu
An ở triều đình Hoài Nam Vương.
3. Mĩ thuật
Kiến trúc Trung Hoa so với Hi Lạp, La Mã thì thua xa, vả lại họ
xây cất bằng những vật liệu không bền (gỗ, gạch, ngói) nên đến nay không còn
gì.
Chỉ trong các lăng tẩm là khai quật được những nghệ phẩm nhỏ:
tượng, tranh, đồ sơn, đồ gốm, cho ta biết được đời sống các vua chúa thời đồ,
và sự khéo tay của thợ Trung Hoa.
So sánh những lăng tẩm đó với những ngôi mộ khai quật được ở
Triều Tiên và Bắc Việt, người ta thấy hai miền này đã chịu ảnh hưởng đậm của
Trung Hoa (đồ sơn, gấm vóc...), nhưng cũng giữ được những nét đặc biệt, chẳng
hạn những trống đồng ở Bắc Việt, và tục dùng quan tài hình chiếc thuyền của
người Mán ở Tứ Xuyên.
Hội họa không có gì đặc biệt. Người ta vẽ trên lụa, rồi từ thế kỉ
II T.L người ta phát minh được giấy mực thì vẽ trên giấy bằng bút lông. Thường
là vẽ người: vua chúa, công thần, các vị thánh, thần, và đời sống của giai cấp
quí tộc; tuy nét vẽ còn chất phác, nhưng đã sinh động.
4. Khoa học.
Đạo giáo tuy là mê tín di đoan nhưng chính vì tin ở thuật trường
sinh mà giúp cho khoa học luyện kim (alchimie) xuất hiện sớm nhất ở Trung Hoa.
Lưu An theo Đạo giáo, trong cuốn Hoài Nam tử chép thuật luyện đan bằng chu sa,
thần sa và thuật tạo ra vàng. Thuật tạo ra vàng chỉ là một ảo tưởng, nhưng nó
đã truyền qua Ả Rập, rồi châu Âu ở thời Trung cổ, và khai sinh ra môn hóa học
của phương Tây.
Chân dung "thần y" Hoa Đà |
Đời Hán, y học, giải phẫu học rất tiến bộ, cống hiến cho đời sau
các bộ Bản thảo, Châm kinh, Thương hàn luận của Trương Trọng Cảnh, Kim quĩ yếu hược.
Hai y sư nổi tiếng nhất là Thuần Vu Ý giỏi nghề mạch lí, cách
chẩn đoán, và Hoa Đà giỏi về châm cứu, ngoại khoa.
Thiên văn học, Trương Hành cải tạo những khí cụ để quan sát tinh
tú, phát minh được một khí cụ để quan sát địa chấn, biết trước địa chấn xảy ra
ở một miền nào đó trước khi tin tức tới Lạc Dương; ông còn vẽ được bản đồ vòm
trời có các sao vào tháng nào, giờ nào đó. Đời Võ đế chế tạo được những chiếc
thuyền cao lớn gọi là lâu thuyên để đi biển.
Nhưng quan trọng nhất là việc phát minh ra giấy năm +105 đời Hoà
đế, của một viên hoạn quan tên là Thái Luân, làm bằng vỏ cây, giẻ rách và lưới
cũ. Ông được phong tước hầu, sau bị tố cáo là âm mưu với hoàng hậu, phải tự tử.
--------------------------------
Những tên hiệu như tên này, Văn
đế, Võ đế được đặt ra sau khi vua chết, để thờ trong Thái miếu, vì vậy gọi là
miếu hiệu. Tục đó có từ đời Chu. |
|
Tương truyền suốt 23 năm cầm
quyền, Văn đế không xây cất một cung điện nào cả, có lần ông muốn xây thêm
một lan can trong điện cũ của ông, hỏi phí tổn mất bao nhiêu. Bề tôi đáp:
"trăm đồng tiền vàng". Ông thôi, cho rằng số tiền đó lớn quá, bằng
gia sản của mười gia đình trung bình. Lăng của ông xây khi ông còn sống,
không có một đồ vàng, bạc hay đồng nào cả, chỉ toàn là đồ gốm. Trong cung
điện ông không dùng màn thêu, và ông cũng như các cung phi chỉ bận đồ tơ tầm
thường nhất. Ông đã chịu ảnh hưởng đậm của đạo Lão. |
|
Võ đế là người đầu tiên dùng niên
hiệu, như Kiến Nguyên (-140) là niên hiệu đầu tiên của ông. Trong 58 năm giữ
ngôi, ông dùng 10 niên hiệu: Sau Kiến Nguyên tài Nguyên Quang (-134), Nguyên
Sóc (-128)..., niên hiệu cuối cùng là Hậu Nguyên (-88). Các vua đời sau đều
theo tục đó và cũng thường thay đổi niên hiệu. Đến hai triều đại cuối: Minh
và Thanh, các vua mới dùng một niên hiệu thôi, và sử gia ít khi dùng miếu
hiệu để gọi họ mà dùng niên hiệu nhiều hơn, vì miếu hiệu dễ trùng nhau lắm:
triều đại nảo cũng có Cao Tổ, Văn đế, Võ đế... |
|
Vậy mỗi đồng tiền vàng chỉ có 72
mg, chưa được 3/4 một gam ư? Hay là một triệu đồng tiền đồng, giá trị bằng 72
kí lô vàng? |
|
chúng ta nhớ câu của Tự Đức: Văn
như Siêu, Quát vô Tiền Hán, Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét