Lãnh đạo Trung Quốc Mao Trạch Đông (giữa) tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vào ngày 1/10/1949 tại Bắc Kinh. Ảnh: Hou Bo. |
17.
Chương III TRUNG HOA CỘNG SẢN
A- ĐẢNG VÀ HIẾN PHÁP NĂM 1954.
Thành phần của đảng
Năm 1927, sau khi các cuộc nổi dậy của thợ thuyền thất bại ở các
thị trấn, Mao Trạch Đông quyết dựa vào nông dân, vì theo ông, ở Trung Hoa nông
dân chiếm 80%-90% dân số, không có họ thì cách mạng không thể thành công được.
Thời đó ông nghĩ rằng lực lượng cách mạng phải gồm 70% nông dân, 30% thị dân và
quân đội.
Sau ông thấy chủ trương đó sai (khi in lại tác phẩm của ông, ông
bỏ đoạn đó đi). Không có thợ thuyền (vô sản hướng dẫn thì nông dân không làm
được gì cả; mà thợ thuyền không có một tổ chức tiến bộ 1 - tức Đảng Cộng Sản - hướng dẫn thì không
thành công. Cho nên năm 1945 ông bảo "Đảng cộng sản chúng tôi bao giờ cũng
giữ quan điểm vô sản".
Năm 1949 khi cộng sản chiếm các thị trấn rồi, Ủy ban trung ương
của Đảng quyết định thay đổi trung tâm hoạt động của Đảng, rán tăng thành phần
vô sản lên. Năm 1954, riêng ở Thượng Hải - thành phố công nghệ lớn hạng nhì ở
Trung Quốc- có hàng ngàn thợ nhà máy được vô Đảng. Nhưng vai trò của nông dân
vẫn quan trọng. Những giai cấp khác mà "tiến bộ", nghĩa là chấp nhận
quan điểm vô sản thì cũng được vô Đảng.
Qui chế
Qui chế của Đảng được vạch rõ năm 1956. Đại khái như sau:
Đại hội toàn quốc được bàn trong kỳ hạn 5 năm, và theo lý
thuyết, mỗi năm họp một lần để quyết định chính sách, đường lối của Đảng. Đại
hội bầu uỷ ban trung ương - cũng trong 5 năm gồm 98 uỷ viên chính thức và một
số dự khuyết. Chủ tịch là Mao Trạch Đông.
Ủy ban trung ương lại bầu "bộ chính trị" gồm 19 uỷ
viên. Bộ này quyết định về hoạt động của Đảng và đời sống của toàn quốc.
Bộ lại cử ra bảy uỷ viên đứng đầu vào uỷ ban thường trực của bộ.
Họ có quyền tối cao.
Ở cấp, tỉnh, huyện các hội nghị và uỷ ban cũng tổ chức như trung
ương. Điểm này rất quan trọng: Các tổ chức của Đảng chỉ huy các tổ chức quốc
gia, từ trên xuống dưới. Chủ tịch hội đồng quốc gia (tức như Tổng thống ở các
nước Mỹ, Pháp), chủ tịch hội đồng bộ trưởng (tức như Thủ tướng) phải theo lệnh
của uỷ ban trung ương Đảng, của bí thư Đảng. Ở tỉnh huyện, uỷ ban hành chánh
phải theo lệnh của bí thư đảng bộ tỉnh hay huyện. Tổ chức đó y hệt Nga (Liên Xô
mà Việt Nam cũng vậy).
Ý thức hệ:
Về ý thức hệ Mác xít chúng ta chỉ cần nhớ mấy điểm này:
- Giai cấp đấu tranh là hiện tượng thời nào cũng xảy ra từ xưa
tới nay, muốn vô đảng thì phải chấp nhận quan điểm đó; phải quyết tâm diệt các
giai cấp thù địch, tức: Bọn đế quốc, đại điền chủ, quan liêu... Như vậy là có
lập trường giai cấp.
- Thiểu số phải phục tùng đa số. Khi thảo luận về mọi vấn đề thì
đảng viên có thể đưa ra ý kiến của mình, bênh vực nó, nhưng khi đa số đã quyết
định rồi thì dù ngược với ý kiến của mình, mình cũng phải theo triệt để, có vậy
đảng mới thống nhất, mới mạch lạc được.
- Quan niệm tự do của những người không phải Mác-xít là tự do
giữ quan điểm ý kiến của mình, đối với người Mác-xít, trái lại chỉ được tự do
phát biểu quan điểm Mác-xít thôi.
Cấp bậc, quyền hành:
Cộng sản có mục đích diệt tất cả các giai cấp thù địch; khi diệt
xong thì trong xã hội chỉ còn người cộng sản, không còn giai cấp nữa, do đó
không còn giai cấp đấu tranh nữa. Nhưng giai đoạn hiện tại chưa có thể bình
đẳng được, không thể ai ai cũng có quyền và hưởng lợi như nhau được; vẫn còn
phải theo nguyên tắc, làm theo khả năng hưởng theo công việc của mình, quan
trọng nhiều hay ít, theo sức của mình làm được nhiều hay ít. Nghĩa là vẫn có
nhiều cấp bậc.
Ở Trung Hoa có bảy cấp bậc:
1. Trên cùng là bộ chính trị (Polit-buro).
2. Rồi tới những người nắm giữ chức vụ quan trọng nhất: chỉ huy
Đảng ở địa phương, chỉ huy quân đội, uỷ viên chính trị trong quân đội ...
3. Bí thư Đảng ở tỉnh, chỉ huy các cơ quan quần chúng ...
4. Các nhà chuyên môn, kỹ thuật gia.
5. Công chức ở tỉnh, cán bộ trung cấp, hạ cấp.
6. Quần chúng gồm: lính tráng, thanh niên, hợp tác xã viên ...
7. Cuối cùng là hạng hoàn toàn không ở trong một tổ chức nào cả,
số người trong hạng này mỗi ngày một giảm đi.
Tuy chia làm bảy cấp như vậy, nhưng trong mỗi cấp cũng chia làm
hai ba bậc nữa, mỗi bậc được đãi ngộ khác nhau, có những quyền lợi khác nhau về
lương bổng, nhà cửa, như yếu phẩm, y phục, thuốc thang ... Tôi chỉ xin kể một
thí dụ: có dưỡng đường riêng cho cấp 1, cho cấp 2, cho cấp 3 ...; trong mỗi cấp
có phòng riêng, thuốc riêng cho hạng quan trọng nhất, hạng quan trọng vừa vừa,
kém quan trọng, thức ăn cũng tuỳ hạng mà phân phối....
Simon Leys trong cuốn Ombres Chinoises bảo thời Xuân Thu (thế kỷ
VI tr.CN) theo sách Tả Truyện Trung Hoa chỉ có mười giai cấp, mà thời nay ở
Trung Hoa có tới 30 giai cấp, mỗi giai cấp có những đặc quyền riêng. Chế độ đó
có từ năm 1956.
Khi tiếp khác ngoại quốc, các cán bộ của Mao hỏi tỉ mỉ về chức
vụ, địa vị của mỗi người khách để họ quyết định phải phái ai tiếp cho xứng,
tiếp cách nào... và khi in hình đăng báo thì phải tính xem hình sẽ lớn nhỏ ra
sao, có những nhân viên nào đăng chức tước và tên các nhân viên đó theo thứ tự
nào.... Rắc rối vô cùng. Âu Mĩ đâu có chú ý tới điều đó, nhưng ở Trung Hoa nhân
viên nào coi về nghi lễ mà sơ suất trong việc đó có thể bị "chỉnh"
gắt gao, "kỉ luật" nữa.
Chưa thể có bình đẳng được, và trong khi làm cách mạng để tiến
tới bình đẳng, thì phải bất bình đẳng hơn thời phong kiến nữa. Có vậy kẻ dưới
mới sợ người trên. Vả lại sức sản xuất còn kém, nước còn nghèo thì không thể
nào cho mọi người hưởng thụ như nhau được. Phân phối theo 30 giai cấp như Trung
Hoa, chính là "công bình" đấy, công bình như lối chia thịt của Trần
Bình đời Hán 2. Các nhà cầm quyền Trung Hoa rất thuộc sử.
Chi li quá, nhưng một xã hội mà được thật công bình như vậy,
không có đấu tranh mà chỉ có ganh đua thì cũng là một xã hội tốt rồi.
Cán Bộ
Trung Hoa đã nhiều lần ở đời Hán, Tống, cả đời Thanh nữa (Thái
Bình Thiên Quốc), làm những cuộc cách mạng gần như cách mạng xã hội chủ nghĩa,
nhưng đều thất bại do nhiều nguyên nhân, thiếu ý thức hệ, thiếu tổ chức, thiếu
phương tiện thông tin, chuyên chở... quan trọng nhất là thiếu cán bộ.
Năm 1949 khi đã chiếm hết non sông rồi, Mao phải đào tạo thật
gấp rất nhiều cán bộ. Ở các thành phố họ có sẵn một số cán bộ phiến động, tuyên
truyền ở các xưởng các trường, còn ở thôn quê họ phải dùng những thanh niên có khi
rất trẻ, dạy gấp trong vài tháng, năm sáu tháng tại các trường: "Đại học
cách mạng"; bọn đó không cần hiểu lý thuyết miễn can đảm, siêng năng, hăng
hái, tận tâm, tin tưởng ở tương lai, ở Đảng là được rồi.
Người ta tung mấy trăm ngàn cán bộ như vậy vào thôn quê để dạy
dân, sách động, tuyên truyền. Về ý thức hệ, họ chỉ biết lặp lại một số từ ngữ:
Xã hội chủ nghĩa, đấu tranh giai cấp, phản phong, phản đế, lao động là vinh
quang... mà họ không hiểu hết ý nghĩa.
Nhiệm vụ đầu tiên của họ là tạo một không khí sôi nổi, lập hội
để dân nghèo, đòi công bằng xã hội, nhận định được đâu là kẻ thù, rồi phát lòng
căm thù. Họ đi từng nhà, sống với dân nghèo, giúp đỡ dân trong công việc đồng
áng.
Họ nói, nói suốt ngày để nhồi vào đầu óc dân những từ ngữ mới,
những tư tưởng cách mạng; tổ chức các hội hè, có vũ, hát; thu thuế, quyên
tiền... Còn trẻ quá, thiếu kinh nghiệm, lại tự cao, tự phụ, họ nhiều khi lầm
lẫn, làm sai đường lối của Đảng, nhưng Đảng tha thứ cho hết, miễn là họ trung
thành, rút họ về thị xã cho học thêm một khoá bổ túc; cùng lắm thì bắt họ tự
kiểm thảo trước nhân dân.
Làm việc trong ít năm, nếu họ tỏ ra đắc lực thì được vô Đảng,
với một số điều kiện dưới đây:
- Quyết tâm hy sinh đời mình cho cách mạng.
- Chấp nhận kỉ luật của Đảng, Đảng sai làm gì cũng phải làm.
- Chí công, vô tư, nghĩa là đặt quyền lợi của nhân dân tức của
Đảng, trên quyền lợi cá nhân;
- Tự kiểm thảo và để cho đồng chí kiểm thảo;
- Học thêm để hiểu học thuyết Mác-Lê và tư tưởng Mao Trạch Đông
Đảng nhờ thống nhất, đoàn kết mà sống được, vì vậy như trên tôi
đã nói, thiểu số phải triệt để phục tùng đa số. Đảng hội họp rất thường để cùng
nhau quyết định đường lối. Nguyên tắc rất tốt nhưng lần lần nhược điểm xuất
hiện: cả những việc nhỏ nhặt người ta cũng không dám lãnh trách nhiệm, cũng họp
nhau để bàn rồi lấy đa số, do đó công việc tiến rất chậm, mất thì giờ của mọi
người và nhiều người chán nản, nói cho xuôi để có đa số mà chấm dứt buổi họp.
Thêm nhược điểm này nữa: một chính quyền độc tài, muốn có đa số
thì rất dễ (coi vụ cách mạng văn hoá ở sau), đa số đó không có nghĩa gì cả, mà
rốt cuộc đa số phải phục tùng thiểu số, trái hẳn với nguyên tắc.
Hiến pháp 1954
Quốc hội họp năm 1954 ở Bắc Kinh gồm 1226 đại biểu của toàn quốc
(25 tỉnh): 18 tỉnh Trung Hoa với các tỉnh Nội Mông tự trị, Tây Tạng... có cả
đại biểu của các dân tộc thiểu số, đại biểu hoa kiều hải ngoại nữa.
Họ họp để phê chuẩn Hiến pháp. Hiến pháp năm 1954 có lẽ là hiến
pháp thứ 10 của Trung Hoa từ năm 1911, nhưng các hiến pháp trước chỉ có trên
giấy tờ, không được thi hành, hoặc chỉ được thi hành trong một thời gian ngắn
mà cũng không được quốc dân thừa nhận. Đảng cộng sản Trung Hoa cho rằng chỉ có
hiến pháp năm 1954 của họ là quan trọng nhất, thực sự là một hiến pháp được
"toàn dân chấp nhận".
- Đoạn mở đầu tuyên bố là đã thắng đế quốc, phong kiến; tin
tưởng sẽ diệt được sự bóc lột và sự nghèo khổ, và sẽ giữ tình thân hữu bất diệt
với Liên Xô (nhưng chỉ bảy, tám năm sau tình đó đã tiêu tan).
- Đoạn về các hình thức phương tiện (mình gọi là thành phần sản
xuất), hiến pháp ghi: Có tài sản quốc gia, tức tài sản công cộng; tài sản hợp
tác xã tức tài sản chung của lao động; tài sản riêng của cá nhân lao động, tức
tài sản tư bản.
Vậy có 4 thành phần; về thành phần cuối, tôi muốn được biết thêm
chi tiết, nhưng không kiếm được tài liệu.
- Quốc hội dân bầu, theo lý thuyết có quyền tối cao, nhưng trong
thực tế, chỉ xác định những quyết định mà Đảng đã đề nghị với Quốc hội thôi.
- Điều này dễ hiểu. Giai cấp vô sản (có thể nói là toàn dân) đã
trao quyền lãnh đạo cho Đảng thì Đảng quyết định hết. Quốc hội không thể có
quyền quyết định được, chỉ là một hình thức cho có vẻ dân chủ thôi.
Quốc hội mỗi năm chỉ họp một lần, nhưng bầu một Ủy ban thường
trực có quyền tuyên bố chiến tranh khi Quốc hội không họp.
Chủ tịch Quốc hội đầu tiên là Lưu Thiếu Kỳ với 13 phó chủ tịch,
trong số này có bà Tôn Văn và Đạt Lai Lạt Ma (Tây Tạng).
Ủy ban thường trực "trùm lên" hội đồng bộ trưởng.
Trung Hoa khác Nga ở điểm có thêm một chủ tịch Hội đồng quốc gia
(như Tổng Thống ở các nước Tây Phương) và không có chế độ liên bang.
Có toà án tối cao của nhân dân, lại có viện kiểm soát tối cao
của nhân dân 3, nhưng không có bộ luật. Vì luật pháp thay đổi
hoài tuỳ theo chính sách của Đảng, có khi tuỳ theo từng miền nữa, không thể lập
thành pháp điển được. Nga mấy năm trước đây (khoảng 60 sau Cách mạng năm 1917)
mới có bộ luật, Trung Hoa hiện nay chắc dẫn chưa có; Việt Nam ta thì mới dự
định thảo một bộ luật.
Ở Trung Hoa cũng như ở mọi nước xã hội chủ nghĩa, chỉ có một
Đảng, Đảng Cộng Sản, được cầm quyền; các Đảng khác như Quốc dân đảng, Dân Chủ
đảng... tuy có danh mà không có thực. Không có Đảng đối lập.
Tóm lại, Đảng và chính quyền móc với nhau rất chặt chẽ, đều bị
một nhóm người chỉ huy; nhóm người này nắm hết các chức chủ tịch Đại hội đảng,
Ủy ban trung ương, Bộ chính trị, đó là về phía Đảng, còn về phía chính quyền
thì nắm hết các chức chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng Quốc gia, hội đồng Bộ
trưởng, Quốc hội, hội đồng Quốc phòng ...
Ở các cấp dưới cũng vậy: Một đảng viên vừa làm thư ký đảng, vừa
làm chủ tịch uỷ ban nhân dân, vừa làm tư lệnh quân khu.
Người nào không ưa chế độ thì chê nó là một bộ máy gồm nhiều
bánh xe lớn nhỏ, hết thảy đều quay một lượt nhờ một cái moay-ơ (moyeu: trái
thơm) rất nhỏ. Người nào ưa chế độ thì bảo những Đảng nhỏ (như Quốc Dân đảng,
Dân Chủ đảng...) vẫn có một chút ảnh hưởng... Nhưng ai đó cũng phải nhận rằng
bộ máy đó chạy rất tốt: lắp xong nó rồi thì các đảng viên chủ chốt nắm chặt
được toàn dân, miễn là Đảng phải đoàn kết. Khi có sự chia rẽ trong Đảng (coi vụ
Cách mạng văn hoá ở sau) thì nước loạn.
Từ thời nào tời giờ, một nhà độc tài chỉ cần có một nhóm sáu bảy
người tay chân, thật trung tín; nhóm đó lại có sáu bảy chục tay chân; bọn sáu
bảy chục tay chân này lại sai bảo sáu bảy trăm kẻ được chủ chia cho những quyền
lợi nào đó... cứ như vậy, lần lần xuống đến hang cùng ngõ hẻm, và rốt cuộc có
hàng triệu kẻ làm tay sai cho một nhà độc tài, mà hàng chục hàng trăm triệu dân
phải cúi đầu tuân lệnh.
Dĩ nhiên nhà độc tài phải cho bọn tay sai từ cao tới thấp đó
được hưởng những quyền lợi nhiều ít tuỳ địa vị, chức vụ, như vậy họ mới trung
thành.
Nhà cầm quyền cộng sản Trung Hoa phân chia ra ba chục giai cấp
quyền lợi khác nhau, quả là sáng suốt.
Nhưng cũng phải làm được gì cho dân nhờ, ít nhất cũng phải lo
cho dân đủ ăn đủ mặc thì cái ngôi của mình mới vững được. Gương của Tưởng Giới
Thạch còn đó. Trung Hoa có một câu rất hay: "Dân như nước, nhà cầm quyền
như chiếc thuyền. Nước đỡ thuyền, nhưng cũng lật úp được thuyền".
Nhà cầm quyền Trung Hoa hiểu điều đó nên khi dân bị ép quá muốn
bùng lên thì họ sửa sai liền. "Mềm nắn rắn buông" đó là nghệ thuật
cầm quyền.
Các nhà chỉ huy - Mao và đồng chí.
- Mao Trạch Đông
Trong cuộc Trường hành năm 1953, Mao tỏ ra bình tĩnh, cương
quyết, kiên trì có tư cách của một nhà lãnh đạo và được đồng chí nhận là thủ
lãnh, nhưng vẫn có một số người chống đối đường lối của ông, mãi đến năm 1945
ông mới hoàn toàn thắng hẳn.
Bà vợ thứ nhì con thầy học của ông, bị Quốc Dân đảng giết 1938,
ông cưới người thứ ba, bà này sau qua Nga ở; ông cưới người thứ tư, một đào hát
tuồng hát bóng ở Thượng Hải, bỏ nghề theo Đảng năm 1933, để "đóng trò cho
nhân dân coi" ở Diên An, bà này hiện nay còn sống.
Suốt đời, Mao chỉ ra khỏi nước có hai lần: đều qua Nga. Ông đọc
sách Anh cũng dễ dàng như đọc sách Hoa; có óc tò mò, gặp người ngoại quốc nào
cũng hỏi về tình hình thế giới.
Mỗi khi qua một giai đoạn mới, ông thảo một diễn văn để vạch
đường lối phải theo, cả về chính trị lẫn văn hoá 4. Những diễn văn đó gom lại, in thành một tập
dày, người thì không tiếc lời khen (như Brieux), người thì cho là lý thuyết
không có gì sâu sắc, chỉ đặc biệt ở tính cách thực tiễn thôi. Ông cũng làm thơ
nữa, thơ luật và nhiều sách dẫn bài "Tuyết", ông tả cảnh Hoa Bắc nhìn
từ phi cơ xuống, khi ông rời Diên An lại Trùng Khánh để thương thuyết với Tưởng
Giới Thạch.
Cho tới khoảng năm 1960 ông được các đồng chí kính trọng, sau đó
trong "bước nhạy vọt" và vụ "cách mạng văn hoá" ông mới bị
chống đối và tính tình ông thay đổi, hoá ra độc tài nham hiểm, tàn bạo, ngoan
cố.
- Chu Đức lớn hơn Mao 6 tuổi, sinh năm 1887, trong một gia đình đại điền
chủ ở Hoa Nam. Học hết trung học, ông vô trường võ bị ở Vân Nam, trường này dạy
theo phương Tây. Năm 1916 ông chỉ huy một lữ đoàn tấn công Viên Thế Khải; rồi
về sống một đời công chức giàu có, với nhiều nàng hầu ở Vân Nam. Ngoài thuốc
phiện, ông còn nghiện đọc sách, nhờ vậy mà hiểu được nhiều vấn đề chính trị và
xã hội trong nước.
Khi hiểu rồi, ông quyết tâm theo phong trào mới, đuổi chín cô
nàng hầu đi, cho mỗi người một số tiền khá lớn để nuôi con, rồi ông lên Thượng
Hải, xin gia nhập Quốc Dân đảng. Thấy cái điệu bộ nghiện ngập, già trước tuổi
của ông, người ta khinh ông. Ông nhất định cai và cai được, năm 1922 xin gia
nhập đảng Cộng Sản, được phái qua Đức học võ bị. Ở Hanovre (Đức ông thành lập
một tổ cộng sản). Chính quyền Đức bắt giam ông hai lần rồi trục xuất ông.
Ông qua Pháp, kết bạn với Chu Ân Lai, rồi qua Nga, năm 1926 về
Trung Hoa, được làm uỷ viên chính trị trong quân đội, kế đó là hiệu trưởng
trường võ bị Nam Xương, một chi nhánh của trường Hoàng Phố.
Năm 1927, khi Tưởng Giới Thạch thanh trừng đảng Cộng sản, Chu
Đức chống lại Tưởng, cùng với đoàn quân của ông, tiến vào miền Giang Tây-Quảng
Đông hùng cứ một phương. Tại đó ông nghiên cứu chiến thuật của Nga để áp dụng
vào hoàn cảnh Trung Hoa, thành một trong những lí thuyết gia giỏi nhất về du
kích chiến hiện đại. Năm 1931 ông được Đảng bầu lên Tổng tư lệnh Hồng quân, và
giữ hoài chức đó.
Sống rất giản dị, chỉ huy 2 triệu quân mà không đeo một dấu hiệu
nào cả. Trực tính tới mức thô bạo, nhưng lòng rất tốt, được quân đội rất quý.
- Chu Ân Lai là người Âu hoá nhất trong giới lãnh đạo cộng sản; sanh năm 1898
ở Hoa Nam (Giang Tô) trong một gia đình quan liêu đại địa chủ, cha làm giáo sư,
mẹ rất có kiến thức. Năm 1913, ông vô học trường trung học Thiên Tân, năm 1917
qua Nhật học đại học, hai năm sau trở về Trung Hoa tiếp tục học nữa. Theo phong
trào cách mạng, cưới một nữ sinh viên cũng làm cách mạng. Năm 1919 bị bắt giam.
Năm sau được thả, ông qua Pháp để tiếp tục học, lập ở Paris một
chi nhánh của đảng Cộng sản Trung Hoa. Tìm hiểu đời sống thợ thuyền trong các
mỏ than ở miền Bắc và miền Khénanie, đi du lịch khắp Tây Âu, qua Anh. Sau bốn
năm tiếp xúc với văn minh phương Tây và biết rõ chế độ dân chủ, ông trở về nước
năm 1924, dạy ở đại học võ bị Hoàng Phố về chính trị, dưới quyền Tưởng Giới
Thạch.
Cùng với Lưu Thiếu Kỳ, Chu tổ chức giai cấp thợ thuyền Thượng
Hải, thành công tới mức dùng thợ thuyền không phải đổ một giọt máu mà chiếm
được thị trấn đó trước khi quân Tưởng Giới Thạch tới. Khi Tưởng thanh trừng tả
phái trong Quốc Dân đảng, ông bị bắt, trốn thoát lại Hán Khẩu 5. Sau khi cuộc nổi loạn ở Quảng Châu thất bại,
ông trốn qua Hương Cảng, lại lập một tổ chức Cộng sản ở đó.
Năm 1928 ông được phái qua Moscou dự Đại hội thức VI của Đệ tam
Quốc tế. Ông ở lại Moscou học trường Đại học Đông Phương. Năm 1931, về nước hợp
tác với Mao ở Giang Tây, cùng với vợ dự cuộc Trường hành như vợ chồng Chu Đức.
Năm 1935 ông lại qua Moscou dự Đại hội thứ VII. Trở về Trung Hoa, ông được phái
lại Tây An, thuyết phục Trương Học Lương thả Tưởng Giới Thạch. Khi Quốc và Cộng
kí hiệp ước mặt trận chống Nhật, ông đại diện cho Cộng (tựa như sứ thần của
Cộng) ở Nam Kinh, Hán Khẩu, Trùng Khánh bên cạnh Tưởng Giới Thạch. Chu học
rộng, sáng suốt, luôn có thái độ đàng hoàng, nhã nhặn theo Vladi-mirov, ông tuy
có chủ trương khác Mao, nhưng mềm mỏng, trung thành với Mao, được Mao tin giữ
chức bộ trưởng ngoại giao - có thời làm thủ tướng- cho tới khi chết, không ai
thay ông được. Ông được nhiều người quý mến.
- Lưu Thiếu Kỳ làm phó chủ tịch Bộ Chính trị trung ương của Đảng. Gầy, ăn nói kém,
nhưng viết văn hay, cô đọng, mạnh mẽ. Cũng sinh ở Hồ Nam như Mao, học ở Moscou
vô đảng năm 1922, hoạt động ở Giang Tây nhưng không dự cuộc Trường hành, mà ở
lại hoạt động ngầm tại Bắc Kinh và các thị trấn Hoa Bắc. Năm 1935 tổ chức cuộc
bạo động của sinh viên đòi Tưởng phải chống Nhật. Năm 1937 điều khiển Hội lao
động toàn quốc. Sau làm tham mưu trưởng trong Tân đệ tứ lộ quân. Được bầu vô Ủy
ban Chính trị thường trực trung ương Đảng; lãnh trách nhiệm rất quan trọng là
vạch đường lối, thảo lý thuyết cho Đảng. Trong Bộ Chính trị, ông là người biết
rõ nhất về Trung Hoa.
- Lâm Bưu. "Vô địch tướng quân" sinh năm 1907 ở Hồ Bắc. Ở
trường Hoàng Phố ra, năm 1927 dự cuộc khởi nghĩa ở Nam Xương; năm 1935 theo
cuộc Trường hành; có công đầu trong cuộc nội chiến, từ đầu cho tới cuối, từ Mãn
Châu tới Hoa Bắc, Hoa Trung, Hoa Nam(1946-1949), có tham vọng, tư cách kém.
- Bành Đức Hoài cũng tổ chức du kích quân ở Hồ Nam-Giang Tây, rồi theo cuộc
Trường hành; đa tài, tư cách cao, uy danh chỉ hơn kém Mao và Chu Đức. Sống giản
dị, không ham chức tước, quyền hành, thời nào cũng gần gũi với đại chúng, do đó
hiểu được nỗi lầm than, nghe được những lời ta thán của nông dân trong vụ
"nhảy vọt", dám nói thẳng với Mao, bị Mao ghét.
- Trần Nghị sinh năm 1901 ở Tứ Xuyên trong một gia đình quan liêu, năm 1919
qua Pháp theo nhóm sinh viên làm thợ, tổ chức một phân bộ Cộng sản ở Pháp năm
1921 bị trục xuất vì tổ chức vụ sinh viên Trung Hoa biểu tình ở Lyon. Năm 1923
vô Đảng, năm 1930 diệt nhóm chống đối Mao, đưa Mao lên làm lãnh tụ. Trong cuộc
trường hành, chiến đấu rất hăng. Năm 1941 chỉ huy Tân đệ tứ lộ quân, trong nội
chiến năm 1947-1948 được phong làm thống chế. Năm 1958 làm Bộ trưởng ngoại giao
nhưng thiếu kinh nghiệm. Trong cuộc cách mạng văn hoá, bị hồng vệ binh hỏi tội,
mất chức bộ trưởng nhưng vẫn còn là uỷ viên trung ương Đảng. Rất được Chu Ân
Lai tin.
So sánh nhóm thân thích của Tưởng với nhóm đồng chí của Mao,
chúng ta thấy hai bên trái ngược hẳn nhau về tư cách, đời sống. Nhóm Mao là
những chiến sĩ gan dạ được cách mạng tôi luyện, nằm gai nếm mật với nhau (mặc
dù vậy, sau này họ cũng tìm cách thủ tiêu nhau). Trong nhóm thiếu nhà khoa học,
nhà kỹ thuật, không thích hợp với thời phát triển kinh tế.
Quân đội
Sức mạnh của Cộng sản là quân đội. Lính của Tưởng bị khinh rẻ,
ngược đãi một số lớn vì đói rách phải cướp bóc như 100.000 quân Lư Hán ở Vân
Nam mà năm 1945 Tưởng cho qua Bắc Việt để giải giới Nhật thật sự là để Việt Nam
nuôi chúng mà chúng không làm loạn. Chúng bắt buộc phải nhập ngũ, không được
huấn luyện, không có một lí tưởng gì cả, mà hạng chỉ huy chúng nhất là bọn quân
phiệt, thiếu tư cách, tàn nhẫn, nên ngay từ đầu Tưởng ra lệnh phải tôn trọng
tài sản của nhân dân, chúng cũng không theo. "Người ta không coi trọng họ
là con người thì họ cũng không hành động như con người".
Trái lại, quân của Mao từ nhân dân mà ra, được Đảng tiêm một lý
tưởng cao cả: Giải phóng nhân dân khỏi cái ách phong kiến và đế quốc, được đảng
dạy cho cách cư xử với nhân dân- cha mẹ, chị em, anh em của họ- chỉ giúp đỡ
nhân dân (cày ruộng, gặt lúa, tát nước, cất nhà... chứ không lấy của nhân dân
một chút gì, dù là một sợi chỉ, một trái cây, cho nên họ có tư cách, được nhân
dân quý mến. Đúng như khẩu hiệu của Chu Đức: "Quân đội ở trong nhân dân
phải như cá ở trong nước". Họ chịu cực khổ nhưng không đói (Hồi ở Diên An
mỗi ngày họ được nữa kí lô kê).
Quân đội của Mao chia làm ba dạng
- Quân chính quy năm 1945 được khoảng 300.000 cuối năm 1948 được
khoảng 1.500.000 lộ quân (tức bộ binh). Mới đầu không có pháo binh, sau chiếm
được đại bác, cam nhông của Tưởng (do Mĩ viện trợ họ mới lập được vài đội).
- Dân quân là những tổ chức địa phương (nên cũng gọi là địa
phương quân) gồm dân tình nguyện trong miền, nhiệm vụ là canh gác, giúp đỡ quân
chính qui, diệt các thổ hào. Họ chỉ hoạt động trong miền, tự túc; ngay cả khí
giới họ cũng phải tự xoay sở lấy.
- Quân du kích ở những miền có địch (Nhật hay Quốc Dân đảng).
Đa số giải phóng quân là người ở miền Bắc, còn Quốc Dân đảng thì
đa số ở miền Nam; mà người miền Bắc thường lực lưỡng hơn, can đảm siêng năng
hơn người miền Nam. Khí giới họ ưa nhất là lựu đạn. Những người chỉ huy họ ít
khi xuất thân từ trường võ bị, nhờ chiến đấu mà rút kinh nghiệm, rồi chịu học
hỏi thêm, nghiên cứu chiến thuật của Napoléon, Clausewitz, Rommel, Joukov...
Chu Đức nổi tiếng nhất, được quân đội rất trọng, danh vọng uy
tín ngang với Mao Trạch Đông.
Cộng sản coi trọng chiến lược (Cách dùng địa thế, dùng người,
tương quan lực lượng giữa hai bên....) hơn chiến thuật.
Về phương diện chính trị, Mao và Chu Đức tuyên truyền mạnh để
tăng cường tinh thần của mình và tiêu hao tinh thần của địch; về phương diện
quân sự, phải làm suy giảm sức mạnh của địch; cướp được nhiều võ khí của địch,
hoặc làm cho địch đào ngũ nhiều, bắt sống rồi tuyên truyền một thời gian, kẻ
nào theo thì dùng, không theo thì thả ra, cho tiền, cho gạo nữa chứ không cần
giết, vì họ không dám mà cũng không muốn trở về với Tưởng. Tưởng không khi nào
dùng lại họ.
Vì vậy mà 80% tù binh xin được ở lại phục vụ trong đạo quân giải
phóng; họ thấy họ được nông dân không những không khinh rẽ mà còn săn sóc như
con, em. Thuật tuyên truyền của cộng thật tuyệt, họ rất hiểu tâm lý dân.
Đó là chiến lược. Về chiến thuật thì cộng sản thay đổi nhiều lần
cho thích hợp với khí giới họ có. Họ nghiên cứu cách sử dụng dao găm. Khi địch
dùng đại bác, chiến xa, phi cơ thì dao găm không thể chống được địch, nhưng thế
nào cũng có lúc địch đi lùng bố trong làng xóm, hoặc lúc hai bên đánh xáp lá
cà, thì dao găm rất lợi. Rồi khi nào cướp được đại bác, xe tăng của địch thì họ
nghiên cứu cách sử dụng những khí giới đó. Tinh thần học hỏi của họ cao, quân
của Tưởng ngược lại, rất lười biếng.
Chiến lược của họ là không chiếm đất đai, thị trấn, rồi đóng đồn
để giữ. Họ dùng nông thôn bao vây thành thị. Năm 1946-1947, Mao đã nhử cho quân
của Tưởng vào chiếm Diên An, như trên chúng ta đã biết. Họ rút ra ngoài đánh du
kích. Họ nói: "Địch chiếm được thị trấn nọ, không dùng mất một tên lính,
nhưng phải dùng 40.000 quân để giữ thị trấn, tức là lực của địch giảm đi 40.000
người, nếu khi chiếm, địch thiệt hại 30.000 thì trước sau chúng ta bớt đi được
30.000 + 40.000 = 70.000 quân địch. Rồi chúng còn phải dùng binh và xe cộ để
tiếp tế, chúng ta lại được dịp phục kích, chiếm được khí giới, quân nhu. Chúng
bị nhốt trong đồn, lâu sẽ chán nản, ở ngoài ta tuyên truyền cho chúng mất tinh
thần, lúc đó tấn công thắng chúng dễ dàng hơn là ở ngoài mặt trận".
Hai loại chiến tranh khác nhau bằng giải phóng và bình định.
Chiến lược đó rất lợi hại, Việt Minh đã theo Mao mà thắng được Pháp, Mĩ, đều đó
dễ hiểu. Chỉ có điều này khó hiểu: Pháp, Mĩ sao không rút được kinh nghiệm mà
cứ đút đầu vào rọ hoài.
Một chính khách Mĩ bảo: "Chiến tranh du kích lâu mà không
bại, tức là thắng đấy". Số quân của Tưởng giảm đi, khí giới của Tưởng cũng
giảm đi, càng ngày tương quan lực lượng giữa hai bên càng bất lợi cho Tưởng;
lúc đó (năm 1948) là lúc Mao đại tấn công và Tưởng sụp rất mau.
Trong tập "Tình thế hiện tại và nhiệm vụ của chúng ta"
viết cuối năm 1947, Mao đưa ra vài quy tắc (chắc do kinh nghiệm của Chu Đức),
dưới đây tôi trích vài điểm.
- Đánh những nhóm nhỏ, rải rác của địch trước, rồi sau hãy đánh
những nhóm mạnh.
- Mục tiêu quan trọng nhất là tiêu ma sức chiến đấu của địch,
chứ không phải là chiếm thị trấn...
- Trong mỗi trận phải tập trung sức của mình, cho mạnh gấp bốn,
hoặc năm, sáu sức của địch. Bao vây chúng rồi diệt, không cho một tên thoát ra
được.
- Tránh những trận kéo dài, làm hao mòn sức của mình.
- Phải chuẩn bị kỹ, hễ không chiến thắng thì đừng đánh.
Những đều đó không mới mẽ gì, chỉ là lương tri thôi; nhờ chịu
kiên nhẫn áp dụng thật đúng mà quân của Mao thắng được quân của Tưởng.
Nhưng dân quân không phải chỉ có mỗi nhiệm vụ chiến đấu mà thôi;
khi không cầm súng họ còn nhiệm vụ: Giảng Chính trị cho nông dân nhận định thân
phận của mình thời trước và trách nhiệm của mỗi người trong thời này; hiểu được
đường lối của đảng biết kẻ thù của đảng là ai...
Và Kinh tế giúp nông dân sản xuất, cải thiện phương pháp canh
tác...
Sau năm 1949, khi hết nội chiến, chính quân đội phải làm những
công trình kiến thiết lớn: sửa đê, thuỷ lợi, xây cầu, xây đường, xây nhà máy và
sản xuất trong nhà máy nữa.
Từ năm 1950, nhất là sau chiến tranh Triều Tiên. Hồng Quân không
còn là một quân đội thật sự nhân dân nữa, từ cách tuyển lính tới cách chiến
đấu, sự kết hợp với nhân dân, không phải như "con cá trong nước" nữa.
Không phải là tự nguyện quân mà là trưng binh; có quân phục, dấu hiệu để phân
biệt cấp bậc, có khí giới tối tân như mọi quân đội của nước khác.
Theo luật 1955, đàn ông từ 18 đến 40 tuổi phải làm nghĩa vụ quân
sự 3 năm trong lục quân, 4 năm trong không quân, 5 năm trong hải quân; như vậy
mỗi năm có từ 5 tới 6 triệu người đúng tuổi trưng binh và trong thời bình,
Trung Quốc phải nuôi 15 triệu quân, nhưng thực sự thì chính phủ chỉ gọi khoảng
1 triệu người và cả lục, không, hải quân có khoảng từ 3 tới 4 triệu người.
Sau chiến tranh Triều Tiên, lục quân đã được tổ chức lại theo
Nga, gồm khoảng 2.500.000 người, giỏi chiến đấu, dai sức, quen chịu cực, can
đảm, kiên nhẫn.
Không quân Trung Hoa lớn nhất Châu Á, gồm 2500 phi cơ chiến đấu,
nhiều kiểu tối tân. Hải quân còn yếu, không đáng kể.
Nhưng lực lượng dân quân thì rất đông và mạnh; làng nào cũng có
ít nhất một đại đội (ta nên nhớ làng Trung Hoa lớn bằng một huyện, hay hơn của
ta). Toàn quốc có từ 20 đến 25 triệu dân quân. Nếu có chiến tranh thì 25 triệu
quân đó thành 25 triệu lính trừ bị. Họ được học tập về chính trị.
Mặc dù quân đội vẫn rất trung với đảng, rất ái quốc, nhưng cũng
phải nhận rằng đã có hai xu hướng: xu hướng thành một uy lực, một quyền thế
trong quốc gia, và xu hướng tách rời quần chúng. Các cấp tham mưu và các kỹ
thuật gia trong quân đội đã bớt quan tâm tới chính trị.
Còn chiến tranh thì quân đội còn mạnh. Hoà bình lâu quá thì thế
nào tinh thần quân đội cũng nhụt đi. Có lẽ vì vậy mà nước Cộng sản nào cũng gây
trong dân chúng cảm tưởng rằng tình hình thế giới bất ổn, để dân chúng phải
chuẩn bị đề phòng. Mà sự thật, thế giới từ ba bốn chục năm nay rất bất ổn, vì
sự tranh chấp giữa tư bản và cộng sản. Nhưng không nước nào dám nuôi cái mộng
chiếm Trung Hoa, nó mênh mông quá, dân số hiện nay được một tỉ, một phần năm
dân số trên thế giới rồi; nhất là nguyên tử lực của nó vào hàng ba, chỉ kém Mỹ,
Nga; rồi đây thế nào nó cũng có những khí giới mà sức tàn phá tới mức tuyệt đối
nhất.
(Mao và Lâm chắc quên chiến tranh Triều Tiên năm 1950-1953). Lâm
nịnh Mao mà không biết ngượng, "chỉ có thuyết của Mao là chân lý, tự đề
cao mình mà không biết ngượng chỉ Lâm là sứ đồ duy nhất của Mao". Thâm ý
của Lâm là đưa Mao lên bệ để làm ngẫu tượng hưởng hương hoa của sứ đồ Lâm dâng
lên còn Lâm sẽ làm hết mọi việc cho nước. Mao khôn, hiểu Lâm muốn "hất
mình lên", để chiếm ngôi của mình, nên bảo Lâm tốp lại.
Những năm 1960-1962, uy quyền của Mao xuống thấp nhất. Nhưng mùa
thu năm 1962, lấy tư cách là chủ tịch Đảng, mặc dầu là vô quyền, ông ta vẫn có
thể lên tiếng được, đọc một diễn văn bảo phải đào tạo lại thanh niên, phải ngăn
chặn sự tiêu cực của cán bộ nông thôn, coi chừng bản năng tư sản của nông dân
lại nổi dậy; phải xét lại vấn đề văn hoá mà bọn trí thứ đương nắm quyền để phản
lại xã hội chủ nghĩa, phục hưng lại chế độ tư bản. Không ai nghe ông cả.
Năm 1965, ông tấn công mạnh hơn, trách đảng để cho cán bộ cao
cấp bị hủ hoá, chính đảng đã bị suy hoại tới đầu, tới cổ rồi, phải dùng bần
nông làm công việc thanh trừ từ nông thôn, nếu không tin được dân quân thì giao
khí giới cho bọn bần nông đó.
Vậy Mao đã có ý làm một cuộc đảo chánh mà Lưu Thiếu Kì và Đặng
Tiểu Bình không hiểu, hoặc hiểu mà vẫn tin là mình còn kiểm soát được. Mao nói
là phải thanh trừ từ dưới lên. Thanh trừ ở dưới thì được, nếu dẹp luôn cả đảng
ở trên cao thì loạn rồi, sụp đổ hết, điều đó không thể xảy ra được. Họ nghĩ
vậy.
Mao ra lệnh cho Lâm Bưu làm một cuộc đảo chánh, chiếm Bắc Kinh
năm 1966.
Mao và Lâm làm chủ Bắc Kinh rồi, còn phải chiếm các tỉnh nữa.
Mao biết rằng đảng ở địa phương nếu không theo Lưu Thiếu Kì thì cũng không chịu
để cho quân đội nghe Lâm Bưu mà diệt đảng; phải dùng lực lượng khác và ông ta
có một sáng kiến lạ lùng, một thuật thần sầu quỉ khốc; dùng thanh niên tức hồng
vệ binh để diệt cán bộ, diệt đảng. Bọn thanh niên đó dễ tin, nghe lời Mao, họ
được dịp phá phách làm loạn nên hăng hái vô cùng. Thử tưởng tượng bỗng nhiên
thành con cưng của chế độ, được quyền tố cáo, lật đổ các đảng viên có uy quyền
đã áp chế họ, mà lại được mang cái vinh dự là chống đỡ tổ quốc, cứu thoát nhân
dân để làm "cách mạng văn hoá" thì còn gì sướng bằng!
Cách mạng văn hoá
Mao cho in không biết bao nhiêu triệu bản (có sách nói là 740
triệu, không tiền trong lịch sử nhân loại) một tập Sách đỏ truyền bá tư tưởng
của ông.
Ông cho rằng bước nhảy vọt và công xã nhân dân của ông thất bại.
Ông chịu nhận là thất bại rồi, chịu nhận rằng những thống kê của cán bộ công xã
là láo toét vì được sống mấy năm trong hoà bình, cán bộ hủ hoá, mất tinh thần
cách mạng năm 1935 (vụ Trường hành), thành một bọn công chức tiểu tư sản, sợ
khó nhọc, biếng nhác… vậy phải làm lại cách mạng, đưa hết những bọn cán bộ, trí
thức, học sinh ở thành thị về nông thôn sống với dân quê, vào trong các nhà máy
sống với các thợ thuyền, lao động cực khổ, để cho tinh thần cách mạng của họ
phục hồi lại. Họ phải có tinh thần chịu nghèo, thích nghèo, thích làm các công
việc tay chân, không thèm dùng máy móc của bọn tư sản không chuyên môn hoá,
luôn luôn chống bọn thư lại, tiểu tư sản. Như vậy là thay đổi lại cả một nền
văn hoá, cho nó thành thứ văn hoá bần cùng, vô sản, lao động. Mao dùng từ
"văn hoá" theo nghĩa ấy.
Cứ khoảng 10 năm lại phải làm lại cuộc cách mạng văn hoá đó, cho
tới trăm năm, ngàn năm, nếu ngưng lâu thì con người lại hủ hoá, tư sản hoá, lại
có giai cấp đấu tranh nữa. Vậy cách mạng văn hoá đó có phải là thường trực
tuyệt đối.
Từ khi có loài người tới nay, chưa ai có ý nghĩ làm một cuộc
cách mạng như vậy. Thay đổi hẳn 600 triệu người, bắt họ thụt lùi lại, sống thời
trung cổ hay thượng cổ nữa.
Cuốn Sách đỏ (tuyển tập) của Mao chỉ lớn bằng bàn tay, có thể bỏ
túi được. Bọn Hồng vệ binh nhiều kẻ chỉ mới 15-16 tuổi phải học thuộc tập đó,
rồi đi khắp nơi, tới cả các hang cùng ngõ hẻm, truyền bá tư tưởng của Mao,
triệt hạ kẻ nào dám chống đối.
Ngày 18.8.1966, mấy trăm ngàn Hồng vệ binh tập hợp nhau tại
Thiên An Môn (Bắc Kinh) để tỏ lòng trung thành với Mao rồi chia nhau thành đoàn
đi khắp tỉnh, vênh váo ra lệnh cho người lớn, dạy bảo hạng người bằng tuổi cha
ông chúng. Chúng thấy sách là đốt vì sách nào cũng lạc hậu, nếu không phải là
phản động, đồi truỵ. Mới 4-5 giờ sáng, chúng đã cho máy khuyếch thanh chạy oang
oang, nhồi vào tai thiên hạ tư tưởng của Mao.
Các tiệm sách phải đóng cửa hết. Trong 6 năm liền không in tập
sách nào cả, trừ tập Sách đỏ của Mao và ít cuốn về kỹ thuật. Đúng là chính sách
Tần Thuỷ Hoàng thời xưa. Muốn kiếm một bộ Tam Quốc hay Thuỷ Hử cũng không có.
Trong các thư viện, người đọc sách chỉ được mượn những tác phẩm ngoại quốc đã
được lựa chọn kỹ: Balzac, Zickens, Zola "những tác giả chứng nhân của thời
đại mục nát, tan rã của giai cấp tiểu tư sản". Gorki và MaiaKoski đứng
hàng đầu vì họ ca tụng vô sản.
Người ta duyệt lại các giá trị văn hoá cũ của nhân loại:
Shakespeare, Mozart, Bethoveen, Bach bị đả kích; ngay Tolstoi, Hugo trước kia
được coi là tiến bộ nay cũng bị mạt sát.
Sáu năm sau (1972) mới bắt đầu cho in lại truyện như Hồng Lâu
Mộng, Tam quốc diễn nghĩa, Ba trăm bài Đường thi… và bản dịch những cuốn
L’esprit des lois của Monstquieu, Histoire de la guerre de Péloponèse của
Thucydide, La critique de la raison pure của Kant. Tức thì thiên
hạ đổ xô lại mua còn những tiệm bán sách của Mao, Marx, Lenine thì vắng teo
(Alam Peyrefitte – Quand la Chine s’éveillera – tr.121)
Các đền đài, viện bảo tàng đóng cửa hết, có nơi dùng làm kho
chứa rác, làm trại lính. Bảo vật, nhất là các tượng bị phá huỷ.
Dân chúng có đồ cổ, tranh cổ cũng phải dấu cất đi; bọn vệ binh
lau nhau có thể vào đập phá. Những tàn tích của thời phong kiến lạc hậu đó, ai
còn giữ thì là phản động. Phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới mẻ. Về sau bị
báo chí phương Tây chê là không biết trọng di sản văn hoá của dân tộc Mao mới
sửa sai, cho khai quật một lăng tẩm của vua chúa đời Minh, được rất nhiều cổ
vật đem qua Tây Âu triển lãm để thế giới thấy rằng Mao không vong bản. Lúc đó,
Mao cần lấy lòng của Tây phương để được vô Liên Hiệp quốc (1971)
Đồng thời với công việc phá huỷ đó, Mao bắt thị dân phải về nông
thôn, sống với nông dân, làm việc với nông dân. Thật là một phong trào di cư vĩ
đại. Ở Thiên Tân, hơn 40.000 học sinh trung học và trên 10.000 sinh viên đại
học về nông thôn. Nhưng tỉnh Giang Tây mới đáng làm kiểu mẫu: trên 720.000
người (130.000 cán bộ, giáo viên, y sĩ) về nông thôn chia làm 12.000 đội sản
xuất như nông dân. Các nhân viên hành chánh giảm xuống chỉ còn 1/5, còn 4/5 về
nông thôn. Chỉ khổ cho các công xã nhân dân phải nuôi họ, kiếm chỗ ở, việc làm
cho họ.
Các nhà bác học may mắn hơn còn được tiếp tục khảo cứu, nhưng
không được ở thị trấn, gần thư viện, trong các "la bô" (phòng thí
nghiệm) nữa, cũng phải về đồng ruộng hoặc vào các xưởng xem nông dân, thợ
thuyền cần gì thì cũng phải tìm tòi cùng họ về cái đó.
Giáo sư đại học phải đi hốt phân, đổ vào một xe "bù
ệt" (xe một bánh) đẩy đi. Quách Mạt Nhược bảo: "văn minh phát từ phân
mà ra, từ khi bọn du mục biết rằng phân cừu, phân ngựa của họ chôn xuống đất
làm cho cây cỏ tốt tươi". Họ Quách bác học và thông minh thật.
Các giáo sư chở phân ra ruộng, đổ phân xuống ruộng, rồi dùng hai
bàn tay nhồi đất cho thật đều, thật nhuyễn, để có sự hoà hợp mật thiết giữa đất
và phân thì kết quả mới tốt. Có nơi còn tổ chức một cuộc tiếp đón linh đình, đủ
kèn, trống, cờ, biểu ngữ (không hiểu có múa lân không) để đón một ngàn xe
"bù ệt" phân tới.
Có hốt phân thì mới là "hồng" cả "chuyên"
nữa chứ và phải làm sao cho tụi trí thức "thấy sung sướng rằng mình không
còn là trí thức nữa", thì cách mạng mới thành công (A Peyrefitte trích
dẫn).
Chính Chu Ân Lai làm gương. Tôi đã thấy một tấm hình, không nhớ
ở sách báo nào chụp Chu đẩy một chiếc xe bò chở đồ. Mặt ông bình tĩnh nhưng
không tươi cười như khi ông tiếp khách ngoại quốc. Đúng là truyền thống từ đời
Chu: thời xưa, đầu năm thiên tử ra ruộng, cày một luống để mở đầu công việc
đồng áng cho dân; bây giờ đại thần (Chu) thay thiên tử (Mao); chỉ khác có thế
thôi.
Mục đích của Mao là nghiền các giai cấp, trộn lộn làm một chỉ
còn một thôi. Công việc của nông dân, thợ làm cũng được, và ngược lại công việc
của giáo sư, y sỹ, bác học,… nông dân và thợ làm thay cũng được và ngược lại,
công việc hốt phân, cày ruộng, đập sắt, xây nhà,… nhà trí thức nào làm cũng
được. Cũng là truyền thống nữa. Khổng Tử chẳng bảo từ 2.500 năm trước rằng
"sỹ khả bách vi" (kẻ sỹ tức hạng trí thức) có thể làm được mọi việc
đấy ư? Nhưng chính Khổng Tử lại đáp Phàn Trì, môn đệ của ông muốn xin ông chỉ
cho nghề nông "Ta không bằng một lão nông", vậy là ông trọng sự
chuyên môn, còn Mao thì muốn diệt cả sự chuyên nghiệp.
Các trường đại học đóng cửa luôn 4 năm từ năm 1966 đến 1970, khi
mở cửa trở lại thì rút từ 4 năm xuống còn 2-3 năm. Muốn được tuyển vào thì phải
giỏi về ý thức hệ, phải thuộc và biết áp dụng tư tưởng của Mao, phải biết sống
chung với dân chúng, phải có tinh thần phục vụ giai cấp vô sản.
Học hết trung học (trước 6-7 năm nay rút xuống còn 4-5 năm),
phải thực tập trung bình 3 năm hoặc trong xưởng hoặc ngoài đồng ruộng. Con nông
dân, thợ thuyền, binh lính thì không buộc có bằng cấp gì cả.
Như vậy mới đúng với lập trường giai cấp.
Chương trình học thay đổi hẳn: nhiều môn bỏ hoặc giảm (như sử
học, văn học); có mấy môn thêm như canh nông (lý thuyết và thực hành văn hoá
cách mạng…) mà sinh viên ngành nào cũng phải học. Về canh nông dĩ nhiên người
ta đưa nông dân lên làm giáo sư; khổ cho họ (nông dân) chứ họ không cho đó là
một vinh dự.
Hậu quả là sau cuộc cách mạng tôn giáo bị dẹp, các chùa chiền,
giáo đường Hồi và Ki tô phải đóng cửa, báo chí bị rút giấy phép; các rạp hát
trong toàn quốc chỉ còn diễn đi diễn lại 6-7 vở tuồng (trên tổng số là 50.000
vở) mà vở Bạch Mao nữ (trang ở sau) được diễn nhiều nhất và quay phim. Vô số
trí thức thất nghiệp bỏ nghề, họ không được đào tạo thêm; 5-6 năm sau, khi tình
trạng bình thường trở lại Trung Hoa thiếu kỹ thuật gia một cách trầm trọng. Có
tỉnh lớn bằng nửa nước ta mà trong số lãnh đạo không kiếm ra được 10 cán bộ có
bằng cấp đại học; một nửa số cán bộ không hiểu nổi tài liệu của Đảng. Bộ Chính
trị, Uỷ ban Trung ương Đảng không ai có bằng cấp cao. Trên số 11.3 triệu cán bộ
thì 7 trịêu bị đàn áp, non 2 triệu xử tử, nên phải tuyển thêm 20 triệu Đảng
viên.
Một số nhà văn bị nhục, phải xử tử như Lão Xá, hoặc phải trốn ra
nước ngoài, còn đa số phải tự phê như Quách Mạt Nhược. Quách năm đó đã 70 tuổi,
tuyên bố: "theo các tiêu chuẩn hiện nay, những gì tôi viết ra trước đây không
có giá trị gì cả và đáng đem đốt hết…" “Nhờ nghiên cứu các tác phẩm của
Mao chủ tịch, thợ thuyền, nông dân và binh sỹ viết hay hơn tôi".
(nhưng trước sau tôi có thấy tác phẩm nào của ba giai cấp đó
đâu).
Có lẽ Quách hơi ức nên dùng mấy tiếng hạn chế: "theo các
tiêu chuẩn hiện nay", và bọn binh đỏ hiểu ý tại ngôn ngoại của "quân
chủ bại", là "tên văn sỹ phản động con đẻ của gia đình phong kiến.
Quách là Viện trưởng Viện khoa học nổi tiếng khắp thế giới mà còn bị như vậy
thì Đinh Linh, Mao Thuần đâu được tha. Ngay Chu Dương, người từ trước vẫn là
phát ngôn viên của Đảng về văn hoá mà cũng bị kết tội là mê say văn nghệ tư sản
thế kỷ XIX, là phản cách mạng, đề cao Kroutchev là "cáo già, chó sói, rắn
độc" (theo K.S.Karol trong La Chine de Mao – Robert Laffont – 1996.
Báo chí Trung Quốc gần đây bảo cuộc cách mạng đó đã giết chế 20
triệu người, không biết nhà cầm quyền (Đặng Tiểu Bình và bộ hạ) có phóng đại để
kết tội bọn tay sai của Mao, tức bốn tên Vương Hồng Văn, Trần Bá Đạt (thư ký
của Mao), Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên (nên kể thêm Giang Thanh, vợ Mao
nữa), tức bốn hung thần trong cuộc cách mạng văn hoá không.
Một nhà báo của Tây phương ví Mao với Tần Thuỷ Hoàng: Mao đáp:
"Tần Thuỷ Hoàng chỉ giết có 460 kẻ sỹ. Còn tôi, tôi đã giết 46.000 trí
thức, tôi hơn Thuỷ Hoàng cả trăm lần chứ!".
Ngày nay Mao đã chết, chính sách của Mao đã bãi bỏ, nhưng dù
ghét Mao thì cũng chưa ai dám đập thần tượng Mao.
Rốt cuộc Mao chỉ muốn tố cáo, hại những kẻ thù của ông: Lưu
Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình,… nhất là Lưu, kẻ đã chiếm ngôi Chủ tịch hội đồng Nhà
nước của ông, nên phải tìm ra một lý thuyết mới: cách mạng thường trực, mớm cho
bọn con nít là Vệ binh đỏ để chúng mạt sát, trừng trị bọn tay sai hoặc có cảm
tình với Lưu ở các tỉnh, nhưng tuổi trẻ hăng quá, chỉ trong một tháng, chỉ
trong 1 tháng, từ giữa tháng 8 đến giữa tháng 9 năm 1966, chúng tố cáo lung
tung, kết tội gần hết các nhà cầm quyền địa phương và bọn này phải phản ứng,
cũng tổ chức Hồng Vệ binh địa phương để tiêu diệt Hồng vệ binh Trung ương, sinh
ra loạn khắp nước, nhất là ở Bắc Kinh, Thượng Hải, Vũ Hán, hai bên đâm chém
nhau. Các nhà cầm quyền địa phương lại thừa dịp tách riêng ra, không chịu nhận
mệnh lệnh trung ương nữa, muốn tự trị. Bắc Kinh phải vội vàng nắm lại bọn Hồng
vệ binh, dùng quân nhân dạy bảo chúng, bắt chúng vào kỷ luật.
Chu Ân Lai cũng cảnh cáo chúng là chúng chỉ có nghĩa vụ lật đổ
những kẻ chính phủ chỉ cho chứ không phải là lật đổ chế độ.
Riêng thị trấn Thiên Tân, người ta đưa hàng vạn Hồng vệ binh về
ruộng để được cải tạo, để được bần nông dạy dỗ cho. Đến phiên chúng phải gánh
phân, nhồi phân, trồng cải bẹ (món ăn chính của bình dân Trung Hoa cũng như rau
muống ở Bắc Việt). Thế là hết nạn Hồng vệ binh.
Nhưng chúng ta nên công bằng: cách mạng văn hoá ở Trung Hoa có
điểm đáng khen là nghiên cứu y học cổ truyền, nhất là khoa học châm cứu, thực
hiện cải thiện phương pháp, thực hiện được nhiều tiến bộ, làm được một số giải
phẫu mà khỏi phải dùng thuốc mê, thuốc tê được người phương Tây khen và hiện
nay môn đó bắt đầu được phát triển ở vài nước như Pháp, Việt Nam…
Tháng 10/1968, trong một cuộc họp của Uỷ ban Trung ương Đảng,
Mao làm chủ tịch, người ta thừa nhận chính sách của Mao từ 1966 về cuộc cách
mạng văn hoá và toàn thể đồng lòng đuổi vĩnh viễn tên "phản động" Lưu
Thiếu Kỳ ra khỏi đảng, tước hết các chức vụ của Lưu ở trong và ngoài đảng, bỏ
tù Lưu và sau Lưu chết thê thảm ở trong ngục vì bị hành hạ tàn nhẫn, vợ con
không hay gì cả.
Qua vài năm sau đến phiên của Đặng Tiểu Bình. Người ta dẫn ra
những lỗi của Đặng trước kia, chẳng hạn Đặng bảo: "Chủ tịch Mao tuyên bố
năm 1962 rằng tình trạng kinh tế tốt đẹp; không nó xấu chứ không tốt đẹp"
– "dân chúng thiếu ăn, thiếu mặc, chúng ta tự tin quá, lừa gạt nhân dân
quá" – "một số đông nông dân đòi chia đất lại cho họ; họ không tin
chính sách kinh tế tập thể" – "cá nhân hay tập thể điều đó không quan
trọng, quan trọng là tăng sự sản xuất thực phẩm; mèo trắng hay mèo đen, mèo nào
bắt được chuột là mèo ấy tốt" – "đa số các nhà tư sản Trung Hoa đều
tay trắng làm nên nhờ nghị lực và tài năng của họ; lại Thượng Hải mà xem họ tổ
chức xí nghiệp trung bình và nhỏ của họ ra sao" – "đối với bọn trí thức
tiểu tư sản… thì lúc này ta cần tới họ, mặc dầu họ càu nhàu đi nữa, miễn là họ
biết dạy, điều này mới là quan trọng". Chủ trương đó của Đặng hợp với
đường lối của Lénine, Lénine khuyên phải học bọn tư bản và trí thức, ít nhất là
trong buổi đầu. Vì vậy mà buổi trước Đặng không bị "chỉnh", bây giờ
Đặng bị trục xuất, sở dĩ không bị hại như Lưu vì Đặng không có ý tranh quyền
với Mao.
Sau cùng đến phiên Lâm Bưu, Lâm là bạn chiến đấu chí thiết của
Mao, trung thành với Mao, theo triệt để đường lối của Mao, được Mao chọn làm
người kế vị của mình. Vậy mà bỗng nhiên năm 1971 Lâm mất tích. Báo chí đưa ra
tin Lâm cùng tám bộ hạ lên máy bay trốn qua Nga, chiếc đó bị nạn (đâm vào núi?!)
ở Mông Cổ, tan xác hết…. Mọi người nghi ngờ tin đó, Lâm cùng hoà một khúc với
Mao, mạt sát chính sách "xét lại" của Nga thì qua Nga làm gì? Người
ta ngờ rằng Lâm đã bị Mao thủ tiêu vì Mao căm Lâm muốn hất mình khi đã nắm được
quân đội miền Bắc thời Mao thất thế. Cũng chỉ là phỏng đoán vậy thôi. Việc đó
hoàn toàn bí mật. Mãi năm sau mới có tin chính thức rằng Lâm bị trục xuất, thế
thôi. Bị giam ở đâu hay bị giết rồi, không biết 6.
Từ năm 1970, Mao nắm lại hết quyền hành nhưng uy tín đã sút
nhiều, phải bỏ "nhảy vọt", bỏ công xã nhân dân, bỏ cách mạng văn hoá
vì đại đa số đều chống mà trở lại lối phát triển cũ. Nhưng kinh tế không tiến
được mau vì thiếu kỹ thuật gia (họ chết nhiều mà không được đào tạo thêm); dân
và cả đảng nữa thiếu tinh thần hăng say. Chính Mao cũng chán nản, buông xuôi,
để cho đảng theo đường lối cũ của Lưu Thiếu Kỳ (đã bị nhốt khám) dưới nhãn hiệu
của Mao.
Qua năm 1971, đường lối "quặt hẳn": diệt phe tả, xích
lại Tây phương, bắt tay Nixon (Mỹ), đả Nga nhiều hơn. Đại hội của đảng trao cho
Chu Ân Lai quyền quyết định vì Mao suy nhược về thể chất lẫn tinh thần. Uy tín
của Chu lên nhưng ông ta ôn hoà mà tròn trịa, không để cho Mao nghi kỵ, ông
được lòng nhiều người, nhưng bị Giang Thanh và đồng bọn ghét gọi ông là Khổng
Tử (Khổng Tử bị cộng sản đả dữ lắm). Ít lâu sau, Chu bị bệnh ung thư đường tiết
niệu, khi mới biết nếu giải phẫu ngay thì có cơ cứu được, nhưng Giang Thanh chỉ
muốn ông có cơ chết để bà dễ chuyên quyền nên tìm mọi cách giữ y sỹ, hoãn việc
giải phẫu, đợi đến khi nguy ngập mới cho làm thì đã quá trễ, và Chu tắt thở
tháng 1/1976. Bệnh liệt run của Mao lúc này đã nặng, lúc tỉnh lúc mê, Hoa Quốc
Phong thay Chu Ân Lai làm thủ tướng nhưng Giang Thanh nắm hết quyền với bốn tên
Vương Hồng Văn, Trần Bá Đạt, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên tôi đã kể trên.
Mao chết tháng 9/1976 xác được ướp. Các con trai của Mao đều bị
Giang Thanh hãm hại, có người hoá điên. Mao chỉ có một người con gái với Giang
Thanh, cô ta cũng bị mẹ bạc đãi.
Hoa Quốc Phong chỉ là con nuôi của Mao, quê ở Giang Tây nhưng
hoạt động ở Hồ Nam, được Mao đưa lên kế vị và được nhóm Diệp Kiếm Anh đưa lên
làm chủ tịch Đảng (1976). Vậy triều đình của Mao không khác gì triều đình hủ
lậu thời quân chủ: hoàng hậu - Giang Thanh – ham quyền hành, muốn theo gót Từ
Hy Thái Hậu, còn hoàng đế (Mao) thì bỏ ý thức hệ cộng sản mà trở về truyền
thống cũ, truyền ngôi lại cho con, mặc dầu là con nuôi 7.
Mới đầu Hoa có ưu thế, đánh đổ bọn bốn tên mà cả nước ai cũng
ghét, nhưng không động đến Giang Thanh.
Đặng Tiểu Bình được phục hồi danh dự từ năm 1973, làm Phó thủ
tướng, uy tín mỗi ngày một cao. Tháng 7/1977, ông tranh quyền với Hoa, thắng,
nắm trọn quyền. Năm sau đưa ra chiến lược "bốn hiện đại hoá" mà Chu Ân
Lai đã đề nghị từ năm 1965, và lúc này đây dân chúng các thành thị nhao nhao
lên đòi thực hiện. Bốn hiện đại hoá đó là hiện đại hoá nông nghiệp, công
nghiệp, quốc phòng và văn hoá – khoa học - kỹ thuật, chẳng có gì mới.
Chính sách kinh tế nhiều thành phần được khôi phục, bỏ tư tưởng
chỉ đạo tả khuynh, cá thể hoá lại lao động của nông dân; mở mang sang các nước
tư bản Mỹ, Nhật… (sự thật là Mao đã thân với Mỹ từ 1972 vì tổng thống Nixon ủng
hộ Trung Hoa vào Hội đồng bảo an liên hiệp quốc thay Tưởng năm 1971); dùng vốn
và kỹ thuật của Tây phương để kiến thiết. Theo báo Nhân dân (Hà Nội năm 1983),
Hồ Diệu Bang biến Trạm Giang ở gần Hương Cảng thành một đặc khu kinh tế, kêu
gọi tư bản ngoại quốc đầu tư, sẽ miễn hoặc giảm thuế cho họ. Họ tính đầu tư một
tỷ rưỡi Mỹ kim vào đó. Chuyên gia Trung Hoa từ các vùng khác sẽ tới đó học hỏi
kinh nghiệm để về thử rồi tìm một con đường phát triển mới mà họ gọi là xí
nghiệp tư mà không có chủ nghĩa tư bản (private enterprise without capilism).
Họ hy vọng cuối thế kỷ tổng sản lượng sẽ gấp bốn năm 1982 (Theo Far Eastern
Economic Review 4/1983). Muốn vậy thì mỗi năm phải tăng lên đều đều từ 7%-8% so
với năm trước.
Bây giờ Đặng mới có cơ hội thực hiện chính sách cởi mở của ông
từ năm 1968, chính sách đã làm cho ông mất địa vị, mà mà không toi mạng. Ông
đặt lại vấn đề hồng và chuyên (trọng chuyên hơn hồng), trọng thiết thực hơn lý
thuyết.
Ông nhốt khám Giang Thanh, thanh trừng các đối thủ (như Mao hồi
trước). Chính sách của Mao bị bãi bỏ nhưng không ai dám phá thần tượng Mao. Phe
Giang Thanh chủ trương cải cách văn hoá hình như còn rất đông, chỉ trích ông
hoặc chống đối ông. Tình hình Trung Hoa năm 1983 còn lộn xộn lắm.
Ở Đài Loan, Tưởng Giới Thạch chết trước Mao (1975). Còn Tưởng
Kinh Quốc vẫn theo đường lối của cha. Quốc dân đảng và Cộng sản đảng đều thành
công lớn nhưng không bền (Quốc từ 1911-1912; Cộng từ 1925-1926); tiếp theo là
một khoảng 10 năm long đong (Quốc từ 1913-1923; Cộng từ 1927-1937); rồi lên cầm
quyền, tràn trề hy vọng (Quốc: 1928, Cộng: 1949), nhưng chỉ được mươi năm đầu
rồi lại suy loạn. Cả hai đảng đều do giới trí thức thành lập, tổ chức.
Nhân vật quan trọng trong Quốc dân đảng hầu hết là thị dân, gia
đình thương nhân ở Quảng Châu (môn đệ Tôn Văn), hoặc người ở Thượng Hải, miền
hạ du Dương Tử Giang du học ở ngoại quốc về (phe của Tưởng).
Những người theo Mao, trái lại cũng như Mao, đa số gốc nông dân
ở Hồ Nam, chỉ có một số ít đã xuất ngoại.
Quốc dân đảng suy từ khi rời lên Trùng Khánh (1939) nhờ đứng về
phe đồng minh mà vượng lên mấy năm, rồi không ngóc đầu lên được nữa vì không
biết lo cải thiện đời sống nông dân như Tôn Văn đã dặn. Cộng sản đảng tuy đã
thuộc lời Tôn Văn đấy, nhưng từ khoảng 1960 cũng thất bại nặng vì muốn tiến mau
quá, bắt dân phải hy sinh quá sức của họ. Hiện nay (1983), Đặng Tiểu Bình có vẻ
muốn làm theo đường lối kinh tế tự do của tư bản. Chúng tôi chỉ biết vậy thôi
chứ không dám tiên đoán gì cả. Từ nay đến cuối thế kỷ còn nhiều biến chuyển.
Tưởng và Mao đều sống giản dị, có nhiều nghị lực, kiên nhẫn
nhưng đều ham quyền, tư cao tự đại, không nghe lời khuyến cáo của ai cả. Tưởng
nóng nảy, Mao bình tĩnh nhưng giả dối, thâm hiểm, hiếu sát. Cả hai đều có bốn
vợ, đều truyền ngôi lại cho con. Tưởng cho Tưởng Kinh Quốc (con vợ trước), Mao
cho Hoa Quốc Phong (con nuôi). Họ là những con người mới mà không bỏ được
truyền thống từ 2000-3000 năm trước.
Công của Tưởng là bắt đầu hiện đại hoá Trung Quốc, ít nhất là ở
thành thị, xoá bỏ được các hiệp ước bất bình đẳng, đưa Trung Quốc lên hàng ngũ
cường mặc dầu chỉ có danh chứ không có thực.
Công của Mao là xoá bỏ chế độ phong kiến (Tưởng cũng có một phần
công này), cứu dân khỏi bị chết đói – tuy vẫn còn đói - giải cho nông dân khỏi
bị tủi nhục, khinh bỉ và làm cho Trung Quốc trở thành một cường quốc thực sự,
đứng thứ ba trên thế giới 8. Không một dân tộc nào dám nuôi cái mộng diệt
họ.
Nhưng cách mạng Trung Hoa đã làm đổ biết bao máu? Có người đoán
là 50 triệu, khoảng 1/10 dân số. Cách mạng nào mà không vậy? Pháp, Nga,
Algérie, Pakistan…
Kinh tế:
Trong tiết này tôi chỉ xin tóm tắt vài điểm về chính sách, mục
tiêu, phương tiện và kết quả thôi. Tôi sẽ đưa rất ít thống kê và con số vì môn
thống kê ở Trung Hoa chưa được chính xác lắm (chính họ nhận như vậy nên đã
nhiều lần sửa con số đã đưa ra), vả lại những con số đó không đưa cho ta một ý
niệm gì cả vì theo chỗ tôi biết, chưa có sử gia nào so sánh những tiến bộ của
Trung Hoa với những tiến bộ ở các nước khác như Âu, Mỹ, nhất là ở các nước được
phát triển như Trung Hoa, chẳng hạn Ấn Độ, Miến Điện, Việt Nam.
Về kinh tế, Trung Hoa bị những bất lợi là thiếu vốn, thiếu kỹ
thuật gia nhưng lại được cái lợi là được hưởng những công trình của Nhật để ở
Mãn Châu, với một cơ sở kỹ nghệ vững chắc, từ đó lan ra các miền khác, có một
đảng mạnh, bắt buộc được dân phải hy sinh; sau cùng là được Nga giúp cho về vật
chất lẫn kinh nghiệm.
Như trên tôi đã nói, từ năm 1950 đến năm 1957 (hết kế hoạch năm
năm đầu). Kinh tế tiến triển rất mau, trừ 1958 đến 1962, suy thoái về chính
sách nhảy vọt, từ 1963 lại bắt đầu phục hồi nhưng chậm, phải 7 năm mới trở lại
mức sống như năm 1957. Vậy là từ 1957 đến 1970, Trung Hoa giậm chân tại chỗ.
a. Nông nghiệp (hiểu theo nghĩa rộng
là trồng trọt, hoa màu, kể cả cây kỹ nghệ nữa như bông, vải)
Năm 1960, Trung Hoa có 110 triệu ha trồng trọt (1/12 diện tích
và 600 triệu dân, trung bình 1 ha cho 6 người dân làm vì thiếu đất, máy móc,
phân bón (Nhật dùng phân bón gấp 10 lần Trung Hoa), nên năng suất của nông dân
rất thấp, 1 người làm chỉ nuôi được 3 người, bằng 1/12 nông dân Mỹ.
Phương pháp canh tác không thay đổi, thiếu máy móc phải khai phá
thêm đất đai, làm thêm công việc thuỷ lợi, nhưng tới năm 1970 Trung Hoa vẫn
chưa đủ thực phẩm, phải mua thêm lúa của Úc, Canada 5-6 triệu tấn mỗi năm, giá
vào khoảng 400 triệu Mỹ kim Việt Nam năm 1980 cũng như Trung Hoa, thiếu thực
phẩm, Thái Lan, Miến Điện có dư để xuất cảng.
b. Kỹ nghệ
Mao theo đúng lý thuyết kinh tế của cộng sản: chú trọng đến sự
phát triển kỹ nghệ nặng trước hết vì hai lẽ:
- Kỹ nghệ nặng sẽ kéo theo các kỹ nghệ nhẹ giúp cho canh nông
như sản xuất phân bón, thuốc trừ sâu, máy cày, máy giặt,…
- Mao muốn cho Trung Quốc trở thành một cường quốc, có khí giới
tối tân nhất, nghĩa là ông vẫn muốn phát triển kỹ nghệ chiến tranh nhưng không
cho biết đã thực hiện được những gì.
Tài nguyên thiên nhiên Trung Hoa chắc là nhiều nhất Châu Á nhưng
hình như kém xa Mỹ và Nga. Than đá khoảng 600 tỷ tấn, ở miền Bắc là chính; dầu
lửa: 1700 triệu tấn ở Cam Túc, Tân Cương, Mãn Châu chưa đủ dùng.
Khoáng sản có sắt, atimoine, bismuth tungstène, uranium, thiếc,
đồng, nhôm; trừ sắt ở miền Bắc còn tất thảy ở miền Nam và tây Nam khai thác
khó.
Sau năm 1958, kỹ nghệ nhẹ cũng thụt lùi, nhất là từ khi Nga rút
kỹ thuật gia về.
Nga năm 1950 cho vay 300 triệu Mỹ kim trả làm năm năm, năn 1954
cho vay 540 triệu rúp trả làm tám năm; năm 1959 cho vay thêm 5 tỷ rúp trả làm
chín năm, nhưng Trung Hoa dùng một số lớn để giúp Bắc Hàn, Việt Nam, Mông Cổ,…
gây uy tín với những nước đó.
c. Chuyên chở
Phát triển nhất là đường xe lửa. Năm 1967, Trung Hoa có khoảng
32.000 cây số đường xe lửa, nhiều nhất ở đường Tây Bắc (coi bản đồ). Đường xe
hơi thì được 440.000 cây số nhưng chỉ một phần tư là dùng được quanh năm. Kỹ
nghệ xe hơi đã có từ năm 1956 và trong hai năm sau sản xuất được 16.000 cam
nhông.
Họ ráng đóng tàu chạy trên sông và trên biển, chưa được bao
nhiêu. Ngành hàng không chưa lấy lại được mức năm 1949.
d. Ngoại thương
Thụt lùi nặng. Xuất cảng năm 1959 được 2.230 triệu Mỹ kim, năm
1962 còn 1.510 triệu, năm 1964: 1.670 triệu. Nhập cảng cũng vậy, năm 1959:
2.065 triệu, năm 1962 còn 1.160 triệu, năm 1964: 1.335 triệu.
Trung Hoa giao dịch với Tây phương mỗi ngày một tăng, với khối
chủ nghĩa xã hội mỗi ngày một giảm.
e. Các công trình lớn
Cùng việc đầu tiên là chống lụt, Trung Hoa có 2.400.000.000 mẫu
(mỗi mẫu vào khoảng 750 thước vuông) có thể trồng trọt được, mà chỉ có
1.470.000.000 (non 2/3 đã thành ruộng). Cần nhiều công trình thuỷ lợi cần khai
thác những chỗ còn bỏ hoang.
Công trình thuỷ lợi lớn nhất là cánh đồng sông Hoài. Năm 1949,
miền đó bị lụt lớn, cả triệu dân đói nên chính quyền bắt tay vào liền, huy động
bốn triệu dân đắp đê, đào kinh, khai thông khắp miền bị lụt. Vậy là từ năm 1955
đến nay cứu được cả triệu dân khỏi bị nạn. Phải đắp ba cái đập ngăn nước từ các
sông nhỏ chảy vào, tạo mười cái hồ lớn giữa nước vét lòng sông... đáng kể là
một công trình vào hàng lớn trên thế giới.
Sông Hoàng Hà là cái hoạ từ thời thượng cổ của dân tộc Trung
Hoa. Mấy ngàn năm trước đã có vài ông vua nghĩ cách vét sông mà không đắp đê
nữa. Vì đắp đê mà không vét sông thì mỗi ngày lòng sông dân cao lên, cao hơn
mực đất trong đồng, có chỗ (Sơn Đông tới bảy thước) hễ vỡ một khúc đê nào là
tai hại cho dân không sao kể xiết, hơn nữa dòng sông thay đổi theo một hướng
khác. Từ khi có sử tới bây giờ nó đã đổi dòng tới 24 lần, khi thì đổ vào Bột
Hải như ngày nay khi thì chảy về phía Nam, đổ vào Hoàng Hải như năm 1954. Trung
bình cứ 10 năm vỡ đê bốn lần, mà mỗi lần vỡ đê là hàng triệu người chết.
Mao Trạch Đông quyết tâm chế ngự nó. Ông tính từ năm 1957 đến
cuối thế kỷ xây 46 cái đập từ thượng lưu tới hạ lưu thành một cầu thang cao 850
mét, dài 3.600 cây số, xây cất nhiều cửa nước để thuyền, tàu đi lại được (vì
mùa khô lòng sông cạn, không chở được thuyền). Đến lúc đó thì một cánh đồng
hoàng thổ rộng bằng một nửa nước Pháp sẽ không bị lụt nữa, rất phì nhiêu. Có
người đã bảo "nếu chính quyền nước cộng hoà dân chủ chỉ làm được bấy nhiêu
thôi thì cả dân tộc Trung Hoa sẽ mang ơn hàng ngàn năm sau rồi". Nhưng các
nhà chuyên môn cho rằng công trình đó khó mang lại kết quả như ý mà rất tốn
kém. Hoàng Hà là con sông có nhiều phù sa nhất thế giới (trung bình 1.600 triệu
tấn mỗi năm). Phải làm nhiều công trình kiến trúc đào đất, đào hầm, đào kinh
trong núi để tháo nước trong các hồ chứa nước phía trên các đập cho thật mau,
nếu không thì phù sa sẽ lắng xuống, chỉ một hai chục năm là đập không dùng được
nữa.
Nay Mao Trạch Đông đã chết công trình đó sẽ được tiếp tục hay
không?
Miền sông Dương tử cũng được sửa chữa lại đê, đào thêm kinh, đưa
nước vô ruộng.
Muốn giảm nước lũ thì phải trồng lại rừng. Cộng sản tính trồng
lại bốn khu rừng ở Đông Bắc và miền Trung. Có khu dài 1.100 cây số, rộng 300
cây số. Dọc bờ sông Hoàng Hải cũng sẽ trồng 600 cây số rừng để ngăn bão.
Kinh Hồng Kỳ. Để đưa nước vô miền Linhsien, (Vụ đào kinh này tôi chỉ thấy Simon Leys kể
trong cuốn Ombres Chinoises xuất bản năm 1975. Các cuốn khác không nói tới).
Không biết công trình đó đã thực hiện xong chưa người ta bắt một con sông phải
đổi dòng, chui qua một dãy núi rồi chảy vào lòng sông nhân tạo đục và xây ở
sườn núi. Công việc hoàn toàn bằng tay người dân trong miền, không dùng máy móc
cũng không nhờ tới kỹ sư. Người ta tính phải dùng cả trăm triệu dân làm trong
mười năm để đào được 1.500 cây số kinh, phá núi, đồi, xây 134 đường hầm, 150
cống nước, chuyển 16 triệu thước khối đất và đá. Có thể dùng máy nhưng Mao
không muốn. Các du khách ngoại quốc tới coi đều ngạc nhiên, cho là Mao điên,
không hiểu rằng ông muốn hậu thế nhớ bài học của ông: hễ có tinh thần tin
tưởng, cương quyết thì không công việc gì loài người không làm được. Bài học đó
chính là bài học Ngu Công dời núi của Trung Hoa thời xưa, bài học của Tần Thuỷ
Hoàng, của các pharaon (vua thời cổ đại Ai Cập).
Cầu Nam Kinh
Con đường xe lửa từ Bắc xuống Nam, tới sông Dương Tử vẫn phải
đứt quãng để qua phà. Năm 1968 Mao cho xây cầu Nam Kinh dài 1.600 thước, có hai
bản cầu (tablier) một cho xe lửa, một cho xe hơi. Chín cột cầu phải xây trên
những cái thùng (Caisson) rất lớn bằng bê tông cốt sắt, thả xuống đáy sông (cầu
Doumeur từ Hà Nội qua Gia Lâm cũng dùng những thùng đó nhưng nhỏ hơn vì sông
Nhị Hà chỗ đó cạn). Các kỹ thuật gia Âu Mỹ đều bảo phải dùng máy để thả thùng
xuống, dùng sức người thì sẽ thất bại. Mao không nghe, dùng không biết bao
nhiêu dân và làm được, mặc dầu gặp rất nhiều khó khăn, suýt thất bại. Ông ta
dám nghĩ, tìm một lối mới, dám hành động và coi thường mạng người.
Bom hạch tâm
Đây là thành công lớn nhất của cộng sản. Năm 1959 Nga không chịu
chỉ cho Trung Hoa cách chế tạo bom hạch tâm. Mao quyết định tự làm lấy, kêu gọi
hai nhà bác học chuyên về hạch tâm ở Mỹ về. Hai nhà này còn trẻ (Tchen Ning
Lang, Tsung Lao Lee) được giải Nobel về vật lý. Bốn năm sau (1964) họ thử trái
bom đầu tiên và thành công. Dân tộc Trung Hoa rất hãnh diện, từ đây không dân
tộc nào ăn hiếp họ được nữa.
Năm 1970 họ đã có vệ tinh nhân tạo. Hiện nay lực lượng hạch tâm
của họ chỉ thua Mỹ và Nga thôi.
Ngoại giao.
Chính sách ngoại giao của nước nào và thời nào cũng thay đổi như
chong chóng, sớm đánh tối hoà, nay thù mai bạn. Tôi chỉ có thể ghi vài nét
chính thôi.
Nga – Hoa
Stalin vốn không ưa Mao, cho cộng sản của Mao là thứ cộng sản
giả hiệu (communision à la morgarine). Nhưng khi thấy Mao đuổi được Tưởng đi,
uy tín phe cộng tăng lên mạnh, thêm được 5-6 trăm triệu dân nữa, phe tư bản do
đó yếu thế đi, tất nhiên Staline mừng, thừa nhận ngay chính phủ cộng hoà nhân
dân Trung Hoa và giúp Mao khá nhiều.
Mao giúp Bắc Triều Tiên đánh Mỹ và Nam Triều Tiên, giúp Việt Nam
đánh Pháp, đánh Mỹ. Năm 1954, thế của Trung Hoa càng tăng, sau hội nghị về Việt
Nam (Genève), Mao giúp Ấn Độ. Năm 1955, ở hội nghị Bandoeng, Trung Hoa muốn
lãnh đạo các nước chậm phát triển ở Á, Phi tuyên bố: "Trung Hoa sẽ không
chiếm một thước đất của một đất nước nào". Năm 1956, Chu Ân Lai đi thăm
mười nước Á Châu, và thủ tướng các nước Cao Miên, Lào, Mã Lai... lại Bắc Kinh
đáp lễ.
Staline chết, Kroutchev lên thay, chỉ trích Staline là độc tài,
hiếu sát, tự tạo cho mình một thần tượng...; rồi Kroutchev thay đổi chính sách,
cởi mở cho dân một chút, hoà hoãn với Tây phương; Mao chê Kroutchev là theo
đúng chủ nghĩa "xét lại", không theo đúng Mác-Lê. Kroutchev chê lại
bước nhảy vọt, công xã nhân dân của Mao. Năm 1957 Nga đã hứa giúp Trung Hoa chế
tạo bom hạch tâm, năm 1959 nuốt lời hứa... những việc xảy ra đó việc nào là
nguyên nhân chính sự bất hoà Nga – Hoa từ năm 1960 đến nay? Không ai biết được,
chỉ thấy tháng 8/1960:
- Nga rút 500 (có sách nói 1000) kỹ thuật gia về, mới bắt đầu
xây cầu Nam Kinh thì bỏ dở.
- Hoa bắt tất cả các sinh viên đang học ở Moscow phải về nước.
- Trong hội nghị các nhà nghiên cứu phương đông ở Moscow, không
một học giả Trung Hoa nào dự.
- Các lãnh quán Nga ở Trung Hoa đóng cửa hết.
- Nga giảm xuất cảng sắt, thép qua Trung Hoa để sang giúp Ấn Độ.
Và từ 1963, hai nước anh em đó bắt đầu mạt sát nhau kịch liệt.
Mao tự cho mình mới theo đúng đường lối chính truyền. Kroutchev hỏi Mao dùng
nông dân và tiểu tư sản làm cách mạng quốc gia thì chính truyền ở chỗ nào?
Kroutchev bảo có thể tránh chiến tranh toàn diện, sinh tử với tư
bản được vì nếu có chiến tranh như vậy thì cả hai bên đều chết. Mao chê như vậy
là ý chí cách mạng tiêu tan rồi, là sợ con "Cọp giấy" (Mỹ) cho rằng
Trung Hoa dù có chết nửa số dân vì chiến tranh hạch nhân thì vẫn còn ba trăm
triệu người. Kroutchev cho rằng Mao hiếu chiến, gây gổ, nguy hiểm.
Hoa - Mỹ
Nhưng kẻ thù số một của Trung Hoa thời đó là Mỹ. Mỹ chiếm Đài Loan,
ủng hộ Tưởng Giới Thạch, cho một hạm đội mạnh đi tuần ở bờ biển Trung Hoa, Mao
không yên tâm được; Mỹ đánh bại Bắc Triều Tiên và Trung Hoa; Mỹ không cho Mao
vô Liên Hiệp Quốc thay Tưởng Giới Thạch. Mỹ giúp Ngô Đình Diệm rồi đem quân qua
đánh Mặt trận giải phóng Miền Nam, muốn làm chủ bán đảo Đông Dương; nếu làm chủ
thì sẽ bao vây Mao ở phía Đông (Đài Loan, Nam Triều Tiên) và ở phía Nam.
Khoảng 1971-1972, Mỹ Hoa bỗng kết thân với nhau làm cả thế giới
chưng hửng. Họ thoả thuận với nhau về Đông Dương rồi ư? Thoả thuận ra sao không
ai biết. Rồi có hiệp định Pari năm 1973 giữa Bắc và Nam Việt, hai bên đình
chiến, Mỹ rút hết quân về. Sau đó Bắc và Nam Việt lại choảng nhau tháng 5-
1975, Bắc chiếm hết Nam. Mỹ uất hận. Trung Hoa cũng vậy. Đầu năm 1979, Trung Hoa
rút hết kỹ thuật gia ở Bắc Việt về. Bất lợi (Đặng Tiểu Bình tự nhận là thất
sách) ủng hộ Pol Pot (cộng sản Cao Miên) chống lại Việt Nam. Việt Nam phải nhờ
Nga giúp. Thế là Nga - từ 1905, trong cuộc chiến tranh với Nhật đã biết hải
cảng Cam Ranh tốt thứ nhì trên thế giới - viện trợ cho Việt Nam kỹ thuật gia,
quân sự gia, khí giới, tiền bạc... và có được một căn cứ quân sự tối quan trọng
ở Đông Nam Á.
Mới mấy năm trước Trung Hoa là ân nhân của Việt Nam. Việt Nam
nhờ viện trợ của Trung Hoa và Nga trong hai chục năm mới đuổi được Pháp, Mỹ,
nay coi Trung Hoa là kẻ thù số một (Mỹ là kẻ thù số hai). Có gì bí mật trong vụ
đó?
Đồng thời Trung Hoa kết thân với Mỹ, nhờ Mỹ giúp để hiện đại hoá
cho. Nga ghét Mỹ và cũng ghét Hoa nữa dĩ nhiên, nhưng năm 1982 lại tỏ vẻ thân
thiện với Trung Hoa, phái sứ giả qua ve vãn Bắc Kinh để phá tình hữu nghị Hoa
Mỹ chăng? Bắc Kinh đưa những điều kiện mà Nga không chấp nhận được. Còn Mỹ tuy
thân với Trung Hoa mà vẫn giúp đỡ, che chở, bán vũ khí tối tân cho Đài Loan,
thật rắc rối.
Tương lai bán đảo Đông Dương sẽ ra sao? Người ta bảo thời đại
chúng ta là thời đại dân làm chủ. Người dân Trung Hoa, Nga, Mỹ, Việt Nam... có
hiểu nguyên nhân của những vụ thân và thù, thù rồi thân của chính phủ nước mình
với chính phủ nước khác không? Không hiểu được đường lối của chính phủ thì làm
chủ cách nào? Nhà xã hội học Pháp Raymond Aron bảo tất cả các chính quyền dân
chủ hiện nay đều là giả dối (hypocrite) hết.
Các nước Á Châu
Nhật Bản
Mao trước kia muốn kéo Nhật Bản về phía mình, nhưng đảng cộng
sản Nhật không mạnh nên Mao không thành công. Gần đây, Mỹ và Hoa thân thiện với
nhau, Nhật theo Mỹ nên cũng thân thiện với Trung Hoa của Đặng Tiểu Bình, (có
màu sắc tư bản một phần rồi), nhưng hai bên chưa hợp tác chặt chẽ. Nhật chỉ lo
phát triển kinh tế thôi, có lợi thì họ giúp mà hiện chưa thấy có lợi gì nhiều.
Trung Hoa hứa cung cấp dầu lửa cho họ nhưng không giữ được lời vì sản xuất còn
ít.
Tây Tạng.
Năm 1954, Ấn và Hoa thân thiện với nhau, ký một hiệp ước thương
mại và văn hoá về Tây Tạng. Ấn nhận Tây Tạng thuộc Trung Hoa và bỏ hết quyền
của Anh ở Tây Tạng mà Ấn tự cho là được thừa hưởng. Vậy là Ấn nhượng bộ nhiều
và Trung Hoa làm chủ lại ở Tây Tạng, cải tạo xã hội để chuyển lần qua xã hội
chủ nghĩa. Nhưng năm 1959, dân Tây Tạng nổi lên ở Lhasa, Mao đàn áp dữ dội, Đại
Lai Lạt Ma chạy trốn qua Ấn.
Năm 1962, Trung Hoa chiếm miền Tây Tây Tạng mà Ấn bảo của Ấn,
Hoa bảo của Hoa, biên giới miền đó khó định được rõ. Sự thực thì Tây Tạng, dân
chúng về chủng tộc Hoa hơn gần Ấn, đất đai cũng vậy, mà về tôn giáo, tinh thần
thì rõ ràng là chịu ảnh hưởng đậm của Ấn.
Trung Hoa tiến tới Assam, Ấn hoảng hốt, chống cự, la lớn, cả thế
giới chú ý tới, phe thì bênh Ấn, phe thì bênh Hoa. Trung Hoa nhượng bộ vội rút
quân về. Từ đó hai bên cãi cọ nhau trên một chục năm, chẳng đưa tới đâu. Rồi nó
chìm lần, người ta quên đi. Miếng đất đó hoang vu, gần như không có dân, không
đáng cho họ tranh nhau.
Mãn Châu
Năm 1950, Mao nhận Mãn Châu thuộc Trung Hoa và con sông Hắc Long
Giang ở phía bắc làm biên giới giữa Nga – Hoa. Hai nước tính hợp tác để làm các
công trình thuỷ lợi, tránh lụt cho các miền hai bên bờ. Nhưng từ khi hai nước
hục hặc nhau thì cả hai bên cùng đem quân đóng hai bên bờ nhòm ngó nhau, thỉnh
thoảng nã súng sang nhau, cũng như ở biên giới Bắc Việt nam hiện nay.
Ngoại Mông
Từ thời Nga hàng năm 1913, Nga đã viện cớ Mông Cổ loạn lạc, đem
quân lại dẹp, cho Mông Cổ tự trị, nhưng cắt ra một phần gọi là Ngoại Mông do
Nga kiểm soát, mặc dầu vẫn thừa nhận nó thuộc Trung Hoa (hiệp định năm 1923).
Từ 1924, Ngoại Mông thuộc hẳn về Nga, thành một nước Cộng hoà Xô
Viết, thần phục Nga. Kinh đô là Oulan Bator. Ngoại Mông được Nga giúp đỡ, chỉ
bảo, che chở, cũng có các sứ thần ở các nước xã hội chủ nghĩa như Việt Nam
chẳng hạn. Trung Hoa không hy vọng chiếm lại được, đó là một cớ cho Nga và Hoa
xích mích với nhau.
Châu Phi và Châu Mỹ la tinh
Năm 1955, Chu Ân Lai dự hội nghị các nước Á, Phi chậm tiến ở
Bandoeng, gặp Nasser. Một năm sau, Trung Hoa và Ai Cập lập quan hệ ngoại giao
với nhau. Trong vụ Ai Cập lấy lại kinh Suez, Trung Hoa tận tình giúp Ai Cập về
tiền bạc và còn đề nghị đưa chí nguyện quân qua nữa. Từ khi Trịnh Hoà thám hiểm
Ba Tư, Châu Phi ở thế kỷ XV (đời Minh) tới nay Trung Hoa mới lại quan tâm tới
Châu Phi.
Nhờ giúp Ai Cập mà uy tín của Mao tăng lên ở các nước Ả Rập.
Trong hai năm 1957, 1958, Trung Hoa và các nước Syrie, Yemen, Soudan, Irak,
Maroc thăm viếng lẫn nhau, ký các hiệp ước thân thiện với nhau. Thời đó Châu
Phi sùng sục lên, Algiérie đòi lại chủ quyền cho các thuộc địa ở Châu Phi. Các
thực dân khác ở châu đó cùng dần theo Pháp. Không có thời nào thuận tiện cho
cộng sản bằng, nhất là cho Trung Hoa vì đường lối của Mao thích hợp cho các
nước nhược điểm hơn đường lối của Nga. Các nước đó không cần làm cách mạng vô
sản; Cần phản đế, phản phong kiến trước đã, như Trung Hoa, như Việt Nam vậy.
Mà chính các nước ở Châu Phi cũng phục Trung Hoa, ưa Trung Hoa
da vàng hơn Nga da trắng. Mao nắm lấy cơ hội, đưa kỹ thuật gia, cán bộ và tung
tiền vào các cựu thuộc địa, giúp Algiérie, Mali, Ghama, Guinée, Tanganika,
Tchad,...
Cán bộ Trung Hoa sống giản dị, gần gũi với dân da đen hơn người
Âu, mà không hiểu tại sao họ thất bại, lần lần phải rút về nước. Ngay các sinh
viên da đen qua Bắc Kinh học mấy năm rồi cũng không ưa nổi người Trung Hoa. Có
thể vì Trung Hoa cũng có óc kỳ thị, khinh thường người da đen; và cũng có thể
người da đen thấy Trung Hoa nghèo quá (nhất là nữ sinh viên da đen ở Bắc Kinh
càng thấy rõ tình trạng đó), không giúp đỡ được nhiều, không rộng rãi như thực
dân da trắng, nên đâm chán họ.
Thất bại ở Châu Phi, Trung Hoa qua Châu Mỹ la tinh: Haiti,
Paraguay, Guatemala, Salvador, Honduras, Uruguay, Colombie, Argentine,.. ở các
nước đó, họ không tuyên truyền chính trị, chỉ lo thương mại nhưng cũng không
thành công, mặc dầu ở vài nơi, có sẵn một số Hoa Kiều từ vài ba ngàn tới 50.000
(Perou).
Chỉ có CuBa từ thời Fidel Castrol cầm quyền là thân thiện với
Trung Hoa, hai bên trao đổi đại sứ với nhau, thương thảo lập đường điện tín
trực tiếp từ Thượng Hải đến Havana. Sở dĩ được vậy vì Cu Ba cũng là một nước
cộng sản ghét Mỹ. Nhưng hiện nay Trung Hoa thân thiện với Mỹ mà Cu Ba thân
thiện với Nga thì tình hình Cu Ba – Trung Hoa ra sao?
Xích mích Nga – Hoa
Đọc những trang trên chúng ta đã thấy Trung Hoa và Nga có nhiều
lý do để xích mích với nhau, ngay từ thời Staline.
1. Xích mích về đường lối
Staline theo đúng học thuyết Marx, dùng thợ thuyền để làm cách
mạng. Mao Trạch Đông cho như vậy không hợp với hoàn cảnh Trung Hoa, một nước
nông nghiệp, chưa có kỹ nghệ, lực lượng thợ thuyền rất yếu nên ông phải dựa vào
nông dân làm cách mạng và ông thành công. Thực ra cuộc cách mạng của Trung Hoa
chủ yếu là để diệt phong và phản đế, cũng như cuộc cách mạng Việt Nam. Công là
của toàn dân, mà nông dân đông nhất, tới đại đa số vì ái quốc mà theo Mao chứ
không vì học thuyết Marx. Khi thành công rồi, Mao mới chuyển nó thành cách mạng
xã hội, sau một giai đoạn quá độ rất ngắn: 3 năm giai đoạn Tân Dân chủ
(1949-1952). Vì công của thợ thuyền rất nhỏ nên đã xảy ra vụ ngược đời này:
trong một làng nọ, các bần nông xử 26 người cộng sản và khai trừ 4 tên. Nhưng
nông dân vẫn còn tinh thần tư hữu, không ưa chế độ tập thể, nên Đảng phải dạy
chính trị cho họ hoài, chỉnh phong cho họ thường.
Staline chê Mao Trạch Đông là theo cơ hội chủ nghĩa, Mao chê lại
Staline là theo giáo điều chủ nghĩa; và ngày nay ai cũng nhận ra rằng đường lối
của Mao rất hợp với các xứ thuộc địa muốn giành lại độc lập, rằng Mao đã có
công Hoa hoá chủ nghĩa Marx.
Trong tập "Nhật ký 1942-1945" (Sách đã dẫn),
Vladimirov đã cho ta thấy rõ sự nghi kỵ, ghét ngầm nhau giữa Staline và Mao.
Mao biết Vladimirov do thám cho Staline nhưng ngoài mặt phải niềm nở tiếp, mà
ra mật lệnh cấm cán bộ của mình giao du với cán bộ của Nga.
Ở Diên An thời đó có hai phe (không kể một nhóm lưng chừng); phe
theo Mao gồm Khang Sinh, Trần Bá Đạt, ...; phe theo cộng sản chính thống (theo
Nga gồm Vương Minh, Bác Cổ,... Mao rất ghét Vương, muốn đầu độc Vương nhưng
không thành; rồi năm 1943, Mao làm một cuộc chỉnh phong để diệt phe theo Nga.
Một phần năm đảng viên bị khai trừ, một số bị giết, một số tự tử.
Khi nào Staline thua Hitler, Mao tỏ vẻ khinh Staline ra mặt;
nhưng về sau Nga thắng, Mao lại ve vãn Staline để xin viện trợ. Trước sau Mao
vẫn muốn gần Mỹ hơn để xin võ khí, chuẩn bị cho cuộc nội chiến, và có lẽ cũng
để giảm bớt ảnh hưởng của Nga ở Viễn Đông, đừng cho nó hơn ảnh hưởng của Mỹ.
Điều đó dễ hiểu: Trung Hoa có chung biên giới Đông Bắc với Nga còn Mỹ thì ở xa.
Lại thêm tinh thần dân tộc của Mao rất mạnh. Staline biết vậy cho nên có cảm
tình với Tưởng, ủng hộ Tưởng cho tới khi Tưởng bị Mao đánh bại.
2. Xích mích về ý thức hệ thời Kroutchev
Kroutchev tố Staline là độc tài, tàn nhẫn nên đổi Stalingrad
thành Vogagrad. Mao không ưa hành động đó của Kroutchev có lẽ cũng vì Mao độc
tài. Kroutchev lại muốn hoà hoãn với tư bản, Mao cho như vậy là phản Marx, theo
chủ nghĩa xét lại, là không tưởng, sợ con cọp giấy Mỹ.
3. Xích mích về quyền lợi, đất đai
Khi cách mạng Nga thành công, Lenine tuyên bố trả hết đất mà Nga
hoàng đã chiếm của Trung Hoa. Điều đó không biết có thực hay không, tôi chỉ
biết Nga đã xé bỏ hết các hiệp ước bất bình đẳng ký với Trung Hoa, nhưng vẫn
giữ đất Nga hoàng đã chiếm được ở Ngoại Mông, Mãn Châu. Trung Hoa ức vì điều đó
và hai bên thường gây nhau ở biên giới Mãn Châu (bên bờ Hắc Long Giang), đóng
đồn gờm nhau, lâu lâu nã súng vào nhau.
4. Theo tôi, lý do quan trọng
nhất là trên một thế giới, nhất là thế giới cộng sản không thể có hai mặt trời
được. Mao tự cho là tài hơn Staline, thành công hơn Staline mà Trung Hoa đất
tuy hẹp hơn nhưng dân đông hơn Nga. Mao phái Chu Ân Lai dự hội nghị tại
Bangdoeng là có ý lôi cuốn những nước nhược tiểu Á, Phi về với mình và ông cho
rằng đường lối cách mạng của ông mới thích hợp với các nước đó. Mao gây ảnh
hưởng lớn ở Albanie (Đông Âu), gửi các phái đoàn qua giúp các nước ở Châu Phi
mới thu hồi được độc lập, rõ ràng là tranh thế lực với Nga. Ông "nhảy
vọt" lập công xã nhân dân để tỏ rằng Trung Hoa vượt được Nga, đánh lãnh
đạo phong trào cộng sản trên thế giới. Ông thất bại, Nga mỉa ông, ông càng tức.
Bây giờ Trung Hoa xích về phía Mỹ cũng để mau hiện đại hoá mà vượt Nga.
Xã hội
a. Dân số: Từ thời Tần, hiện
tượng dân số tăng mau vẫn là mỗi lo của nhà cầm quyền Trung Hoa. Hai ngàn năm
trước Malthus, Hàn Phi đã bảo một gia đình có năm người con thì qua thế hệ sau,
5 người con đó lại sinh một người 5 người con nữa, thành 25 người. Thực ra sinh
con nhưng chưa chắc đã nuôi được hết. Ngoài bệnh tật ra, còn những thiên tai,
chiến tranh nữa làm giảm bớt dân số đi. Hiện nay, theo các thống kê dân số
Trung Hoa tăng khoảng 2% mỗi năm (Việt Nam cũng vậy, các nước Châu Âu khoảng 1%).
Năm 1953, Trung Hoa kiểm kê dân số được 602 triệu, trong số đó
7.591.000 ở Đài Loan.
Tăng lên 2% mỗi năm, thì năm nay 1982 dân số Trung Hoa tới 1 tỷ
(dân số thế giới là 4.6 tỷ và mỗi năm Trung Hoa phải nuôi thêm khoảng 20 triệu
dân, thật là một gánh nặng cho nhà cầm quyền).
Năm 1950, chính quyền khuyến khích sự sinh sản, cấm ngặt thói
giết con, nhất là con gái: nhận nước, bỏ ở lề đường, liệng cho heo ăn hoặc bán con;
và cho rằng nạn nhân mãn là một hiện tượng ở xã hội tư bản, không do thiếu thực
phẩm để nuôi dân mà do xã hội hoá không công bằng. Mao muốn cho xã hội Trung
Hoa càng đông càng có nhiều cánh tay để sản xuất, nhiều lính để ra trận.
Nhưng chỉ 4 năm sau (1954), Mao đã thay đổi ý kiến. Thấy dân số
tăng mau quá, sản xuất khó theo kịp nên phát động chiến dịch hạn chế sinh đẻ.
Ba năm sau, ông ra lệnh "Kiểm soát sinh đẻ". Từ khi thất bại về bước
nhảy vọt, rồi ba năm mất mùa liền (1959-1961) ông bảo dân dùng những phương
pháp ngừa thai, khuyến khích sự phá thai, sự tuyệt tự chủng (stélesation), sự
chậm chạp lập gia đình (Con trai 30 tuổi, con gái 25 tuổi).
Nhưng dân chúng ít người theo, kết quả không được bao nhiêu. Từ
1968, lại phát động phong trào: mỗi gia đình có hai con là vừa đủ. Chính phủ
dùng những biện pháp mạnh: ở vài thị trấn, những gia đình có 3 con thì vợ chồng
có thể bắt buộc phải sống xa nhau, làm mỗi người một nơi, cách nhau cả mấy trăm
cây số, không được sống với con, không có nhà ở, chồng phải sống tập thể với
đàn ông, vợ với đàn bà. Lần này có kết quả nhưng chậm. Và cuối thế kỷ, Trung
Hoa có thể có tới 1.5 tỷ dân 9.
Dân thiểu số ở Trung Hoa được khoảng 35 triệu người, 6% dân toàn
quốc; một số miền nam như người Miêu ở Hồ Nam, Thái ở Vân Nam, một số ở miền
núi hoặc một nửa sa mạc ở Tây Bắc, như người Mông Cổ, Mãn Châu, Hồi Hột, Tây
Tạng... Trung Hoa khác hẳn với Nga, không cho những dân thiểu số có quyền tự
quyết, phải bỏ tinh thần dân tộc hẹp hòi đi mà thống nhất với người Hoa, như
vậy cùng hợp lý vì từ thời dân chủ họ đã sống chung với người Hoa, đã Hán hoá
khá nhiều rồi. Nhưng theo hiến pháp năm 1954, họ được tự trị, có được 200 ghế ở
quốc hội, được khuyến khích giữ ngôn ngữ và vài hình thức tổ chức xã hội của
họ.
Hoa Kiều ở hải ngoại được khoảng 12 triệu, nhiều nhất ở Đông Nam
Á (3.5 triệu ở Thái Lan, 2.5 triệu ở Mã Lai và Singapore, 1.6 triệu ở
Indonexia, 0.8 triệu ở Đông Dương) làm ăn phát đạt, tiến bộ về kiến thức, vẫn
hướng về tổ quốc, một số theo cộng, một số theo quốc. Bắc Kinh đối với họ có
thái độ khôn khéo, hiểu biết, kiên nhẫn vì còn chính phủ quốc dân đảng ở Đài
Loan thì còn cần giữ tình cảm của họ.
Từ 1950 đến 1955 có phong trào dân di cư từ nông thôn ra thành
thị, và dân thành thị tăng lên từ 10 đến 15% số dân trong nước. Trong thời công
xã nhân dân, số dân đó còn tăng mau hơn. Vào khoảng 1965, có 100 triệu dân ở
các thị trấn, với khoảng 30 thị trấn trên nửa triệu dân và 13 thị trấn trên 1
triệu dân. Chính quyền gắng phân tán các xí nghiệp, phân xưởng về nông thôn, kỹ
nghệ hoá làng mạc để hạn chế sự di cư đó.
Chế độ đại gia đình đương suy tàn rất mau, một phần vì sự kỹ
nghệ hoá, một phần vì sự truyền bá ý thức hệ cộng sản, sự ban hành luật lệ mới
về hôn nhân.
Đời sống của dân
Xét chung thì xã hội Trung Hoa có công bằng hơn xã hội xưa ít
nhiều, giai cấp thấp nhất đỡ đói rách, bị ức hiếp, hạng bần cố nông không còn,
hễ siêng năng thì đủ ăn nhưng các cán bộ cao cấp vẫn sung sướng, được ưu đãi,
đặc quyền rất nhiều, mức sống rất cao.
Đảng luôn luôn xen vào đời tư của cá nhân, bóc lột giới lao động
để kiến thiết quốc gia, nhất là trong thời nhảy vọt và công xã nhân dân, bắt họ
phải hy sinh triệt để cho đảng nhưng đảng cũng cho họ hưởng được an ninh trật
tự xã hội tuỳ theo khả năng của quốc gia; lập nhiều dưỡng đường, nhà nuôi người
già (từ 1951), nhà nuôi trẻ em, nhà nghỉ mát... như vậy có lợi cho dân mà cũng
có lợi cho chính phủ.
Chính phủ rất quan tâm tới giáo dục, nhất là giáo dục chính trị,
giáo dục thương nghiệp. Nạn mù chữ năm 1966 chưa diệt xong nhưng số học sinh đã
tăng lên mau.
Niên khoá 1952-1953; 1959-1960:
Ở tiểu học 51 triệu; 90 triệu
Ở Trung học 3.145 triệu; 12.900 triệu
Ở Đại học 194.000; 810.000
Như vậy tiểu học tăng gấp hai, trung và đại học tăng gấp 4 lần
trong 7 năm.
Các trường kỹ thuật tăng lên ít hơn; năm 1952-1953: 636.000 học
sinh, năm 1957-1958 (5năm sau): 785.000 học sinh.
Chính phủ cộng sản tiếp tục công việc của quốc dân đảng, thử
dùng mẫu tự la tinh để thống nhất cách phát âm các chữ theo giọng Bắc Kinh, bắt
toàn quốc phải dùng cách đó, đem dạy ở các trường tiểu học, kết quả chưa đáng
mừng vì còn gặp nhiều khó khăn.
Mặt khác chính phủ cũng giản dị hoá lối viết (tức như viết tắt
của một ngàn chữ nhiều nét quá.
Không kể thời nhảy vọt và công xã nhân dân, nông dân, thợ thuyền
phải làm việc quá sức, có lòng oán chính phủ, còn những thời bình thường thì
đời sống của họ được đảm bảo hơn thời quốc dân đảng. Năm nào mất mùa thì họ
cũng đói nhưng chắc không chết nhiều như xưa. Mỗi năm họ cũng bán được cho một
ít vải lanh màu xanh lam, toàn dân dùng một màu đó.
Rất ít thịt, cá nhưng gần có đủ gạo để ăn với cải bẹ mà họ trồng
khắp nơi, mỗi năm bốn mùa. Cũng như ở nước ta, sự phát gạo đáng gọi là công
bằng: người lao động nặng thì được 20kg mỗi tháng, người làm việc trí óc được
ít hơn, người không còn sức lao động thì ít hơn nữa. Trung bình thì mỗi người
cũng được 2000Kcal thực phẩm mỗi ngày (ở phương tây, phải 3000-3500Kcal).
Hạng cán bộ đảng viên được ưu đãi. Một cán bộ đảng viên trong
nhà máy, vợ làm hợp tác xã, có mẹ già, hai con được một căn nhà gần đầy đủ tiện
nghi tối thiểu: bếp, cầu tiêu, có đèn điện, máy thu thanh, thỉnh thoảng được
phát sữa, thịt... như vậy là tiến bộ hơn thời trước.
Cũng có cảnh chợ trời như ở Nga thời trước, ở nước ta bây giờ,
nhưng đa số là trẻ em đứng bán vì không bị cảnh sát đánh đập, bắt bớ, chỉ xua
đuổi đi thôi. Cảnh sát đi thì chúng lại quay lại.
Những nạn hối lộ, cho vay nặng lãi, nợ đời cha tới đời con, nhất
là tệ nghiện thuốc phiện nếu chưa triệt được hẳn thì cũng giảm nhiều rồi. Xã
hội lành mạn hơn, rất ít người thất nghiệp, ở không.
Con cái họ được nâng đỡ, học tới trung học, đại học nếu đủ tư
cách, mặc dù trong khi học có hồi phải chịu nhiều thiếu thốn. Có trường hợp
sinh viên đại học ở Bắc Kinh đói, phải xin thực phẩm và quần áo của sinh viên
ngoại quốc (đa số là Châu Phi, Châu Á) vì tiêu chuẩn của người ngoại quốc cao
hơn họ nhiều, gấp bốn, gấp năm; đó là chính sách chung của các nước xã hội chủ
nghĩa.
Tôi nhắc lại, đó là trong thời bình thường, không bị thiên tai,
hạn hán, lụt... và ở những miền trung bình, không nghèo, không giàu. Tại Cam
Túc, một tỉnh rất nghèo, thời Tưởng Giới Thạch dân mặc toàn áo vá, ăn thì chỉ
có cơm với muối, không biết đời sống của họ đã được cải thiện phần nào chăng?
Sau bước nhảy vọt, kinh tế suy sụp, lại gặp ba năm đói kém liền,
năm 1961, có chỗ (Tràng Sa ở Hồ Nam) dân đói quá phải ăn cắp, đánh cướp xe chở
rau cho cán bộ. Mỗi người dân chỉ được phát 6 tấc tây (tức 2 thước Trung Hoa)
vải mỗi năm đủ để vá quần áo. Sinh viên Bắc Kinh 3 năm liền không được ăn thịt,
có lần 3 tháng liền không có gạo, phải ăn khoai, bắp. Học bổng của học viên là
10 viên (bằng 20 quan Pháp) một tháng, còn sinh viên ngoại quốc được 100 viên,
bằng lương viện trưởng, gấp 2.5 lần lương giáo viên. Nội trú đại học bẩn kinh
khủng. Trong thời đó, ở Bắc Kinh người nghèo đi lượm đồ phế thải của ngoại nhân
(để viết trang này tôi dùng tài liệu của Fernand Gigon và E.J.Hevi – coi mục
lục sách tham khảo).
Dân Trung Hoa có thực sự hạnh phúc không?
Người Âu nào đi du lịch ở Trung Hoa về cũng được ban bè hỏi
người dân Trung Hoa có hạnh phúc không?
Sung sướng hay không còn là tuỳ tâm lý, cá tính của con người
hơn là tuỳ ở hoàn cảnh nên câu hỏi đó gần như vô nghĩa.
Dân tộc Trung Hoa có đặc tính là yêu đời, vui vẻ, không ủ rũ mà
cũng không lạnh lùng như dân tộc Anh chẳng hạn. Bertrand Russel, một triết gia
Anh qua thăm Trung Hoa năm 1920 kể lần ông đi thăm cảnh ở Tây Hồ ở Hàng Châu.
Hôm đó trời nắng gắt, bọn phu khiêng kiệu cho ông leo những đường dốc hiểm trở
để lên một ngọn núi, thấy họ hổn hển, gắng sức, cực khổ mà ông thương hại.
Nhưng khi tới ngọn rồi, họ nghỉ một lát để thở. Tức thì họ quây quần lại, lấy
ống điếu ra hút, cười nói vang lên như đời họ hạnh phúc lắm, không phải lo lắng
gì cả. Bertrand Russel khen họ. Lỗ Tấn mỉa ông ta: "Tôi không biết ông ấy
muốn nói gì. Tôi chỉ biết một điều là nếu những tên phu đó biết đau đớn về thân
phận của mình thì Trung Hoa đã thoát khỏi cảnh điêu đứng từ lâu rồi".
Han Suyin trong cuốn Un éte Sans oiseaux, cũng than thở cho cảnh
phu khiêng kiệu cho các quan lớn và khách ngoại quốc mà leo dốc Trùng Khánh và
cũng thấy chính bọn phu đó hễ tới nơi là chuyện trò, nuốt một cục xái thuốc
phiện.
Lâm Ngữ Đường trong The importance of living bảo nhờ có tinh
thần Lão trang đó, trong cảnh nào họ cũng tìm được cái vui mà dân tộc ông không
bị bệnh thần kinh như người phương Tây và tồn tại đến ngày nay mặc dầu trải qua
bao nỗi gian truân. Để đói rồi mới ăn thì thức gì cũng ngon như nem công chả
phượng, lời đó đúng.
Bình dân Trung Hoa cũng như bình dân các nước kém phát triển
khác, không đòi hỏi gì nhiều; hễ có cơm cho đủ no bụng, có áo đủ che thân mà
không bị bắt bớ, tra hỏi thì họ cho là sung sướng rồi. Họ không cần máy thâu
thanh, máy ti vi, ngay đến khi đau ốm họ cũng không cần thuốc ngoại quốc, uống
bậy bạ mấy lá cây trong vườn, nếu không khỏi bệnh mà có chết thì họ cũng không
oán trách ai, cho là tại số.
Như vậy ta có thể coi dân Trung Hoa dưới thời Mao Trạch Đông rất
sung sướng, trừ những năm Mao "nhảy vọt" và lập công xã nhân dân. Vì
trong những năm đó Mao đòi hỏi họ quá nhiều: bỏ miếng đất riêng của họ, bỏ cả
vợ con họ nữa, làm việc như mọi, năm này qua năm khác để xây dựng một xã hội mà
họ thấy không khác gì một trại lính, một ổ ong hay ổ kiến vĩ đại
Tâm lý của họ sau hai mươi năm bị Mao Trạch Đông nhồi sọ cả ngày
lẫn đêm, cơ hồ không thay đổi gì cả. Ngay đức số 1 – theo Hồ chí Minh - của con
người xã hội chủ nghĩa, tức đức chí công vô tư, bỏ cá nhân chủ nghĩa, bỏ tư hữu
đi, chỉ nghĩ đến lợi ích chung. Nông dân thì săn sóc trăm thước vườn riêng của
mình rất siêng năng 10 mà lơ là với ruộng chung của hợp tác xã,
thiếu nữ thành thị kén chồng phải có ba quay (San chuan): đồng hồ, xe đạp, máy
may. Tôi không biết thiếu nữ ở Nga kén chồng ra sao nhưng báo chí Tây phương
bảo phụ nữ Nga muốn có căn nhà riêng ấm cúng cho vợ chồng với đầy đủ tiện nghi
chứ không ưa đời sống tập thể; họ thích làm công việc bếp nước hơn làm thợ
trong xưởng, cũng phấn son, dầu thơm, nhạc, tiểu thuyết, phim phương tây….
Bản tính con người có thể thay đổi được. Nhà nhân chủng học
Margarett Mead đã thấy ở Thái Bình Dương một bộ lạc mà đàn bà y như đàn ông ở
các nước văn minh, còn đàn ông thì cũng yểu điệu làm những công việc nhẹ, trang
điểm y như đàn bà… bản tính đàn ông, đàn bà ngược hẳn nhau.
Vậy cái mà ta gọi là bản tính không phải do thiên nhiên mà do
con người, do xã hội tạo ra, nhưng phải lâu lắm, cương quyết trong vài trăm
năm, mười thế hệ liên tục, không gián đoạn. Mà ở Nga, sau khi Staline chết cách
mạng mới được non bốn chục năm đã hơi thay đổi rồi, chính sách đã bị Kroutchev
"xét lại", còn ở Trung Hoa Mao Trạch Đông mới thực sự cầm quyền được
mươi năm sau khi công xã nhân dân thất bại, Lưu Thiếu Kỳ cũng không theo Mao
nữa, phải cởi mở cho dân, như vậy thì làm sao có thể thay đổi tâm lý, bản tính
của dân được?
Tháng 12.1982, có tin Đặng Tiểu Bình, năm 1969 bị Mao xử tội.
Mao có lý khi chủ trương cứ 10 năm làm lại cuộc cách mạng văn hoá cho tới 1000
năm. Nhưng việc đó không sao làm được. Thế giới thay đổi hoài chứ. Đặng nay
lãnh đạo Trung Hoa đã xé bỏ hiến pháp năm 1954 của Mao, đưa ra một hiến pháp
mới được Quốc hội chấp nhận, cho dân tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, tự do
chỉ trích chính phủ, tự do hội họp… (tôi chưa rõ kinh tế được tự do tới mức
nào). Đặng và Đảng đã xích lại gần tư bản Tây phương, cách mạng vô sản đã biến
thành cách mạng tiểu tư sản chăng? Sự nghiệp của Mao Trạch Đông còn gì nữa đâu?
Brejnev ở Nga chết rồi, Androdop lên thay chức Tổng bí thư đảng
(1982), cả hai đều muốn sống chung hoà bình với Mỹ, nhiều nước xã hội chủ
nghĩa, chư hầu của Nga ở Đông Âu, hai chục năm nay vẫn thân thiện với phe tư
bản Âu, Mỹ, muốn – nhưng có lẽ còn ngại Nga – phát triển kinh tế theo lối tư
bản. Theo điều đó thì qua thế kỷ sau, rất có thể cộng sản chỉ còn phơn phớt
hồng, thành một thứ như đảng xã hội của Mitterand của Pháp. Marx và Hegel cho
rằng có luật chính (thèse) rồi phản (antithèse) sau cùng là hợp (synthèse). Sắp
tới lúc hợp rồi chăng? Như vậy đáng mừng cho nhân loại.
Văn học
Tôi không xét về khoa học, khảo cổ học, kiến trúc, hoạ… vì các
ngành đó không phát triển được bao nhiêu trong thời 1950-1976 (năm Mao chết),
và đều bị chính trị chi phối, phải theo truyền thống cách mạng, theo chủ nghĩa
duy vật biện chứng, phải thực tế, hiện thực, phục vụ nhân dân… (coi La Chinese
của Roger Levy – PUF).
Dưới đây tôi chỉ tóm tắt điểm chính về đường lối và hiện thực
văn học Trung cộng trong cuốn Văn học Trung quốc hiện đại, tập II của tôi, xuất
bản năm 1969 11.
Tôi xét tiếp vào hai giai đoạn sau
Thời chống Nhật và thời nội chiến (1938-1949).
Năm 1937, sau vụ Tưởng Giới Thạch bị bắt cóc ở Tây An mặt trận
thống nhất Quốc – Cộng thành lập để kháng Nhật. Năm sau, Hiệp hội Trung Hoa
toàn quốc văn nghệ giới kháng địch cũng thành lập một cách chính thức. Lão Xá,
một cây bút hơi thiên tả, được cả tả lẫn hữu tín nhiệm bầu làm chủ tịch. Quách
Mạt Nhược mới ở Nhật về, Mao Thuẫn, Ba Kim phụ trách cơ quan chính của hội là
Tạp chí Kháng chiến văn nghệ xuất bản ở Trùng Sa, sau dời lên Trùng Khánh.
Tuyên ngôn của Hội: "Cần thiết thực đi vào nhân dân, cần ra
mặt trận để phát động quần chúng, động viên binh sỹ, lực lượng văn nghệ phải
hoà với tiếng súng, nhất tề đánh vào lưng quân thù".
Nhiều nhà văn hăng hái ra tiền tuyến, kích thích tinh thần kháng
chiến của nhân dân, an ủi chiến sỹ. Họ diễn thuyết, soạn kịch, diễn kịch, viết
tiểu thuyết, làm bài ca ái quốc. Một số người có tài vẫn sáng tác được những
tác phẩm có giá trị như Mao Thuẫn, Ba Kim, Lão Xá, Thẩm Tòng Văn… nhưng xét
chung vì mục đích họ cần viết mau nên không tránh khỏi có những tác phẩm viết
theo công thức, thiếu tính nghệ thuật.
Tuy là Quốc Cộng hợp tác nhưng Cộng vẫn ở Diên An, theo đường
lối riêng. Năm 1938, Mao nêu lên "Phương hướng nông công binh", văn
nghệ sỹ phải phục vụ giới lao động tức nông dân, công nhân, binh sỹ... phải đề cao cuộc đấu tranh của lao động.
Mao lại phân tích quan hệ giữa tiêu chuẩn chính trị và tiêu
chuẩn nghệ thuật: "Bất kỳ giai cấp nào trong xã hội cũng luôn luôn lấy
tiêu chuẩn chính trị làm đầu, tiêu chuẩn nghệ thuật làm thứ yếu"
Đó là chủ trương hồng, phải quan trọng hơn chuyên về lĩnh vực
văn nghệ.
Mao nhấn mạnh vào điểm này, văn nghệ không mạnh hơn được chính
trị mà phải phục tùng chính trị của giai cấp vô sản.
Phục vụ cách nào? Quần chúng Trung Hoa cũng như quần chúng Việt
Nam thời tiền chiến, đại đa số còn thất học, và chỉ thưởng thức được câu ca
dao, tuồng hát bội, truyện lịch sử, kiếm hiệp. Thơ và kịch của Quách Mạt Nhược,
tiểu thuyết và tạp văn của Lỗ Tấn, mặc dầu viết bằng bạch thoại họ cũng không
hiểu nổi, nói chi đến sáng tác của những văn sỹ chịu ảnh hưởng nhiều của phương
Tây. Vì vậy, Mao bảo phải trở về "những sáng tác của dân tộc". Tất
nhiên những hình thức Mao nói đó không phải là những thể thơ luật, phú, biền
ngẫu, mà là những thể ca dao, tuồng đời Minh, đời Nguyễn.
Chẳng những đa số các nhà văn phe hữu mà một số nhà văn phe tả
cũng thấy tình trạng này có hại cho văn học, nghệ thuật.
Mao lại bảo phải tiếp thu văn hoá truyền thống của dân tộc để
làm kinh nghiệm khi sáng tác. Tiếp thu không có nghĩa là "phục cổ" mà
phải phê phán trong số vốn cũ đó, phần nào hủ bại thì bỏ, phần nào có tính cách
dân chủ, cách mạng thì giữ.
Nhưng các văn hào thời Đường, Tống làm sao có những tư tưởng,
tác phong luôn luôn đúng với đường lối Mác – Lê được, cho nên cộng sản một mặt
tiếp thu nghệ thuật của họ, một mặt cảnh giác, nhắc nhở hoài là họ bị giai cấp
và thời đại hạn chế, vẫn có ít nhiều khuyết điểm mà ta phải nhận định cho chính
xác.
Rồi sau cộng sản chẳng cần cẩn thận như vậy, cứ giải thích ngược
lại rằng những điểm trước kia họ coi là trái với đường lối của họ. Thực ra
không phải là khuyết điểm mà là ưu điểm, rất hợp với đường lối mới. Cho nên,
trước họ chê Lý Bạch là lãng mạn, tiêu cực thì nay họ khen là lãng mạn tích
cực, nghĩa là lãng mạn mà vẫn có tính cách phản đối xã hội đời Đường. Còn như
Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần, đầy rẫy những đoạn tả tình uỷ mị giữa Giả Bảo
Ngọc và cô em họ Lâm Đại Ngọc trong một gia đình phong kiến sa đoạ thì được họ
đề cao là có tính cách hiện thực, phản phong tích cực, đề cao sự giai cấp đấu
tranh. Khiến cho Du Bình Bá, tác giả bộ "Hồng Lâu Mộng nghiên cứu"
rất nổi tiếng, chỉ vì không theo đúng chỉ thị của Đảng, cứ giữ ý kiến rằng Hồng
Lâu Mộng chỉ là tự tuyện của Tào Tuyết Cần, chỉ diễn tư tưởng "sắc
không" của Nhà Phật chứ chẳng có tư tưởng cách mạng gì ráo, mà bị mạt sát
là phải nhận tội, hứa sẽ học tập thêm, cải thiện lần lần.
Thật ra họ nói xuôi nói ngược gì cũng được hết. Con ngựa họ bảo
là con dê thì người cầm bút cũng phải bảo là con dê.
Trong thời kháng Nhật và thời nội chiến này, phía Cộng có hai
tiểu thuyết gia khá nổi tiếng: Đinh Linh và Triệu Thị Lý đều theo đúng lý
thuyết của Mao.
Đinh Linh là tác giả truyện Thái dương chiếu tại Tan Cang hà
thượng, viết về chiến dịch cải cách điền địa mà tôi giới thiệu ở trên.
Triệu Thụ Lý cũng được một giải văn chương của Đảng cộng sản,
được đảng đề cao vì nội dung lành mạnh, lời văn bình dân. Tác phẩm chính của
ông là truyện Tam Lý Loan, viết sau 1949 tả sự chống đối của nông dân trong
việc thành lập hợp tác xã nông nghiệp. Rốt cuộc, nhờ tận tâm và khéo léo, cán
bộ khắc phục được bọn phản động và cả làng họp nhau, quyết định vô hợp tác xã
hết.
Thời kỳ chia hai (1949-1970)
Ngay từ khi chưa thống nhất xong Hoa lục, chưa thành lập chính
phủ cộng hoà nhân dân Trung Hoa, Mao Trạch Đông đã mở cuộc đại hội văn nghệ lần
thứ nhất vào tháng 7/1949, sau đó mở thêm hai đại hội nữa.
Năm 1949, trên 800 văn nghệ sỹ đủ các ngành đến dự để nghe Mao
giải thích đường lối sáng tác. Cũng vẫn là đường lối trong cuộc toạ đàm ở Diên
An năm 1942 chứ không có gì khác.
Trong thời kỳ này có nhiều cuộc chỉnh phong (sửa lại) cho ngay
tác phong của nhà văn mà nhẹ nhất là Hồng Lâu Mộng và hai cuộc thanh trừng vĩ
đại; Cuộc Trăm hoa đua nở và cuộc Cách mạng văn hoá đã kể rõ ở trên...
Mới đầu còn có một vài nhà văn trong đảng lên tiếng. Can đảm
nhất và cũng có tài nhất là Hồ Phong. Ông gửi lên Uỷ ban trung ương đảng một
tập điều trần dài tới 300.000 chữ (!), giọng rất mạnh mẽ, cho rằng chính sách
văn nghệ của Mao là "năm lưỡi dao đâm vào đầu óc nhà cầm bút" vì:
- Bắt nhà văn phải phục vụ nông, công binh.
- Bắt họ phải cải tạo tư tưởng.
- Bắt họ phải nhận sự lãnh đạo của Đảng.
- Bắt họ phải dùng những "hình thức dân tộc".
- Bắt văn nghệ phải lệ thuộc chính trị.
-
Họ bị chụp mũ là mật vụ Quốc dân đảng, bắt giam và truất hết
quyền công dân.
Vụ thanh trừng đó chỉ là cá nhân, vụ Trăm hoa đua nở mới là tập
thể.
Sau vụ này văn nghệ sỹ mất hết tinh thần, không còn sáng tác
được gì nữa vì phải theo những công thức đã vạch sẵn.
Trước hết không được bi quan, vì đã là nghệ thuật thì theo quan
niệm Cộng sản Trung Hoa phải luôn luôn lạc quan. Truyện nào cũng phải có hậu;
hễ là chống Nhật thì Nhật luôn luôn phải thua; hễ là nông dân chống địa chủ thì
luôn luôn là nông dân phải thắng; công nhân chống với chủ thì chủ luôn phải
nhượng bộ, nếu muốn sống.
Đã chủ trương lạc quan thì tất nhiên không chấp nhận bi kịch.
Mà hài kịch cũng không được hoan nghênh vì châm biếm ai bây giờ?
Nông công binh cũng còn nhiều tật nhỏ đấy nhưng phải thân ái sửa sai, hướng dẫn
họ chứ sao lại châm biếm?
Trong xã hội chỉ có 4 hạng người: hạng đã giác ngộ, không hủ hoá
được, tức đa số cán bộ (họ nghĩ vậy); bọn cũng đã giác ngộ nhưng đôi khi còn
lầm lẫn, tức một số cán bộ và đa số quần chúng; bọn chưa giác ngộ nhưng còn cải
hoá được, tức bọn trung nông, tiểu tư sản ở thành thị, bọn trí thức; dưới cùng
là bọn hoàn toàn xấu, tức cựu địa chủ, tay sai quốc dân đảng.
Người cầm bút khi tả những hạng người đó thì nhất định phải đề
cao hạng người thứ nhất, phải cho độc giả thấy hai hạng giữa thế nào cũng được
Đảng dắt về con đường chính mà thành người tốt, còn bọn cuối thì thế nào cũng
bị trừng trị xứng đáng. Xây dựng tiểu thuyết hay kịch mà không nắm vững công
thức đó thì bị chỉnh liền.
Tóm lại là mỗi nhân vật đều phải xếp vào một giai cấp, mang
"nhãn hiệu" của giai cấp đó, tả hạng A thì phải dùng những nét trong
bảng này, tả hạng B thì phải dùng những nét trong bảng kia... khỏi phải suy
nghĩ, phân tích.
Khốn nỗi, viết như vậy thì mười truyện như một, chán quá mà vẫn
có thể bị chỉnh là "xem nhẹ phần quan trọng của đặc điểm và kỹ xảo trong
sáng tác nghệ thuật..., kết quả là thủ tiêu nghệ thuật", là tôn trọng giáo
điều. Thế thì biết làm sao bây giờ? Công việc làm văn nghệ thật khó như đi trên
dây, chỉ nghiêng qua bên đây hay bên kia một chút là vỡ sọ.
Vì vậy mà những nhà văn lớp cũ, có uy tín rồi như Tào Ngu, Ba
Kim, Quách Mạt Nhược... thời này bớt sáng tác. Nhưng, "một đội ngũ văn
nghệ vô sản lớn mạnh mới xuất hiện". Nông dân thợ thuyền đua nhau sản
xuất, thi đua văn nghệ, lượng rất đáng kể mà phẩm chẳng có gì. Có còn hơn
không.
Tới cuộc cách mạng văn hoá thì như chúng ta đã biết, văn nghệ
chết đứng luôn. Không tác phẩm nào được in nữa, kể cả những tác phẩm của Mao
Thuẫn, Đinh Linh, Lão Xá, thơ của Ngải Thanh (học ở Pháp về dạy học ở Thiên An)
được sắp vào hàng đầu thi sĩ Cộng sản.
Rốt cuộc là trong thời này văn nghệ Trung Hoa chỉ có rất nhiều
dân ca; hàng trăm vạn bài mà Quách Mạt Nhược và Chu Dương thu thập rồi chọn
lọc, thành tập "Ca dao cờ đỏ" với lời giới thiệu "Đây là quốc
phong mới của thời đại xã hội chủ nghĩa (...) ca tụng tổ quốc, ca tụng đảng và
ca tụng lãnh tụ (...), nội dung và phong cách rất mới, đến ba trăm bài Kinh thi
cũng phải thua xa". Ca tụng lãnh tụ, vậy là tôn thờ cá nhân sao?
Về ca kịch, thì người ta sửa lại với kịch Bạch mao nữ được giải
thưởng Staline năm 1952, cho Hỷ Nhi, tức Bạch Mao nữ, người con gái tóc hoá
trắng vì trốn một địa chủ tàn ác, phải núp vào một hang sâu mấy năm, thành một
nữ anh kiệt, tinh thần chiến đấu rất cao, không chỉ chửi suông bọn địa chủ như
nguyên bản mà còn gia nhập Hồng quân để phục vụ cách mạng.
Cộng sản Trung Hoa hãnh diện về kịch đó lắm, năm 1973 còn đem
diễn ở Pháp.
Guillermaz, sau khi giới thiệu văn học cộng hoà nhân dân Trung
Hoa (trong La Chine populaire) kết luận:
"Vậy Trung Hoa đã bỏ văn hoá truyền thống mà không tạo được
văn tư vô sản như họ tin tưởng (...). Người ta ước mong rằng khi thoát khỏi
cuộc khủng hoảng hiện nay (1967), khỏi phải giải quyết những lo lắng cấp bách
nhất về vật chất, Trung Hoa sẽ phục hưng lại được những giá trị văn hoá truyền
thống vô cùng độc đáo và rất thực sự nhân bản của họ".
Đài Loan
Đài Loan chỉ bằng non nửa tỉnh Phúc Kiến, một phần ba Bắc Việt
mà hai phần ba là núi, có những ngọn cao trên 3000 thước, ngọn cao nhất non
4000 thước, ở gần bờ biển phía Đông; càng tiến về phía Tây (tỉnh Phúc Kiến núi
càng thấp dần, rồi tới đồi và một cánh đồng rộng nằm suốt bờ biển từ Nam lên
Bắc. Ở cực Bắc còn một số núi lửa chưa tắt hẳn. Năm 1935, một cuộc động đất làm
15.000 người chết và bị thương.
Khí hậu tốt, rừng có nhiều cây quý. Thổ dân gốc Mã lai, hơi
giống người Mọi ở nước ta. Họ sống trên rừng núi bằng săn bắn và làm rẫy. Họ là
một thiểu số rất nhỏ trong số 7.5 triệu dân vào khoảng năm 1953. Năm 1970 được
khoảng 13 triệu dân.
Từ mấy thế kỷ, Đài Loan làm sào huyệt của bọn cướp biển. Tới khi
người Nhật chiếm được năm 1895 mới diệt hết bọn đó, đem các nhà bác học, kỹ
thuật gia qua nghiên cứu đất đai, tài nguyên, bắt đầu mở đường, lập dưỡng
đường, làm đường. Người Trung Hoa từ Phúc Kiến đi dư cư qua nhiều và Đài Loan
được tích cực khai thác. Họ trồng gạo, bắp, đậu nành, đậu phộng, mía, trà (có
tiếng là ngon), long não (ba phần tư số long não trên thế giới).
Phát triển nhất là kỹ nghệ: khai thác than đá, xây cất nhà máy
thuỷ điện, nhà máy phân bón, xi măng, giấy, nhôm, làm nhiều đường xe hơi và xe
lửa. Đài Loan thành một miền kỹ nghệ quan trọng của Trung Hoa.
Khi Nhật đầu hàng đồng minh, Đài Loan trở về Trung Hoa và bắt
đầu suy: đồng tiền bị phá giá, dịch bệnh tả, dịch hạch phát trở lại, lúa gạo
thiếu, dân đói.
Năm 1950, Tưởng Giới Thạch đem hai ba trăm ngàn quân qua với một
số đông dân di cư. Ông ráng lập lại trật tự, chấn chỉnh kinh tế, cải cách chế
độ.
Thế giới thừa nhận quốc gia Đài Loan của Tưởng, cho nó là hợp
danh nghĩa và hợp thực tế. Thành thử có hai Trung Hoa, Trung Hoa của Tưởng và
Trung Hoa của Mao. Tưởng vẫn ở trong Hội đồng an ninh Liên hiệp Quốc, Mao không
được vào. Điều đó làm cho Nga và phe của Mao ức lắm mà không làm được gì.
Đầu năm 1950, Mỹ còn đang do dự không biết nên thừa nhận Trung
Hoa lục địa không; sau mới quyết định cứ ủng hộ Tưởng rồi sau sẽ hay, như vậy
rất có lợi cho Tưởng: rất nhiều Hoa Kiều ở hải ngoại sẽ còn hướng về Tưởng
được, Mao mất một miền kinh tế phát triển và nếu tình trạng kéo dài lâu thì có
thể mất luôn Đài Loan.
Tưởng mới qua Đài Loan được sáu tháng thì chiến tranh Triều Tiên
nổ, Tổng thống Mỹ Truman long trọng tuyên bố rằng nếu Cộng chiếm Đài Loan thì
Thái Bình Dương sẽ nổi sóng gió; ông ta lại viện trợ quân sự cho Tưởng trở lại
nhưng cũng ra lệnh cho Tưởng ngưng ngay mọi cuộc tấn công Hoa Lục bằng không
quân và hải quân. Hạm đội thứ VII của Mỹ được đưa ngay đến vùng biển Đài Loan
để canh phòng. Vậy là Đài Loan hoá ra trung lập. Nhưng khi Eisenhower lên thay
Truman thì chính sách của Mỹ thay đổi, ra mặt che chở cho Đài Loan, mặc cho Đài
Loan khiêu khích Mao.
Do đó mà Tưởng và Mao tình hình căng thẳng. Mao thả bom xuống
các đảo Kim Môn và Mã Tổ của Tưởng ở gần bờ biển Hoa lục; Tưởng trả đũa, đổ bộ
một ít lên Hoa lục, phá quấy rồi rút lui vội vàng. Ai cũng biết Tưởng không hy
vọng gì chiếm được Trung Hoa, chỉ muốn nâng cao tinh thần của quân đội, của
nhân dân lên thôi. Nhiều lắm thì ông ta cũng chỉ mong khi nào Hoa lục có nội
chiến thì ông ta sẽ đem quân qua giúp phe chống Cộng. Chuyện đó xa vời quá. Khi
ông chế (1975) Mao vẫn nắm quyền ở Hoa lục. Con ông, Tưởng Kinh Quốc lên nối
ngôi, chính sách không có gì thay đổi.
Tưởng cho phép hai đảng đối lập hoạt động. Dĩ nhiên hai đảng đều
có tính cách dân chủ và chỉ đối lập nhau cho có hình thức. Kẻ nào đối lập hẳn
thì bị chụp mũ là cộng sản và bị thủ tiêu liền. Người nào không tán tụng chính
quyền thì cũng bị coi chừng. Tưởng vốn có tính thù dai. Xét vụ Trương Học Long
thì biết, năm 1959, 23 năm sau vụ Tây An mà Trương vẫn bị an trí ở Đài
Loan 12.
Từ năm 1971, chính sách của Mỹ với Trung Quốc lại thay đổi,
Nixon lại thân thiện với Mao, ủng hộ Mao gia nhập Liên hiệp quốc, vậy là Đài
Loan bị gạt ra ngoài.
Nhưng Mỹ vẫn không bỏ rơi Đài Loan. Mấy năm nay mặc dù tình hình
Mỹ - Trung Quốc vẫn rất thắm thiết, Mỹ vẫn bán những vũ khí tối tân cho Đài
Loan, có thể phải viện trợ cho nữa. Trung Quốc vẫn đương nhờ Mỹ giúp đỡ nhiều
để thực hiện bốn hiện đại hoá nên chỉ phản đối cho có và Mỹ cứ làm.
--------------------------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét