Thứ Ba, 7 tháng 6, 2022

CHÂN DUNG HAY CHÂN TƯỚNG NHÀ VĂN (KỲ4)

 

CHÂN DUNG HAY CHÂN TƯỚNG NHÀ VĂN (KỲ4)

Tác giả: Nhật Tuấn

                     

                                     

 Hình: (từ trái) Nguyễn thị Ngọc Tú, Nguyễn thị Như Trang, Lâm thị Mỹ Dạ, Xuân Quỳnh

                          

Càng đi sâu vào “chân dung” những nhà văn đã quá cố trong “Chân dung nhà văn” của Xuân Sách  tôi càng có cảm giác xót thương của anh chàng Paven Ivannôvits Tsitsikôp rong ruổi khắp nước Nga Sa hoàng trên chiếc xe Britska “mua tên ” những tá điền, những nô lệ đã chết nhưng chủ đất chưa khai báo, chưa xoá tên trong sổ để lừa vay tiền  trong tiểu thuyết “ những linh hồn chết” của đại văn hào Nga Nikolai Vasilievich Gogol.

Phải nói ngay, tuyệt nhiên tôi không coi các nhà văn quá cố của ta như “những linh hồn chết” của các tá điền thời nước Nga Sa hoàng. Ngược lại tôi cảm phục và cảm thương họ, cho dù đã chết nhưng linh hồn họ vẫn còn sống  trong các tác phẩm họ để lại, cả một đời vót nhọn đời sống vào ngòi bút , vào những ảo tưởng mà họ xác tín, hy sinh cả những lạc thú, cả nghĩa vụ với vợ con để làm cái công việc khổ ải là sáng tác văn học để rồi nhiều người “chẳng còn gì”.. Còn nhớ nữ văn sĩ Lê Minh Khuê đã có lần nói với tôi :’ cái bọn nhà văn  dù có thế nào xem ra vẫn rất đáng yêu, cứ hí ha hí hửng, tí ta tí tởn thật tội nghiệp…”.

 

Tôi muốn dành lòng cảm thương đó cho nhà văn Nguyễn Thế Phương. Ông chính gốc quê Thanh Hóa, xuất hiện và nổi tiếng ngay với “ Đào chèo” viết về một cô đào nương bị tên Chánh tổng hãm hại, sau con gái của cô vẫn nối nghiệp mẹ nhưng là nữ văn công quân đội”. Truyện viết với cảm hứng “phản phong” của thời đó.  Tiểu thuyết đầu tay “ Đi bước nữa” của ông cũng nổi tiếng với cái kết đại ý “ không phải chị gái góa này mà cả làng này phải …đi bước nữa…”, tất nhiên là đi lên hợp tác hóa nông nghiệp. Cho dù sống ở giữa Hànội, làm tới Trưởng phòng văn học Việt Nam  NXB Văn học nhưng ông sống rất nghèo trong một căn hộ chật chội. Hàng ngày ông uống thứ rượu trắng rẻ tiền người ta vẫn pha phân đạm để tăng độ nặng của rượu và sự nghèo túng cùng với bệnh tật đã làm ông ra đi ở tuổi 59. Nguyễn Thế Phương viết về công giáo trong tiểu thuyết “Nắng” với cái nhìn chân thực , thân thiện với đông bào Thiên chúa giáo hơn nhiều nhà văn cùng thời. Càng về cuối đời ông càng  rút ẩn vào chính ông, càng ít bè bạn . Xuân Sách buồn rầu dựng chân dung ông:


Đi bước nữa rồi đi bước nữa

Phấn son mưa nắng đã tàn phai

Cái kiếp đào chèo là vậy đó

Đêm tàn bạn cũ chẳng còn ai.

 

Có thể nói trong “chân dung nhà văn”, Xuân Sách đã dành lòng ưu ái và cảm phục hơn cả cho nhà văn Nguyễn Ngọc Tấn tức Nguyễn Thi. Ông là hình ảnh “ chiến sĩ – nhà văn “ xuyên suốt, bền vững, không  dao động, suốt hơn 6 năm ở miền Nam , ông đã có mặt hầu hết các chiến trường đồng bằng Nam Bộ vừa làm thơ vừa viết truyện. Ông nổi tiếng với Trăng sáng (truyện ngắn, 1960), Đôi bạn (truyện ngắn, 1962) và đặc biệt với truyện ngắn "Mẹ vắng nhà", truyện ký “ Người mẹ cầm súng” sau  chuyển thể thành kịch bản phim “Chị Út Tịch.”


“Trăng sáng soi riêng một mặt người

Chia ly đôi bạn cách phương trời

Ước mơ của đất anh về đất

Im lặng mà không cứu nổi đời.”

 

Ngược với Nguyễn Thi, Xuân Sách dành cho nhà văn Mai Ngữ mấy câu “chân dung” không lấy gì làm ưu ái lắm. Năm 1947 Mai Ngữ đi bộ đội, năm 1954, phóng viên Báo Quân đội nhân dân,sau cùng thành cán bộ Tạp chí Văn nghệ quân đội. Những tác phẩm tiêu biểu của Mai Ngữ: Sông phía trước (1972), Bầu trời và dòng sông (1966), Người lính mặc thường phục (1986), Gió nóng (1984), Thời gian (1992), Người đàn bà trên hạm tàu (1996), Trong tay bọn Angca (1980), Cành đào tàn trên xe rác (1997)… và đặc biệt là Chuyện như đùa (1988) và Lại chuyện như đùa (1990).


Tưởng chuyện như đùa hoá ra thật

Biết ông sòng phẳng tự bao giờ

Cái con thò lò quay sáu mặt

Vồ hụt mấy lần ông vẫn trơ

 

Một trong các nhà văn kháng chiến chống Pháp bị “tai nạn nghề nghiệp” nặng nhất phải kể đến nhà văn Phù Thăng, tên thật là Nguyễn Trọng Phu, từng là chiến sĩ trinh sát Trung đoàn 42, rồi làm phóng viên báo Quân Giải Phóng. Năm 1961, Phù Thăng viết tiểu thuyết Phá vây dầy 500 trang, kể chuyện một tiểu đoàn trinh sát mở trận đánh nghi binh, thu hút lực lượng địch về phía mình, giải vây cho đồng đội. Không may trong sách có đôi câu phát biểu bị coi là “hòa bình chủ nghĩa” khi ông cho rằng dù nhìn ở góc độ nào  chiến tranh cũng không phải là điều tốt đẹp, còn có chi tiết một chị cán bộ mỗi lần công tác qua bốt tề đều phải hiến thân cho thằng trưởng bốt khiến chị phải luôn uống thuốc ngừa thai..… Thế là cuốn sách bị đập tơi bời, tác giả của nó phải chuyển về xưởng phim, sau đó thì về quê đi cày. Mấy năm sau, nghe nói Phù Thăng viết truyện cực ngắn có tên “Hạt thóc” kể về một gã tâm thần, từng là nhà văn, rồi chẳng biết do ngộ chữ sao đó, gã đâm ra lẩn thẩn, cứ nghĩ mình là hạt thóc hễ trông thấy gà qué ở đâu là co cẳng chạy.


Theo phongdiep.net, khi nghe tin “Chân dung nhà văn" ra đời, Phù Thăng lo cho Xuân Sách, đã gửi thư cho ông:


”Mình chưa được đọc nó,nên không biết phải nghĩ thế nào trước dư luận khen chê hiện nay (có khi bản thân ông thì cũng cóc cần các thứ dư luận ấy),nhưng vì tôi là bạn từ thuở hàn vi,đã cùng ông trải bao điều cay đắng nên không thể “mũ ni che tai” được.Tôi thực sự lo ngại cho những ngày còn lại trên cuộc đời bão giông trong lúc lưng ông đã còng,chân ông đã mỏi,mà tôi không biết phải làm gì cho bạn trong hòan cảnh “ốc còn chưa mang nổi mình ốc”.

Và Xuân Sách trả lời:


“Từ khi cái “của quí” của tôi ra đời ,tôi đã nhận được nhiều thư từ, nhiều bạn cũ bạn mới đến thăm, nhiều cuộc gặp gỡ nhưng khi nhận thư ông tôi thực sự xúc động.Nói cho cùng đời vẫn đáng sống ông ạ. Dĩ nhiên so với ông tôi có khấm khá hơn, điều đó làm tôi càng thương ông.


Và Xuân Sách thương Phù Thăng qua “chân dung”:


“Chuyện kể cho người mẹ nghe

Biển lửa bốc cháy bốn bề tan hoang

Đứa con nuôi của trung đoàn

Phá vây xong lại chết mòn trong vây.”

 

Một nhà văn quân đội khác, cũng "ăn đòn" phải bỏ Hà Nội chạy về Hà Nam. Đó là nhà văn Vũ Bão, năm 1947 làm quân báo, năm 1950 làm cán bộ Khu đoàn thanh niên Liên khu III. Ông chủ trương: "Thở bằng lá phổi của mình, nhìn đời bằng đôi mắt của mình, suy nghĩ về lẽ đời bằng cái đầu của mình, đi bằng đôi chân của mình và không bao giờ viết bằng ngòi bút đã bị bẻ cong.”


Do vậy, ông viết khá nhiều, năm 1957 tiểu thuyết “Sắp cưới” của ông dính dáng tới cải cách ruộng đất nên bị đánh tơi bời, sau ông chuyển sang viết phim,.


Sắp cưới bỗng có thằng phá đám

Nên ông chửi bố chúng mày lên

Đàu chày đít thớt đâu còn ngán

Không viết văn thì ông viết phim.

 

Nhà văn nữ Nguyễn thị Ngọc Tú xuất hiện  sau hòa bình với tiểu thuyết đầu tay “Huệ” (1964) gây tiếng vang lớn, sau đó là các tiểu thuyết: Đất làng (1974); Buổi sáng (1976); Hạt mùa sau (1989); tập truyện  Người hậu phương (1966); Những dấu chấm phía chân trời (1983)…Tiểu thuyết “Đất làng” tuy được khen nhưng cũng bị chê là “nền đỏ lấm tấm đen” vì đưa cả cảnh xã viên “làm reo” với Ban chủ nhiệm HTX... Nhiều năm chị là biên tập viên báo Văn Nghệ, quan chức Hội nhà văn như Ủy viên chấp hành, TBT Tác phẩm mới…


Đất làng vừa một tấc

Bao nhiêu người đến cày

Thóc giống còn mấy hạt

Đợi mùa sau sẽ hay

 

Nhà văn quân đội nữ Nguyễn Thị Như Trang, hàm đại tá, biên tập viên báo Văn Nghệ quân đội , viết nhiều nhưng chẳng đọng lại được bao nhiêu:  Màu tím hoa mua,  Ở thành phố bờ biển,  Câu chuyện ở cửa rừng,  Hoa cỏ đắng… đều là truyện ngắn. Nổi bật là tiểu thuyết “Khoảng sáng trong rừng (1979)":

 

Nhá nhem khoảng sáng trong rừng

Để cho cuộc thế xoay vần hơn thua

Xác xơ mầu tím hoa mua

Lửa chân sóng báo mây mưa suốt ngày.

 

Nữ thi sĩ Xuân Quỳnh, ngày xưa, chẳng hiểu vì sao, giới cầm bút lại gỉ tai nhau: “... Ngọc Tú,…. Xuân Quỳnh.". Bà nguyên là diễn viên múa, sau chuyển sang làm thơ, hay nhất là thơ tình với những bài nổi tiếng: Thuyền và biển, Sóng, Hoa cỏ may, Tự hát, Nói cùng anh… ngoài ra  còn có: ”Tơ tằm - chồi biếc”, ”Hoa dọc chiến hào”, “Gió Lào, cát trắng “, ”Lời ru trên mặt đất”, ”Sân ga chiều em đi “… Bà là vợ nhà văn Lưu Quang Vũ, cả hai tử nạn trong một tai nạn xe hơi gây nghi vấn trong dư luận. Không hiểu sao Xuân Sách nói bà “trồng cây táo” ra “ cây bạch đàn”, chắc là chuyện riêng tư không dính đến tên tác phẩm.


“Mải hái hoa dọc chiến hào

Bỏ quên chồi biếc lúc nào không hay

Thói quen cũng lạ lùng thay

Trồng cây táo lại mọc cây bạch đàn”

 

                      (còn tiếp)

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét