CHÂN DUNG HAY
CHÂN TƯỚNG NHÀ VĂN (KỲ 3)
Tác giả: Nhật TuấnNhà thơ Xuân Sách
(tiếp
theo)
Trong 100 chân dung của Xuân Sách,
có một trường hợp đặc biệt, đó là nhà thơ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu, đã
mất từ 1939, quá xa trước cách mạng. Trong "Thi nhân Việt
Nam" Hoài Thanh và Hoài Chân đã cung kính đặt Tản Đà lên ngồi ghế
"chủ suý" của hội tao đàn, một người mở lối cho thi ca Việt Nam bước
vào giai đoạn mới.Nhà văn Nguyễn Tuân cũng ca ngợi: “Trong chốn Tao Đàn, Tản
Đà xứng đáng ngôi chủ suý, trong Hội tài tình, Tản Đà xứng đáng ngôi hội chủ mà
làng văn làng báo xứ này, ai dám ngồi chung một chiếu với Tản Đà?”
Và Xuân Sách cung kính viết về cụ:
“Văn chương thuở ấy như bèo
Thương cụ gồng gánh trèo leo tận trời
Giấc mộng lớn đã bốc hơi
Giấc mộng con suốt một đời bơ vơ
Ước chi cụ sống tới giờ
Chợ trời nhan nhản tha hồ bán văn…”
Nhà văn Bùi Huy Phồn tức Đồ Phồn thuộc lớp tiền chiến, năm
1941 đã viết tiểu thuyết trào phúng “Một chuỗi cười”, năm 1946 cũng tiểu
thuyết trào phúng “Khao”, năm 1961 ông viết tiểu thuyết “phất”
hưởng ứng phong trào cải tạo tư doanh ở Hànội . Ông thuộc hàng quan chức
văn hóa văn nghệ, từng làm Giám đốc nhà xuất bản Văn học (1958-1962), ủy viên
Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam khóa II (1962-1972), đại biểu Hội đồng nhân
dân thành phố Hà Nội các khóa 4, 5 và 6, ủy viên thường trực Hội văn học nghệ
thuật Hà Nội. Trong vụ Nhân Văn Giai phẩm ông viết bài “đánh” Trương Tửu rất
nặng. Xuân Sách viết chân dung ông không lấy gì làm ưu ái khi gọi trệch “đồ phồn”
thành “đồ phấn”, “đồ vôi”:
“Phất rồi ông mới ăn khao
Thơ ngang chạy dọc bán rao một thời
Ông đồ phấn, ông đồ vôi
Bao giờ xé xác cho tôi ăn mừng …”
Trong thế hệ kháng chiến chống Pháp , nhà
văn Nguyễn Khải là người có khối lượng tác phẩm đồ sộ nhất. Suốt thời
trai tráng, hầu như không năm nào Nguyễn Khải không ra tiểu thuyết, tập
truyện ngắn mới. Ở Sàigòn, có lần nhà thơ Hoài Vũ bảo tôi: “văn viết có duyên
tớ thấy có Nguyễn Khải và cậu…”. Tôi thì không nói, nhưng quả thực Nguyễn Khải
viết gì thì viết, người đọc vẫn luôn luôn bị cuốn hút, hấp dẫn. Chính vì
vậy tác động tuyên truyền, động viên của tác phẩm Nguyễn Khải rất mạnh, chỉ
tiếc, vì chú trọng bám sát chủ trương đường lối của Đảng nên khi chủ trương
thay đổi, tác phẩm của ông trở nên xa với hiện thực. Năm 1978-79, NXB Văn Học
thực hiện biên soạn Bộ tuyển văn học cách mạng 3 thời kỳ: chống Pháp, xây dựng
chủ nghĩa xã hội và chống Mỹ. Tôi được giao gặp từng nhà văn để hỏi tác giả
muốn chọn những tác phẩm nào. Một buổi sáng tôi tới nhà Nguyễn Khải ở bãi Phúc
Xá. Lúc đó ông đang ngồi ở bàn viết, trước mặt là tranh vẽ bìa cuốn “Cha và con
và…” sắp ra lò. Nguyễn Khải chọn đi chọn lại trong kho chữ của mình rồi bất
chợt ông kêu lên: “Tung tóe mẹ nó hết rồi Tuấn ơi…”. Ông nhìn tôi thất thần rồi
cười khảy: “Nhưng không sao, tao sẽ vót nhọn gươm đâm một cú cuối cùng”. Cái cú
đó chắc là tập “Đi tìm cái tôi đã mất” trước khi ông mất . Xuân
Sách chắc cũng hiểu được tâm sự Nguyễn Khải nên ông hạ bút:
“Cha và con và… họ hàng và…
Hết bay mùa thóc lẫn mùa lạc
Cho nên chiến sĩ thiếu lương
ăn
Họ sống chiến đấu càng khó khăn
Tháng Ba ở Tây nguyên đỏ lửa
Tháng Tư lại đi xa hơn nữa
Đường đi ra đảo đường
trong mây
Những người trở về mấy ai hay
Xung đột mỗi ngày thêm gay gắt
Muốn làm cách mạng nhưng lại
dát”
Về cái “dát” của Nguyễn Khải thì Xuân Sách nói
đúng. Chính Nguyễn Khải từng tâm sự: “Tớ theo “triết lý con lươn” cứ ngửi
thấy mùi hiểm nguy là tớ tiết chất nhờn lủi mất…”
Nhà văn Nguyễn Thành Long chuyên viết truyện ngắn và ký. Ông rất
kỹ lưỡng và thận trọng trong viết lách như ông từng tâm sự: “Nhưng có lẽ là
giời đầy tôi, tôi cứ phải lo nhận xét, ghi chép, và đắn đo ở từng chữ như
vậy”. Kỹ lưỡng , đắn đó vậy nhưng rồi cũng không tránh được “vạ
bút” hồi năm 1957 với “Trò chơi nguy hiểm” vào sau này với “Cái gốc”
in trên báo Văn Nghệ. Tác phẩm của ông còn lại có “Lặng lẽ Sapa” và “Giữa
trong xanh” . Xuân Sách đã khắc họa chân dung ông:
“Thao thức năm canh nghĩ chẳng ra
Trò chơi nguy hiểm đấy thôi mà
Lửng lơ giữa khoảng trong
xanh ấy
Để mối đùn lên cái gốc già…”
Nhà văn Đào Vũ cũng thuộc thế hệ chống Pháp. Vào thời
kỳ hợp tác hóa nông nghiệp ở miền Bắc, ông hưởng ứng phong trào bằng cả loạt
tác phẩm “Vụ lúa chiêm”, “Cái sân gạch” rất được báo chí hồi đó tung hô.
Xuân Sách đã chỉ ra cái cốt cách văn chương của Đào Vũ:
“Trời thí cho ông vụ lúa chiêm
Ông xây sân gạch với xây thềm
Con đường mòn ấy ông đi mãi
Lưu lạc lâu rồi mất cả tên…”
Khi viết chân dung nhà văn Nguyên Ngọc,
Xuân Sách chưa được thấy vai trò của ông trong đòi hỏi dân chủ khi ông tham gia
biểu tình ở Hà Nội, viết bài trên trang mạng bauxite… Bởi vậy Xuân Sách chỉ
nhắc tới “Đất nước đứng lên” tác phẩm nổi tiếng của Nguyên Ngọc và
“Mạch nước ngầm”, truyện dài bị nhắc nhở khi Nguyên Ngọc viết ở Quảng
Ninh mất cả điểm hai cuốn rất cách mạng “Đất Quảng” và “Rừng Xà nu”:
“Mấy lần đất nước đứng lên
Đứng lâu cũng mỏi cho nên phải nằm
Hại thay một mạch nước ngầm
Cuốn trôi đất Quảng lẫn rừng
Xà nu…”
Nhà văn thuộc thế hệ chống Pháp bị “tai nạn
nghề nghiệp” nặng nhất có lẽ là Hà Minh Tuân. Ông tham gia hoạt động bí mật ở
Hànội từ năm 1943 , chính ủy trung đoàn năm 1950, Giám đốc NXB Văn Học năm
1958. Không may ông viết tiểu thuyết “vào đời” nêu nỗi khổ của những thanh niên
“vào đời” phải đi lao động trên công trường, “cái đòn gánh như con rắn
quẫy nặng trên vai” và thế là ông ăn đòn hội chợ của đồng nghiệp, ngay cả
báo chí cũng phát động quần chúng nhảy vào đánh đấm. Rốt cuộc ông mất chức Giám
đốc NXB Văn học về công tác ở “Vụ cá nước lợ” thuộc Tổng cục hải sản, vài năm
sau về làm trợ lý cho ông Như Phong GĐ NXB Văn học.
Xuân Sách khắc họa chân dung ông:
“Bốn mươi tuổi mới vào đời
Ăn đòn hội chợ tơi bời xác xơ
Giữa hai trận tuyến ngu ngơ
Trong lòng Hà nội bây giờ ở đâu?”
Trong những nhà thơ kháng chiến chống Pháp, có
những người chỉ có một bài mà được lưu truyền mãi. Đó là nhà thơ Minh
Huệ, sinh năm 1927, từng là chủ tịch Hội văn nghệ Nghệ - Tĩnh. Ông
làm thơ từ hồi kháng chiến chống Pháp. Đề tài sáng tác chủ yếu của ông là Bác
Hồ và cách mạng. Ông làm bài thơ "Đêm nay Bác không ngủ" sau
khi được nghe kể lại câu chuyện gặp gỡ giữa Bác và một anh đội viên trong rừng
giữa đêm mùa đông năm 1950.
Xuân Sách viết về ông:
“Vỡ lòng câu thơ viết
Mời bác ngủ bác ơi
Đêm nay bác không ngủ
Nhà thơ ngủ lâu rồi”
Nhà thơ Hữu Loan là trường hợp khá đặc biệt trong những
nhà thơ chống Pháp. Ông tham gia cách mạng từ rất sớm,năm 1936 trong phong trào
Mặt trận Bình dân, năm 1943 giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa huyện Nga
Sơn, sau đó phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính
trong kháng chiến chống Pháp. Năm 1957 tham gia nhóm Nhân Văn Giai phẩm qua các
bài viết lên những tiêu cực của các cán bộ tham nhũng, triệt hạ nhau để
leo ghế. Sau khi hết thời gian cải tạo, Hữu Loan nhất quyết bỏ Đảng, bỏ cơ quan
về quê kiếm sống không muốn dính dáng gì tới Hội nhà văn. Xuân Sách rất mến
phục nhân cách của Hữu Loan:
“Ôi màu tím hoa sim
Nhuộm tím cuộc đời dài đến thế
Cho đến khi tóc bạc da mồi
Chưa làm được nhà
Còn
bận làm người
Ngoảnh lại ba mươi năm
Tím mấy nghìn
Chiều hoang
Biền biệt”
(còn nữa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét