Thứ Ba, 7 tháng 6, 2022

CHÂN DUNG HAY CHÂN TƯỚNG NHÀ VĂN (KỲ 3)

 

CHÂN DUNG HAY CHÂN TƯỚNG NHÀ VĂN (KỲ 3)

                      

 

Tác giả: Nhật Tuấn

Nhà thơ Xuân Sách

 

                                        (tiếp theo)

 

Trong 100 chân dung của Xuân Sách, có một trường hợp đặc biệt, đó là nhà thơ Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu,  đã mất từ 1939, quá xa trước cách mạng. Trong "Thi nhân Việt Nam" Hoài Thanh và Hoài Chân đã cung kính đặt Tản Đà lên ngồi ghế "chủ suý" của hội tao đàn, một người mở lối cho thi ca Việt Nam bước vào giai đoạn mới.Nhà văn Nguyễn Tuân cũng ca ngợi: “Trong chốn Tao Đàn, Tản Đà xứng đáng ngôi chủ suý, trong Hội tài tình, Tản Đà xứng đáng ngôi hội chủ mà làng văn làng báo xứ này, ai dám ngồi chung một chiếu với Tản Đà?”

 

Và Xuân Sách cung kính viết về cụ:

 

“Văn chương thuở ấy như bèo

Thương cụ gồng gánh trèo leo tận trời

Giấc mộng lớn đã bốc hơi

Giấc mộng con suốt một đời bơ vơ

Ước chi cụ sống tới giờ

Chợ trời nhan nhản tha hồ bán văn…” 

 

Nhà văn Bùi Huy Phồn tức Đồ Phồn thuộc lớp tiền chiến, năm 1941 đã viết tiểu thuyết trào phúng “Một chuỗi cười”, năm 1946 cũng tiểu thuyết trào phúng “Khao”, năm 1961 ông viết tiểu thuyết “phất” hưởng ứng phong trào cải tạo tư doanh ở Hànội . Ông thuộc  hàng quan chức văn hóa văn nghệ, từng làm Giám đốc nhà xuất bản Văn học (1958-1962), ủy viên Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam khóa II (1962-1972), đại biểu Hội đồng nhân dân thành phố Hà Nội các khóa 4, 5 và 6, ủy viên thường trực Hội văn học nghệ thuật Hà Nội. Trong vụ Nhân Văn Giai phẩm ông viết bài “đánh” Trương Tửu rất nặng. Xuân Sách viết chân dung ông không lấy gì làm ưu ái khi gọi trệch “đồ phồn” thành “đồ phấn”, “đồ vôi”:

 

Phất rồi ông mới ăn khao

Thơ ngang chạy dọc bán rao một thời

Ông đồ phấn, ông đồ vôi

Bao giờ xé xác cho tôi ăn mừng …”

 

Trong thế hệ kháng chiến chống Pháp , nhà văn Nguyễn Khải là người có khối lượng tác phẩm đồ sộ nhất. Suốt thời trai tráng, hầu như  không năm nào Nguyễn Khải không ra tiểu thuyết, tập truyện ngắn mới. Ở Sàigòn, có lần nhà thơ Hoài Vũ bảo tôi: “văn viết có duyên tớ thấy có Nguyễn Khải và cậu…”. Tôi thì không nói, nhưng quả thực Nguyễn Khải viết gì thì viết, người đọc vẫn luôn luôn  bị cuốn hút, hấp dẫn. Chính vì vậy tác động tuyên truyền, động viên của tác phẩm Nguyễn Khải rất mạnh, chỉ tiếc, vì chú trọng bám sát chủ trương đường lối của Đảng nên khi chủ trương thay đổi, tác phẩm của ông trở nên xa với hiện thực. Năm 1978-79, NXB Văn Học thực hiện biên soạn Bộ tuyển văn học cách mạng 3 thời kỳ: chống Pháp, xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống Mỹ. Tôi được giao gặp từng nhà văn để hỏi tác giả muốn chọn những tác phẩm nào. Một buổi sáng tôi tới nhà Nguyễn Khải ở bãi Phúc Xá. Lúc đó ông đang ngồi ở bàn viết, trước mặt là tranh vẽ bìa cuốn “Cha và con và…” sắp ra lò. Nguyễn Khải chọn đi chọn lại trong kho chữ của mình rồi bất chợt ông kêu lên: “Tung tóe mẹ nó hết rồi Tuấn ơi…”. Ông nhìn tôi thất thần rồi cười khảy: “Nhưng không sao, tao sẽ vót nhọn gươm đâm một cú cuối cùng”. Cái cú đó chắc là tập “Đi tìm cái tôi đã mất” trước khi ông mất . Xuân Sách chắc cũng hiểu được tâm sự Nguyễn Khải nên ông hạ bút:

 

“Cha và con và… họ hàng và…

Hết bay mùa thóc lẫn mùa lạc

Cho nên chiến sĩ thiếu lương ăn

Họ sống chiến đấu càng khó khăn

Tháng Ba ở Tây nguyên đỏ lửa

Tháng Tư lại đi xa hơn nữa

Đường đi ra đảo đường trong mây

Những người trở về mấy ai hay

Xung đột mỗi ngày thêm gay gắt

Muốn làm cách mạng nhưng lại dát”

 

Về cái “dát” của Nguyễn Khải thì Xuân Sách nói đúng. Chính Nguyễn Khải từng tâm sự: “Tớ theo “triết lý con lươn” cứ ngửi thấy mùi hiểm nguy là tớ tiết chất nhờn lủi mất…”

 

Nhà văn Nguyễn Thành Long chuyên viết truyện ngắn và ký. Ông rất kỹ lưỡng và thận trọng trong viết lách như ông từng tâm sự: “Nhưng có lẽ là giời đầy tôi, tôi cứ phải lo nhận xét, ghi chép, và đắn đo ở từng chữ như vậy”. Kỹ lưỡng , đắn đó vậy nhưng rồi cũng không tránh được  “vạ bút” hồi năm 1957 với “Trò chơi nguy hiểm” vào sau này với “Cái gốc” in trên báo Văn Nghệ. Tác phẩm của ông còn lại có “Lặng lẽ Sapa” và “Giữa trong xanh” . Xuân Sách đã khắc họa chân dung ông:

 

Thao thức năm canh nghĩ chẳng ra

Trò chơi nguy hiểm đấy thôi mà

Lửng lơ giữa khoảng trong xanh ấy

Để mối đùn lên cái gốc già…”

 

Nhà văn Đào Vũ cũng thuộc thế hệ chống Pháp. Vào thời kỳ hợp tác hóa nông nghiệp ở miền Bắc, ông hưởng ứng phong trào bằng cả loạt tác phẩm “Vụ lúa chiêm”, “Cái sân gạch” rất được báo chí hồi đó tung hô. Xuân Sách đã chỉ ra cái cốt cách văn chương của Đào Vũ:

 

“Trời thí cho ông vụ lúa chiêm

Ông xây sân gạch với xây thềm

Con đường mòn ấy ông đi mãi

Lưu lạc lâu rồi mất cả tên…”

 

Khi viết chân dung nhà văn Nguyên Ngọc, Xuân Sách chưa được thấy vai trò của ông trong đòi hỏi dân chủ khi ông tham gia biểu tình ở Hà Nội, viết bài trên trang mạng bauxite… Bởi vậy Xuân Sách chỉ nhắc tới “Đất nước đứng lên” tác phẩm nổi tiếng của Nguyên Ngọc và “Mạch nước ngầm”, truyện dài bị nhắc nhở khi Nguyên Ngọc viết ở Quảng Ninh mất cả điểm hai cuốn rất cách mạng “Đất Quảng” và “Rừng Xà nu”:

 

“Mấy lần đất nước đứng lên

Đứng lâu cũng mỏi cho nên phải nằm

Hại thay một mạch nước ngầm

Cuốn trôi đất Quảng lẫn rừng Xà nu…”

 

Nhà văn thuộc thế hệ chống Pháp bị “tai nạn nghề nghiệp” nặng nhất có lẽ là Hà Minh Tuân. Ông tham gia hoạt động bí mật ở Hànội từ năm 1943 , chính ủy trung đoàn năm 1950, Giám đốc NXB Văn Học năm 1958. Không may ông viết tiểu thuyết “vào đời” nêu nỗi khổ của những thanh niên “vào đời” phải đi lao động trên công trường, “cái đòn gánh như con rắn quẫy nặng trên vai” và thế là ông ăn đòn hội chợ của đồng nghiệp, ngay cả báo chí cũng phát động quần chúng nhảy vào đánh đấm. Rốt cuộc ông mất chức Giám đốc NXB Văn học về công tác ở “Vụ cá nước lợ” thuộc Tổng cục hải sản, vài năm sau về làm trợ lý cho ông Như Phong GĐ NXB Văn học.

 

Xuân Sách khắc họa chân dung ông:

 

“Bốn mươi tuổi mới vào đời

Ăn đòn hội chợ tơi bời xác xơ

Giữa hai trận tuyến ngu ngơ

Trong lòng Hà nội bây giờ ở đâu?”

 

Trong những nhà thơ kháng chiến chống Pháp, có những người chỉ có một bài mà được lưu truyền mãi. Đó là nhà thơ Minh Huệ, sinh năm  1927, từng là chủ tịch Hội văn nghệ Nghệ - Tĩnh. Ông làm thơ từ hồi kháng chiến chống Pháp. Đề tài sáng tác chủ yếu của ông là Bác Hồ và cách mạng. Ông làm bài thơ "Đêm nay Bác không ngủ" sau khi được nghe kể lại câu chuyện gặp gỡ giữa Bác và một anh đội viên trong rừng giữa đêm mùa đông năm 1950.

Xuân Sách viết về ông:

 

“Vỡ lòng câu thơ viết

Mời bác ngủ bác ơi

Đêm nay bác không ngủ

Nhà thơ ngủ lâu rồi”

 

Nhà thơ Hữu Loan là trường hợp khá đặc biệt trong những nhà thơ chống Pháp. Ông tham gia cách mạng từ rất sớm,năm 1936 trong phong trào Mặt trận Bình dân, năm 1943 giữ chức Phó Chủ tịch Ủy ban khởi nghĩa huyện Nga Sơn, sau đó phụ trách các ty: Giáo dục, Thông tin, Thương chính và Công chính trong kháng chiến chống Pháp. Năm 1957 tham gia nhóm Nhân Văn Giai phẩm qua các bài viết lên những tiêu cực của các cán bộ  tham nhũng, triệt hạ nhau để leo ghế. Sau khi hết thời gian cải tạo, Hữu Loan nhất quyết bỏ Đảng, bỏ cơ quan về quê kiếm sống không muốn dính dáng gì tới Hội nhà văn. Xuân Sách rất mến phục nhân cách của Hữu Loan:

 

“Ôi màu tím hoa sim

Nhuộm tím cuộc đời dài đến thế

Cho đến khi tóc bạc da mồi

Chưa làm được nhà

        Còn bận làm người

    Ngoảnh lại ba mươi năm

      Tím mấy nghìn

            Chiều hoang

                    Biền biệt”

 

(còn nữa)

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét