Nhà thơ Thanh Tịnh |
CHÂN DUNG HAY CHÂN TƯỚNG NHÀ VĂN (KỲ 7)
Tác giả: Nhật Tuấn
KỶ NIỆM 100 NĂM NGÀY
SINH NHÀ THƠ
THANH TỊNH
(12-12-1911/12-12- 2011)
Trong văn học Việt Nam có hiện tượng
rất lạ, ngay các nhà phê bình cũng ít để ý: có đoạn văn xuôi tồn tại trong ký
ức người đọc dai dẳng và bền vững chẳng kém gì một bài thơ “lưu danh thiên cổ”.
“Hằng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng
nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ
niệm hoang mang của buổi tựu trường.
Tôi không thể nào quên được những cảm giác
trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu
trời quang đãng.
…..
Buổi sáng mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương
thu và gió lạnh. Mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và
hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên tôi thấy
lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay
đổi lớn: Hôm nay tôi đi học.”
Thử hỏi những người độ tuổi “quốc văn giáo
khoa thư”, có ai vào những sáng cuối thu khai trường không bồi
hồi nhớ lại đoạn văn trong “Tôi đi học” của nhà thơ Thanh
Tịnh, thấm đẫm chất nhân văn như đá tạc vào thời gian.
Không hiểu sao, cứ mỗi lần nhớ đến đoạn văn
Thanh Tịnh, tôi cũng nhớ tới một đoạn văn thuộc lòng từ thủa học trò của nhà
văn Pháp Anatole France trong cuốn “Le livre de mon ami”,:
La rentrée des classes
“Je vais vous dire ce que
me rappellent, tous les ans, le ciel agité de l’automne, les premiers dîners à
la lampe et les feuilles qui jaunissent dans les arbres qui frissonnent ; je
vais vous dire ce que je vois quand je traverse le Luxembourg dans les premiers
jours d’octobre, alors qu’il est un peu triste et plus beau que jamais ; car
c’est le temps où les feuilles tombent une à une sur les blanches épaules des
statues. Ce que je vois alors dans ce jardin, c’est un petit bonhomme qui, les
mains dans les poches et sa gibecière au dos, s’en va au collège en sautillant
comme un moineau. Ma pensée seule le voit ; car ce petit bonhomme est une ombre
; c’est l’ombre du moi que j’étais il y a vingt-cinq ans.”
Ngày khai trường
Tôi sắp nói với bạn những
gì gợi tôi nhớ lại, hàng năm, trời thu xao động, những bữa ăn chiều đầu tiên
dưới ánh đèn,và những chiếc lá vàng đi trong những hàng cây run rẩy; tôi sắp
nói với bạn những gì tôi trông thấy khi đi qua vườn hoa Luxembourg vào những
ngày đầu tháng Mười, hơi buồn một chút nhưng đẹp hơn bao giờ hết vì đó là thời
gian từng chiếc lá rơi trên vai trắng của những pho tượng. Tôi cũng nhìn
thấy trong vườn một chú bé hai tay đút túi, cặp sách quàng vai tung tẩy tới
trường như một con chim nhỏ.Tôi chỉ thấy trong tâm tưởng, bởi chú bé ấy chỉ là
một cái bóng, cái bóng của chính tôi hai mươi lăm năm trước…”
Và câu này mới thật xúc
động:
“C’est le même ciel et la
même terre; les choses ont leur âme d’autre fois, leur âme qui m’egaye et
m’attriste, et me trouble, lui seul ‘n’est plus…”
“ Vẫn trời ấy, vẫn
đất ấy, vẫn những thứ mang linh hồn ngày xưa, linh hồn làm tôi vui, buồn
và bối rối, chỉ riêng chú bé ấy là không còn nữa…”
Hai nhà văn ở hai phương
trời, cùng đục đẽo vào lòng người những dòng văn bất hủ về một thời trong sáng
nhất của đời người: “thời cắp sách đến trường”
Đầu xuân năm 1947, ông về
công tác ở một vùng gần chùa Trầm, Hà Đông. Tại đây ông được nghe bà con kể câu
chuyện một anh du kích xã lập mẹo đến gần tên lính Pháp gác kho súng đạn, rồi
bất thần xông vào vật hắn xuống đất. Hai người cứ thế ôm ghì nhau . Anh du kích
thứ hai chạy vội đến, tay súng lăm lăm nhưng không dám nổ súng sợ bắn
phải bạn. Anh du kích đang vật nhau với địch liền thét to: “Bắn! Bắn cả hai!”
Thế là đoàng! đoàng! - tên giặc ăn đạn, nhưng anh du kích cũng bị thương
nặng.
Câu chuyện giản dị ấy đã
làm nhà thơ xúc động, muốn kể lại cho nhiều người nghe. Ông mày mò sáng tác
thành một chuyện kể bằng văn vần và gọi là độc tấu. Năm 1954, ông phụ
trách đoàn xẩm, gồm 23 anh chị em, phần lớn là mắt kém, đi về Bùi Chu Phát
Diệm, lấy lời ca tiếng hát phục công tác chống cưỡng ép di cư. Còn nhớ năm
1958, nhà thơ Thanh Tịnh ghé trường Phổ thông công nghiệp
Hà nội, nơi tôi đang học lớp 9 diễn
bài tấu của ông làm cả trường cười ngả nghiêng, tôi còn nhớ một câu hài hước: ”nghe
tiếng cười… sụt sịt”. Nhưng “đứa con tinh
thần” này đã bị một số người không mấy thiện cảm để mắt tới . Đoàn
Phú Tứ, một trong những người phụ trách ngành sân khấu đã phê phán:
“Không thể ngờ một nhà thơ trữ tình như Thanh Tịnh lại đi làm trò hề, trò
xẩm!”. Vài năm sau Thanh Tịnh chuyển sang viết ca dao. Nhiều người cho
rằng hai câu: ”Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng
xong.”, không phải của bác Hồ như xưa nay sách báo vẫn nói mà chính là
của nhà thơ Thanh Tịnh.
Mới đây, không hiểu sao
vào lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh Thanh Tịnh (12-12-1911/12-12- 2011) nhiều
người viết về ông, kể cả những bậc tiến sĩ văn học, kể cả ông Chủ tịch Hội nhà
văn Hữu Thỉnh đọc diễn văn khai mạc cũng không ai nhắc tới đoạn văn bất hủ “Tôi
đi học” của ông. Họ chỉ nhắc tới hơn chục năm kháng chiến, làm người lính
từ địa phương đến chủ lực, khi ở Việt Bắc, khi vào Khu Bốn. Ông là một sáng lập
viên Hội Nhà văn Việt Nam, đã là Ủy viên Ban chấp hành (khóa I, II), Ủy
viên Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, Đại tá quân đội trước khi
nghỉ hưu.
Ngay trong thơ “chân dung”, Xuấn
Sách cũng không điểm “Tôi đi học” vốn là tác phẩm nhớ đời của Thanh Tịnh, ông
chỉ cảm thương nhà văn tâm huyết nhưng cuối đời cô đơn, nghèo nàn và nhận
ra đã "lạc đường":
Bao năm ngậm ngải
tìm trầm
Giã từ quê mẹ xa
dòng Hương giang
Bạc đầu mới biết lạc
đường
Tay không nay lại vẫn hoàn tay không
Mộng làm giọt nước ôm sông
Ôm sông chẳng được, tơ lòng gió
bay.
(còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét