Ngẫu hứng Trần Tiến 25
Trần Tiến
Trần Hiếu, anh tôi
Khán giả hâm mộ hay lẫn giữa tôi và anh tôi,
càng tuổi xế chiều hai anh em càng giống nhau. Thực ra nếu anh ấy không hứng
lên, để râu chơi, giống em cho vui thì đâu đến nỗi. Suốt ngày chúng tôi phải
trả lời ai là Trần Tiến, ai là Trần Hiếu. Tôi nhỏ hơn cả giáp, mà họ vẫn lẫn
lộn. Hóa ra mình già thế ư, vừa cay cú, vừa mệt lại buồn cười.
Nhớ ngày cách đây cũng
đến 40 năm, tôi đang diễn ở rạp Đống Đa Hà Nội, một đêm diễn nhớ đời vì mình
mới vào nghề, ra sân khấu hát có hai bài mà phải đi ra, đi vào sáu lần trong
tiếng vỗ tay “bis” cổ vũ, dưới khán giả có người lên sân khấu nói vào micro,
mời anh Trần Tiến xuống phân giải dùm cuộc đánh lộn của hai cậu bé bơm xe. Tôi
xuống thì một cậu bé mếu máo hỏi “anh là Trần Hiếu hay Trần Tiến”, “anh là
Tiến, thì sao?” “thế là em mất một ngày bơm xe rồi” “ thôi anh bù cho, đừng
khóc nữa. Bận sau đừng dại cá cược nhé, Trần gì thì kệ cha nó, em bơm xe, cứ
nhớ mặc quần là được rồi”.
Ngày nhỏ, anh Hiếu là
thần tượng của tôi. Anh chống sào nhảy qua những hố cát lớn ngoài bến sông Hồng
như Tặc-giăng, tôi cũng bắt chước, một lần bị trẹo chân. Về nhà anh bị bố dần
cho một trận. Anh nhảy xuống bơi qua sông, tôi cũng nhảy theo. Sức yếu nên tôi
bị sóng cuốn xuống gầm bè nứa dài ngoẵng, may có một đụn cỏ đáy sông cứu thoát.
Anh khoái làm cái việc dị hóa ngoài đồng, hương lúa thơm ngào ngạt. Tôi cũng
sung sướng làm theo, có lẽ đó là một khám phá lãng mạn nhất thuở ấu thơ anh
tặng tôi. Vậy mà khi anh theo nghề hát, nổi tiếng khắp miền Bắc, bảo tôi đừng
học sáng tác, theo anh đi hát dễ nổi tiếng hơn. Thì tôi lại không theo anh, đó
là lần đầu tiên tôi chống lại anh, ngọn núi sừng sững chắn ngang con đường đời
của tôi.
Anh và chị Thúy Huyền,
vợ mới cưới của anh sống mơ mộng như cặp tình nhân thường thấy trên phim Liên
xô ngày đó. Về nhà, cứ lên cầu thang là ô ố luyện thanh rất hồn nhiên. Hàng xóm
phàn nàn, mẹ mắng. Thế là anh chị bỏ vào sống trong khu tập thể trường nhạc.
Anh Trần Hiếu, chị Thúy Huyền và anh Qúy Dương là những người thầy dạy hát đầu
tiên của nhạc viện Hà Nội, ngày ấy gọi là trường nhạc Ô chợ Dừa. Nơi đây là cái
nôi của bao nhiêu ca nhạc sỹ tài danh ngày đó, mà bây giờ ít người vượt qua
được giá trị nghệ thuật của họ. Nói chính xác hơn, thế hệ chúng tôi ngưỡng mộ
họ một cách thành kính, hơn bây giờ fan hâm mộ ca sỹ thời thượng nhiều.
Giọng anh Hiếu không
dễ chấp nhận bằng giọng anh Qúy Dương. Trời cho anh Dương một vẻ đàn ông quý
tộc sang trọng và một giọng hát ngọt ngào quyến rũ bao nhiêu, thì lại cho anh
tôi một chất giọng trầm thô (mà chỉ người trong nghề mới biết là quí hiếm) và một
vẻ ngoài giống võ sĩ hơn là ca sỹ. Thế mà hai anh ấy thay nhau cháy sáng sân
khấu ngày đó, mỗi người một vẻ và hình như họ thân nhau lắm. Tôi nhớ không lầm
thì, lứa ca sỹ mang hơi thở nền thanh nhạc hiện đại ở Việt Nam hồi đó, ngoài
bậc thầy lớn tuổi đời và tuổi nghề như Quốc Hương, Mai Khanh là đến hai chàng
ca sỹ học trong nước, trẻ trung , sáng tạo và đầy tâm hồn: Qúi Dương – Trần
Hiếu. Tiếp theo là một loạt ca sỹ học từ các nước trở về ồ ạt, gây náo động nhà
hát và làn sóng phát thanh ngày đó, như Trung Kiên, Quang Hưng, Lô Thanh, Gia
Khánh… đều là những giọng ca đáng nể, bọn trẻ chúng tôi thi nhau tìm kiếm nơi
các anh hát, mắt sáng lên hóng hớt, sung sướng nuốt từng câu hát.
Các anh ấy đều là bậc
trí thức trong âm nhạc, ngoài việc được chuyên gia nước ngoài đào tạo bài bản,
còn là sự cố gắng tự học ghê gớm để áp dụng phương pháp hát opera vào ca khúc
Việt, mày mò từng bước khi âm nhạc xứ ta còn quá thô sơ, lạc hậu. Họ là những
người đặt viên gạch đầu tiên xây dựng nền móng thanh nhạc chính thống Việt Nam.
Trần Hiếu, Qúi Dương, Ngọc Dậu là những ca sỹ đóng vai chính trong những vở
opera đầu tiên của Việt Nam: Epgheni Oneghin, Cô Sao… Cho đến nay cũng chẳng
còn vở nào để chúng ta được biết đến.
Anh Hiếu nhà tôi giỏi
bốn năm ngoại ngữ, học võ, học vẽ, học văn như điên. Thi vào Đại học toàn đỗ
thủ khoa, vậy mà bỏ đi theo nghề mẹ mắng là “xướng ca vô loài”. Sau này anh nổi
tiếng, có chút tiền góp vào đỡ đần mẹ nuôi các em nhỏ, trong đó có tôi. Mẹ đỡ
hờn giận hơn, nhưng chẳng bao giờ cười. Mẹ lấy bố tôi vì bố tôi hát hay, nhảy
claquette giỏi, nhưng trước hết là một nhà giáo đáng kính, một quí ông trường
Tây, vì mẹ là tiểu thư con nhà giàu có tiếng Hà thành. Cái thời ấy nó vậy.
Lần đi biểu diễn mấy
tháng trời ở Châu Mỹ về, các em xúm đông xúm đỏ nghe anh trai kể chuyện, anh
hứng lên hát mấy bài diễn thành công bên đó. Bài “Con voi” làm mẹ cười rung
bụng. Lần đầu tiên thằng con “xướng ca vô loài” giải được lời nguyền của mẹ,
lấy làm sướng lắm, máu lên chơi luôn bài “Cuba kes linda”. Các em gái trố mắt
thán phục vì ông anh được Mỹ nuôi, bụng béo, mông cong, nhảy “samba” cực chuẩn
và hát tiếng Latin thì thôi rồi, đúng nghề của chàng. Mẹ chỉ buột miệng “cha
nào con nấy ” rồi ngồi khóc, các chị phải xúm vào an ủi dỗ dành, ba mươi năm bố
mất, là ba mươi năm mẹ ngồi khóc một mình .
Có lần anh kể bố mình
và bác Giáp (Võ Nguyên Giáp ) học cùng trường, chuyên đá cầu với nhau, rất thân
thiết. Bác rủ bố lên chiến khu, bố không đi vì đẻ tám đứa con lận, bố là hiệu
trưởng Hàng Than ngày đó suốt ngày nói chuyện yêu nước với học sinh bị bọn Tây
ghét lắm. Chuyện này tôi không được kiểm chứng vì hai cụ đã mất. Nhưng chuyện
anh đánh nhau với Nguyễn Cao Kỳ thì có. Họ học chung trường Chu Văn An. Kỳ hay
bắt nạt học sinh lớp dưới, bạn bè cử anh đến đánh nhau với Kỳ. Sau này Tướng
Cao Kỳ về thăm quê, vì ông ta thích nhạc tôi do Hà Trần hát bên Mỹ, nên tôi có
dịp hỏi ông. Tướng Kỳ chỉ cười cười bảo, hồi đó mình khoái đánh nhau thật,
nhưng không nhớ có đụng Trần Hiếu không. Ông này to con lắm, lại giỏi quyền Anh
nữa.
Anh tôi không cao lắm
nhưng cái lưng to bè giống mẹ, khỏe vô địch. Nhà hát mỗi lần chuyển đàn piano
là phải đợi có anh, một mình một đầu thay sức bốn người. Thần tượng của anh là
anh hùng Samson nào đó thời ấy. Đại loại là một anh chàng có sức mạnh vô địch,
vai u, thịt bắp kiểu phim hành động Mỹ bây giờ, chống lại bất công, bênh vực
người nghèo, được người đẹp ngưỡng mộ đem lòng xi mê, đại loại vậy.
Cái hình anh vẽ Samson
rất đẹp, choán nguyên bức tường cao 5m ngoài sân ngôi nhà cổ của chúng tôi ở
phố Ngõ Gạch. Bố đặt tên anh Trần Trung Hiếu, đứa con thứ hai trong nhà thế mà
như số phận. Bố mất sớm, chỉ có anh gánh vác thay bố bên mẹ nuôi chín miệng ăn
ngày tản cư, loạn lạc 1947. Mẹ kể: Anh gánh hai thúng muối to đùng vượt qua bốt
đồn Tây về được vùng tự do, bán đi mua gạo nuôi cả nhà. Phố Ngõ Gạch ngày đó,
các bà tiểu thương đói hàng, lại phải gọi Thằng Hiếu con bà Đốc học về Hải
Phòng vùng tạm chiếm, xì xồ tiếng Tây để mua xi măng về cứu cả phố.
Vậy thôi, mà trong anh
có một phần dũng cảm thì lại có thêm ba phần… ngốc. Cái thời ấy, thanh niên Hà
Thành trí thức đầy mình, quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, ôm bom ba càng lao
vào xe tăng Pháp dũng cảm là thế, mà khi Thủ đô giải phóng xong, cái lứa các
anh đều ngốc giống nhau. Chỉ biết ăn cơm nhà, vác tù và hàng tổng, cụ thể là
vác đàn accordeon đi hát chùa khắp nơi. Cuộc sống gia đình rớt xuống tận đáy
của đói nghèo, họ cũng chẳng biết làm gì cứu vãn. Họ không có khả năng tự nuôi
sống mình cho đến tận bây giờ. Họ khinh thường tiền bạc, chức tước, danh vọng.
Cách mạng lấy nhà, họ tự nguyện hiến dâng. Lớn lên có vợ con không có chỗ ở,
vui vẻ về ở khu tập thể văn công, nhà lá dột nát. Suốt ngày các chàng trai của
chế độ mới lang thang ngoài phố, ngoài các câu lạc bộ thành đoàn, hát những bài
ca lãng mạn Nga. Anh Hiếu còn mắng tôi, sao cứ đi kéo xe ba gác ngoài sông kiếm
sống, mà không tham gia thanh niên tình nguyện, lên xây dựng nông trường như
bài hát xô viết “Nông trường ơi, đắm say mênh mông trong lòng ta, lớn lên như
bao nhiêu lời ca…”. Nhà nghèo, mẹ muốn bán chè xanh trước cửa kiếm vài ba xu
mua gạo, anh cũng không bằng lòng, sợ mất danh giá nghệ sỹ của nhân dân. Nghĩ
lại thấy anh mình ba phần ngốc, chỉ một phần dũng cảm, còn lại là... cuồng tín.
May mà không nghe lời
người anh hùng của cả nhà.
Anh chẳng biết gì về
cuộc sống xung quanh ngoài việc luyện thanh, dạy học và hát phục vụ nhân dân.
“Hiếu mặc quần thủng
đít” là cái tên thời ấy bạn bè trêu anh. Trừ bộ quần áo diễn lúc nào cũng được
giặt ủi phẳng phiu, một đôi giày diễn bóng lộn và cây đàn được lên giây chính
xác. Còn lại là cuộc sống rách rưới, bụi đời như người lính. Nơi nào cần tiếng
hát là có anh. Từ nơi có ba anh lính xạ thủ cheo leo trên nóc cầu Long Biên,
đối mặt với hàng chục phản lực Mỹ ném bom, anh cũng tới làm… người thứ tư,
không phải để bắn, mà để... hát.
Công trường, nông
trường, chiến trường, biên giới, hải đảo, sân khấu hợp tác xã, sân khấu trường
đại học, sân khấu khắp ngũ châu, lục địa đều có mặt Trần Hiếu. Anh đi hát cho
chính sách ngoại giao của cụ Hồ. Hát cho nhân dân anh yêu quí với đồng lương
đói rách. Ai cũng yêu anh vì “Chú voi con ở bản Đôn”, “anh quân bưu vui tính”.
Báo Nga ca ngợi anh “Hò kéo thuyền trên sông Vonga” hát hay hơn đại danh ca
Saliapin nước họ. Đồng nghiệp thì phục anh khúc tự sự “Con quỉ Mefistopheles”,
ngoài Trần Hiếu không ai hát nổi khúc opera kinh điển này.
Chắc chắn lúc đó anh
đã quên cô con gái Trần Thu Hà bé bỏng, giọng như mèo kêu ở nhà, mẹ mất sớm
không ai dạy dỗ chăm sóc. Anh chỉ biết có hát. Hát có lẽ là hạnh phúc duy nhất
của anh. Thế giới của anh là tiểu thuyết, phim ảnh, và những giai điệu,lời ca
đẹp. Ngoài ra không còn gì nữa. Chỉ đến khi an ninh đến sờ gáy vì bài hát thời
xét lại “Người Nga không muốn chiến tranh” anh mới giật mình. Mới đây thần chết
suýt lôi anh đi, anh mới giật mình. Samson khỏe như thế rồi cũng ngã bệnh, kiếm
cầm không nổi. Lương của anh họ bớt xén, danh hiệu Nghệ sỹ nhân dân họ lờ đi,
mãi sau này, không thể không trao, họ mới “thí” cho. Anh tôi không biết nịnh,
không biết làm hồ sơ xin xỏ, chức giáo sư cũng vuột khỏi tay vì không có tiền.
Số tiền cuối cùng còn lại trong sổ tiết kiệm, anh lo thuốc cứu vợ lâm bệnh
nặng. Vợ mất là trắng tay.
Bây giờ anh mới chợt
hiểu, ngoài Tổ quốc, nhân dân và sự nghiệp âm nhạc cách mạng, anh còn có hai
con, còn có mộ chị Huyền, mộ bố mẹ ngoài cánh đồng quê nhà. Còn có các em gái
ruột thịt, fan cuồng của anh, tóc đã bạc trắng, bệnh tật đầy mình, còn có thằng
em Trần Tiến xa cách mấy chục năm trời, vẫn trực bên giường bệnh anh. Giây phút
yếu đuối nhất, cận kề cái chết, lần đầu tôi thấy anh khóc: “Tiến ơi, nhà giờ
chỉ còn hai anh em”. Bây giờ anh mới giật mình và chợt hiểu vào cái tuổi 80 với
vài giọt nước mắt đắng cay muộn màng, chảy dài. Dù sao, cũng chẳng ai trách
anh. Anh chẳng có lỗi gì ngoài việc Trời bắt anh là kẻ lãng mạn cuối cùng của
thế kỷ trước.
Anh vẫn còn trong trái
tim ngàn triệu con người đi cùng đường với anh, thế kỷ mộng mơ ấy.
Nhân dân yêu anh vì
anh ngốc, cả lứa các anh những nghệ sỹ hồn nhiên và ngốc, suốt đời chỉ có âm
nhạc và một trái tim nhỏ nhoi, vắt hết giọt máu cuối cùng tặng nhân dân. Nhân
dân đi theo quan tài của những người yêu họ. Nhạc sỹ Trịnh công Sơn, ca sỹ Qúi
Dương, bạn anh và nhiều, nhiều người như thế. Những dòng người tiễn biệt dài vô
tận như tiếng tơ lòng của các anh: day dứt,dai dẳng. Không nỡ chia lìa cõi thế
gian đẹp đẽ này.
…
Anh vẫn là anh hùng
Samson của cả nhà, là đứa con hiếu thảo của mẹ.
Là người trung với
nước đúng như bố đặt tên anh: Trần Trung Hiếu,
Nghệ sỹ nhân dân Trần
Hiếu, anh tôi.
Vũng tàu 6-11-14
T.T.
Trần Trung Hiếu (nghệ
danh Trần Hiếu). Sinh 1936 tại Hà Nội. Quê quán Hà Tây. Tốt nghiệp đại học
thanh nhạc năm 1959 tại Nhạc viên Hà Nội. Nghiên cứu sinh tại Bungary năm 1981
bằng tương đương Thạc sỹ Âm nhạc.
Giảng viên khoa Thanh
nhạc Nhạc viện Hà Nội, nhạc viện TP. Hồ chí Minh 1959 đến 2014.
Ca sỹ chính Nhà hát Ca
múa nhạc Việt Nam 1959-2000.
Nhà nước trao tặng
Danh hiệu nghệ sỹ nhân dân đợt 3 năm 19
Những ca khúc trình
bày được nhân dân yêu thích: “Con voi” (sáng tác: Nguyễn Xuân Khoát và Đỗ
Nhuận). “Anh quân bưu vui tính” (sáng tác: Đàm Thanh). “Chú voi con ở bản Đôn”
(sáng tác: Phạm Tuyên) .
Vai chính trong vở opera “Epgheni Oneghin” từ
tác phẩm Thơ Puskin. Opera “Cô Sao” và “Núi rừng lên tiếng” tác phẩm Đỗ Nhuận.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét