Ðối với Phạm Thị Hoài, mẹ Việt
Nam không phải là hình ảnh những bà mẹ Âu Cơ, đẻ ra trăm trứng, trứng rồng, trứng
tiên. Cũng không phải là những bà mẹ kháng chiến huyễn hoặc và thần thoại trong
thơ Tố Hữu. Mẹ Việt Nam của Phạm Thị Hoài là bà mẹ giang hồ "Kiêm
Ái", sống trong những căn buồng cũng giang hồ như những ga tàu treo,
cái gì cũng chuẩn bị nhổ neo, những bà mẹ bán trôn nuôi miệng, bán tấm
thân trần hình cong chữ S, sần sùi ở bờ biển vĩ độ mười hai mười ba,
để mua về những kỷ niệm rách nát, treo lủng lẳng trên tường. Những bà mẹ bị những
đứa con khôn sớm nhìn sõi vào từng vết tích kệch cỡm, chiếu kính hiển vi vào từng
sợi dây thần kinh nhàu nát của cuộc đời phong trần, trụy lạc, càng ngày càng
nhão mãi ra. Những đứa con ấy còn nhẫn tâm khai quật quá khứ, cả những tầng "người
người lớp lớp" đã chôn sâu dưới lòng đất mà mùi xú uế còn không ngớt
xông lên. Những đứa con quật mồ ấy không nhân nhượng với quá khứ gian dối của
cha và hiện tại giang hồ của mẹ. Cũng phải. (Thụy Khê)
Kiêm ái
Phạm
Thị Hoài
Chỉ có mẹ con trong căn buồng như một ga tàu treo mạo hiểm trên
tầng năm. Hành khách toàn đàn ông. Họ là những người quen ra vào nơi công cộng.
Cứ thử quan sát họ, dù ở một nhà vệ sinh thu tiền, hay bu quanh một
gốc tiểu tiện khoan khoái ấm cúng giữa phố, bao giờ họ cũng khác khi ở gia đình
riêng. Nghĩa là giấu chỗ bít tất thủng dưới lòng bàn chân, cân nhắc tuỳ mức độ
các động tác và lời nói, và hay chột dạ. Xung quanh có ba hàng xóm. Ông số 7
của mẹ, làm nghề thu tiền điện, báo, đến nhà nào cũng thấy một con đực và kè kè
bên nó một con cái, không rõ có phải của nhau hay không, nhưng xem ra cố định.
Nhà nào cũng thế, khiến ông ta nghẹn ngào. Em đã thử sang xin muối cả ba hàng
xóm, quả có thế thật. Riêng nhà em một kiểu. Mẹ thường bảo, mẹ con mình sống
kiểu thời chiến. Không có ông nào đào ngũ, về ở hẳn với mẹ.
Trong căn buồng-ga tàu treo của hai mẹ con, cái gì cũng chuẩn bị nhổ neo, không ở yên một chỗ, cái gì cũng phấp phới bay, nhất là bức bình phong vải phin hoa nội địa ngăn giữa nơi tiếp khách của mẹ và góc học tập của em, cái gì cũng mang tinh thần không rõ ngày mai trôi dạt phương nào, trừ những cưống vé của đám hành khách đàn ông. Chúng là kỷ niệm, nên có quyền chất lù lù thành núi, không ai can thiệp được. Kỷ niệm mang hình điếu thuốc lá còn hằn rõ vệt răng, vừa cắn vừa ngậm kiểu đàn ông, bẹp gí, nồng nồng. Rồi những bức thư; cả xấp chưa trả lời, cả xấp nguyên không bốc, cả xấp bị xé vụn, rồi những mảnh vụn lại được giấu dưới một đáy hộp nào đó. Đủ kiểu giấy: ông này xé sổ tay, ông kia rình kiếm loại xa xỉ ngoại quốc, ông nữa dùng loại kẻ ô ly, chắc có con đang học lớp dưới. Rồi những lọ nước hoa được sản xuất từ những nơi có truyền thống yêu đàn bà, đã dùng cạn vẫn xếp hàng góp mặt trên giá. Album ảnh thì đầy những khoảng trống lem nhem như bộ nhớ của thời gian, với dòng chữ con số chứa toàn bộ điều bí mật đã dập xóa công phu bên dưới. Kỷ niệm còn là những vết thủng trên tường bê tông..., một đồ đạc treo nặng nghĩa tình nào đó đã sơ tán... Mẹ con em sống kiểu thời chiến, kỷ niệm cũng nguỵ trang, vội vội vàng vàng. Có lúc, em muốn châm lửa đốt sạch, giải tán luôn cái nhà ga này, hay tế nhị hơn: dùng chiếc quạt tai voi già nua xua tơi tả đống kỷ niệm không chịu tự động hành quân ấy ra ngoài cửa sổ, cho chúng đậu xuống mái nhà tầng dưới – dưới ấy và dưới ấy nữa, sâu xuống lòng đất, chắc chắn chỗ nào cũng là một con đực và một con cái cố định bên nhau – , thành rác rưới ở đó, công khai băng hoại ở đó và thối hoăng lên, để mỗi lần nhìn ra cửa sổ, mẹ, người nhạy cảm với hương thơm và cái đẹp phải rùng mình. Nhưng không. Mẹ, hoặc mở toang cửa sổ, mắt phơn phớt một chút xanh, môi phơn phớt một chút hồng, tóc vừa gội sấy thả bềnh bồng, miệng không ngậm được vì cứ phải cười một mình và hát một mình, còn tâm hồn thì bay trước xuống tận chân cầu thang tầng một, bất chấp phân chó của cả năm tầng, rạo rực chờ, hoặc đóng sập cửa sổ, quệt lên những chiếc gối trắng tinh các bức màu nước đầy ấn tượng xanh hồng và đen xì chì kẻ mắt made in Japan, rồi vò nhàu chúng phẫn nộ tức tưởi như hoạ sĩ không hài lòng với tác phẩm, vò nhàu tóc tai người ngợm và nữ tính bất diệt của mình, và hai tiếng đồng hồ sau, bài thơ “ Bầm ơi” em chưa kịp thuộc lòng câu kết, mẹ lại mở toang cửa sổ: quá khứ đã được thanh toán đàng hoàng bằng nước mắt ba màu. Thế thôi, chứ mẹ không rùng mình. Núi kỷ niệm còn đó. Mẹ chẳng sống với nó, nên em thành người cai quản. Trong căn buồng ga-tàu treo của hai mẹ con, em là người kiểm vé.
Diễn biến các mối tình của mẹ, tổng kết một cách khoa học, luôn
giống nhau: bao nhiêu sung sướng, bấy nhiêu đau đớn, cho cho nhận nhận, cao trào,
thoái trào, cộng trừ xong tóm lại là bằng không, trừ trường hợp người đàn ông
mới toanh của mẹ, và của em, và dĩ nhiên trừ những khoảng thư giãn dễ chịu.
Nhưng mẹ, người không hề rùng mình trước triển lãm ký ức mà em có
thể tổ chức tế nhị ngoài cửa sổ, trên mái nhà tầng dưới, lại rùng
mình trước lý lẽ mổ xẻ và khái quát của em. Những nẻo đường của tình cảm, con
gái ơi, bất ngờ phấp phỏng lắm. Đừng soi mói chúng. Chúng biến hoá vô cùng. Hãy
để chúng tự dắt con đi, đừng cố gắng kiểm soát, đừng dùng lý trí làm vũ lực
cưỡng lại. Mẹ nói thế, vì mẹ mang trái tim thiếu nữ mù lòa của em. Với em thì
đã muộn. Em, vì còn ai nữa đâu trong căn buồng thời chiến, nhận trái tim thiếu
phụ mệt mỏi và cạn kiệt cảm xúc của mẹ.
Vậy là, đầu tiên mẹ tò mò, khởi điểm của sung sướng. Ông số 7
chẳng hạn gây ấn tượng đáng kể bởi những ngón tay dài màu vàng nâu luôn lơ
đãng. Ông ta là một người đàn ông trung niên có đủ thứ mặc cảm. Thông thường,
ông ta trốn khỏi mớ mặc cảm đó, bằng cách theo đuổi những ý nghĩ xa xăm. Người
trước đó, em nhớ, có bàn tay ngắn mập mạp, hiếu động, hiện thân của sự vui vẻ.
Hắn no đủ và hơi quá vui tính, em nhớ, mẹ đã phàn nàn như vậy. Ông số 7 lơ đãng
và phiền muộn. Mẹ đã ngồi ngây ra khi ông ta đốt thuốc lá như thắp hương. Điếu
thuốc cứ tự cháy tàn trong lòng chiếc đĩa con đựng chén trà hầu như không được
đụng tới, hết điếu này đến điếu khác, những điếu thuốc đắt tiền của
mẹ trong khi ông ta lơ đãng hướng nội. Nếu có hút vào, ông ta sẽ ho sặc sụa.
Nhưng cứ châm thuốc, để đó, hướng nội cái đã. Ông hướng nội, ông hướng ngoại,
mẹ chạy vòng quanh, cũng là một thế giới lạc quan.
Ông số 7 là một trong những tai họa lớn nhất của mẹ. Sau ông ta
rất lâu, thỉnh thoảng mẹ vẫn đỏ mặt khi bị em bắt quả tang đang đăm đăm nhìn
điếu thuốc mẹ tự tay đốt trong lòng đĩa, với lời cầu nguyện bí ẩn trên môi. Một
tôn giáo mới ra đời. Em đưa cho mẹ một trong chín cái gạt tàn chính quy nằm rải
rác khắp nơi, để bất cứ ở toạ độ nào cũng tiện tầm tay với. Rồi em xoay lưng
lại, cho mẹ áp hết cả tất cả các đốt xương sống lạc quan của mẹ lên em, tựa
vững chắc vào em, vì còn ai nữa đâu trong căn buồng thời chiến. Mẹ quả là phi
thường. Mẹ luôn biết cách biến các tai hoạ thành điều may mắn. Sau ông số 7, mẹ
đã may mắn rút ra kinh nghiệm là nên tò mò về những điều thiết thực hơn. Thế là
mẹ gặp một ông luôn đứng ra tổ chứcrất thành công các hội thảo và hội nghị khoa
học cho người khác phờ phạc ngồi nghe, còn ông ta, thấu hiểu rằng sự thật nằm
trong các cốc bia của những chiến hữu thân thiết, nên chỉ xuất hiện để khai mạc
và tổng kết. Sau đó, mẹ quan tâm tới một ông bác sĩ phẫu thuật thẩm mĩ đang
chiêu khách cho phòng khám tư nhân. Ông này hùng hồn nêu cao nhu
cầu đặt lại, chẳng hạn một ngón chân cho ngay ngắn, dù con người ta phần nhiều
xuất hiện dưới mắt nhau trong giày và bít tất.
Khi ông ta về, mẹ lập tức ra mắt trong bộ đồ tắm hai mảnh mà mỗi
mùa nghỉ mát mẹ đều thầm nghĩ nó đã hết mốt. Em cùng chiếc đèn bàn Liên Xô cổ
ngỏng gật gù đi vòng quanh mẹ nhiều lần. Phải khách quan, con gái ạ, đừng mẹ
hát con khen hay, như thế không tiến bộ được, mẹ yêu cầu khe khắt. Không, mẹ
ơi, cơ thể ba mươi sáu tuổi của mẹ thật tuyệt vời, ông bác sĩ miệng cá ngão đó
đừng hòng hy vọng, em quả quyết thế. Ông ta hãy về mà cắt dán mông má và xếp
lại các ngón chân cho chính vợ ông ta í. Bà í rất cần. Mẹ cám ơn em. Em cùng
chiếc đèn cổ ngỏng trở về xem xét lần cuối những chỗ lõm lồi trên bản đồ Việt
Nam cho cuộc biểu diễn vẽ theo trí nhớ trong giờ địa lý sáng hôm sau. Câu
chuyện bên kia bức bình phong của ông bác sĩ khiến em không thể vượt qua đoạn
sần sùi ở bờ biển vĩ độ mười hai / mười ba. Sau lưng em, mẹ đang hỏi ý kiến tấm
gương Pháp, tài sản duy nhất mẹ yêu cầu và được quyền sử dụng sau ly hôn. “Chính
con mới là tài sản duy nhất của mẹ, con gái ạ”, mẹ thường nói thế, nhưng
lòng tin cậy gửi gắm của mẹ tiếp tục chao đảo giữa em và tấm gương. Ánh mắt mẹ
sáng ngời khi chạy trên đường viền khuôn mặt thanh tú và đường cong hoàn hảo
của bờ vai, bộ ngực, nhưng tối dần, tần ngần dừng lại và cũng không vượt qua
nổi khu vực tương tự như trên tấm bản đồ của em. Sáng hôm sau, bài kiểm tra địa
lý của em là nguyên vẹn mẹ, trong bộ đồ tắm hai mảnh đầy lo âu hình chữ S . Em
đã vẽ đoạn phình ra, sần sùi ở vĩ độ mười hai / mười ba thật đàng hoàng, thật
âu yếm, để mẹ không cần mặc cảm gì hết, để mẹ đừng tin những tấm gương, dù là
gương phẩm chất đã được thử thách của thời xa xưa để lại. Chính vì em, và cho
em, chỗ ấy mới sần sùi thế. Nên với em, nó tuyệt đẹp, nó cảm động hơn tất cả
những cái bóng mĩ miều của các hoa hậu. Hơn nữa, khi người ta mang một trái tim
thiếu nữ luôn đập loạn xạ thì cái túi thịt bên ngoài nào có ý nghĩa gì. Và nhìn
chung, tại sao phải bận rộn đến thế vì riêng cái tấm thân? Tại sao phải quan
tâm nhiều đến nó thế, dành cho nó lắm phát minh thế, phụ thuộc cuộc đời vào nó
thế?
Mẹ suốt đời mang trái tim thiếu nữ của em.
Ngay chiều hôm đó có cuộc gặp mặt trực tiếp giữa nhà trường và phụ
huynh. Phía bên kia bức bình phong phấp phới. “Bây giờ, tôi thật không còn
ngạc nhiên về điều gì nữa”, thầy giáo dạy địa
lý vò nát bức chân dung mẹ, phác họa bởi thiên tài của em, với dòng ghi chú “Mẹ
Việt Nam”, rồi lại vội vàng mở ra, vuốt phẳng, nhét vào cặp, để còn trình
Ban giám hiệu, và ba chân bốn cẳng chạy thục mạng khỏi căn buồng-ga tàu treo.
Thỉnh thoảng cũng có một hành khách nhầm ga như thế. Chẳng qua, thầy chỉ là một
người đàn ông nhỏ thó, luôn luôn kinh hoàng trước sự lễ phép giễu cợt của đám
học trò phổng phao. Rồi sự thân ái của đồng nghiệp cũng giễu cợt. Tôn ti trật
tự trong gia đình cũng giễu cợt nốt... Mẹ áp lên má em một giọt nước mắt và
không bao giờ nhắc tới ông bác sĩ nữa. Mỗi lần mẹ khóc, bộ ngực mẹ như muốn bật
tung ra, rơi vào tay bất cứ ai đang ở gần. Bên kia bức bình phong, đã bao nhiêu
ông khách phải làm phúc giữ hộ mẹ bộ ngực không chịu ở yên một chỗ ấy. Em đã
nói, trong căn buồng này, chẳng có gì cố định.
Sau tò mò, mẹ chuyển sang khâm phục, hoặc xúc động, hoặc cả hai
thứ một lúc Mẹ đã khâm phục đủ thứ. Một ông luôn nói những lời mơ hồ mà mẹ
chẳng hiểu gì hết, nhưng mê mệt linh cảm đằng sau đó những điều thiêng liêng to
tát. Một ông đi đâu cũng được mời mọc hỏi han, khiến mẹ vô cùng hãnh diện. Rồi
những ông luôn đúng hẹn, ôi con người mới đáng tin đáng quý làm sao, những ông
nhạy cảm lạ lùng, những ông nho nhã, những ông khéo tay, những ông cương cường
dũng mãnh, những ông rất đỗi dịu dàng, những ông mực thước thâm thuý, những ông
phóng khoáng bao dung, những ông uyên bác thông minh, những ông vô cùng bí
hiểm, những ông mộng mơ, những ông quần áo chả có gì mà trông lúc nào cũng
thích mắt, những ông giản dị khiêm nhường, những ông cực kỳ lịch duyệt, những
ông trẻ thơ, những ông là đá hoa cương, những ông là người thuyền trưởng, những
ông giàu óc thực tiễn, những ông yêu súc vật, những ông luôn biết điều, những
ông chói lọi tài năng, những ông quên mình cho lý tưởng, những ông chẳng làm ai
buồn, những ông không hắt xì hơi trước mặt phụ nữ và trẻ em, những ông là cả
một thế giới độc lập ngang tàng, những ông vui vẻ xách làn cho vợ... Các
ông ấy, ông nào cũng hơn hẳn những ông còn lại, hơn hẳn và hơn tất cả, ông nào
cũng “ Tôi thế này”, “ Phải tay tôi thì”, “Tôi
nghĩ”, “Tôi m uốn”, ông nào cũng trình bày mình như một cơ hội lớn trong
cuộc đời đến là nẫu ruột này, như thế, hỏi làm sao mẹ nhẹ dạ của em không run
lên. Và khi mẹ em đã thán phục, thì xin tạo hoá đừng tự ái, đừng khuyên nhủ,
đấy bao giờ cũng là người đàn ông duy nhất và cuối cùng trên mặt đất. Mẹ mở
lòng ra, khâm phục thậm chí những ông “ chẳng có gì đặc biệt, nhưng con
gái ạ, đấy mới là điều dễ chịu nhất. Rồi sẽ đến lúc con
biết đánh giá đúng mức sự dễ chịu”. Em
không còn cơ hội để đánh giá điều gì nữa. Em đã sống trước tương lai đàn bà của
em trong mẹ, đã gửi cả vào mẹ trái tim mười sáu tuổi cường tráng của em, và
nhận chân canh giữ ký ức quá tải ái tình của mẹ. Ở nước ngoài, em có thể là một
bồi phòng tốt, được trả lương cao, em có thể là một bồi phòng câm. Vâng, em
mười sáu, em định nghĩa tốt chứng lãnh cảm.
Mẹ, đã thành chu kỳ, cứ sau dăm ba cuộc thăng trầm lại lớn tiếng
ca ngợi sự dễ chịu thuần túy. Đó là những khoảng thư giãn tất yếu của mẹ. Mẹ
thư giãn ngay trong tình yêu, và tình yêu trong cuộc đời mẹ không ngày nào được
nghỉ. Thỉnh thoảng, mẹ nghỉ ngơi trên mặt hồ, trong một nhà hàng ấm cúng mới
phát hiện, hay trong một buồng khách sạn ven đô, với slip mặc lần đầu, đồ hộp,
và một người đàn ông không thuộc về mẹ, không thuộc về mẹ một khoảng khắc nào,
cũng như mẹ tuyệt đối không thuộc về ông ta. Ông ta là cả một khối dễ chịu đồ
sộ, với bàn tay nóng ấm mơn man lịch sự, không cuống cuồng, không thúc bách,
bàn tay biết nghe lời và biết yêu thương đặc biệt những khu vực giàu mặc cảm
của mẹ, vĩ độ mười hai / mười ba, để mẹ nhắm mắt, quên đi cái quá khứ nông nổi
lỗi lầm, quên đi đứa con gái vị thành niên mắc chứng lãnh cảm, quên đi, hay
đừng sống trước những gì chờ đợi, vì em ơi, những nẻo đường của định mệnh làm
sao kiểm soát nổi. Em ngốc lắm, em ngu nữa, ông ta bảo mẹ thế, hãy để yên, anh
thấy dễ chịu. Mẹ và ông ta, họ không tương tư nhau. Họ biết ơn nhau. Thế, đối
với cuộc đời bị thoá mạ thường trực của mẹ, đã là quá nhiều an ủi.
Khả năng xúc động của mẹ lại còn khổng lồ hơn khả năng khâm phục.
Mẹ cứ rối rít lên như cần ăngten, bắt đủ thứ sóng ngắn dài. Những làn sóng lượn
qua nhau, đè lên nhau, nổ lục bục trong lòng em. Lòng em là cái loa hỏng từ
lâu. Ông số 7, chẳng hạn, đã đánh gục mẹ bằng sự bất hạnh triền miên của ông
ta, một sự bất hạnh không cần đèo theo nội dung cụ thể nào, một sự bất hạnh có
tính nguyên tắc. Ông ta bất hạnh khi ngồi trước mặt mẹ, bên kia bức bình phong,
cả hai cùng im lặng thật hồi hộp và sâu sắc, để tránh cho thế giới học trò của
em nguy cơ ô nhiễm. Ông ta tiếp tục bất hạnh, khi em trang trọng kiếm cớ xuống
nhà đổ rác, nhân tiện mua ô mai. Và tất nhiên khi ông ta chào mẹ, để về thuê
thằng cơn trai chín tuổi đi học, cứ điểm mười năm trăm, điểm chín bốn trăm,
điểm tám ba trăm, từ bảy trở xuống không tính, khi ông ta chào mẹ ở chót vót
trên tầng năm, để về thực thi nền giáo dục và nghĩa phụ tử kiểu đồ, rồi gặp em
mọc rễ bên chiếc xô bẩn ở đâu đó bên dưới, miệng tê dại vì đắng vì chua không
mở ra chào ông ta được, thì nỗi bất hạnh của ông ta nhuộm toàn bộ không gian
xung quanh khu cầu thang một vầng hào quang đen ma ám. Sự bất hạnh là cái gì mà
quyến rũ thế, em hỏi. Mẹ giật cái xô rác trong tay em, ném choang xuống cầu
thang: “ Nói như thế là sỉ nhục người khác con không biết à?” Cái
xô trống rỗng thoạt đầu lao vun vút xuống, ba bậc một, ngập ngừng dừng ở khoảng
chiếu nghỉ chật hẹp hà tiện, rồi quả quyết tự chỉnh hướng, quay lại, khổ sở leo
từng bậc thang và nhẫn nhục đứng im trước mẹ, như thầm nói: “Thưa bà,
tôi không có sĩ diện.” Mẹ ngất. Sau này, ông số 7 cũng nói, đại ý, ông
ta không có sĩ diện. Ông ta là công dân của một đất nước ở vào thời buổi không
có gì đáng sĩ diện hết.
Mẹ vẫn mở lòng ra, xúc động trước tất cả: những ông khát vọng
không chịu già đều cùng tuổi tác, nhũng ông lạc lõng giữa các bầy nhóm và tập
đoàn, những ông chỉ sống để trả thù các thành công không xứng đáng của kẻ khác,
những ông cao dưới một mét sáu mươi, những ông dở dang mọi nhẽ, những ông phải
tiết kiệm hai trăm gửi xe, những ông lên gân cho cuộc giao du quý phái, những
ông không làm cách nào ly hôn được với vợ, những ông đâm đầu vào
bệnh lậu trong tinh thần ngơ ngác, những ông vất vả ngược xuôi thu phát những
tư tưởng độc đáo, những ông tuyệt vọng chống trả bi kịch bị lãng quên..., và ưu
tiên số một là những ông công dân bất hạnh. Hai khả năng của mẹ, khâm phục và
xúc động, là hai cánh tay khổng lồ vươn ra ôm trọn thế giới đàn ông, không cho
ông nào thoát. Thế, nên khách nhà em thường bắt tay nhau sững sờ. Ông thành đạt
chìa tay cho ông chưa thành đạt và ông không bao giờ thành đạt. Họ khinh trọng
nhau ở đâu, chứ ở nhà em, tất cả đều bình đẳng trong vòng ôm khổng lồ, trong
gọng kìm của mẹ. Giấc mơ đại đồng của nhân loại được thực hiện phân
nửa bởi một phụ nữ nhẹ dạ lầm lỗi như thế.
Cũng không ông nào thoát cơn say đắm của mẹ. Mẹ luôn phải say đắm
một người đàn ông nào đó. Mỗi lần mẹ say đắm, em còn lại một mình, hai đầu gối
kẹp chặt trái tim. Nhiều lần như vậy, nó đông cứng lại trong một hình số 8 vẹo
vọ. “ Mẹ sẽ mua một con chó Nhật, nhé, xinh lắm”, mẹ nói thế vào
một sáng sớm, khi mẹ rón rén trở về và bắt gặp em ngủ ngồi đằng sau cánh cửa
trông ra cầu thang. Mẹ rón rén trở về, guốc cầm trên tay, con hươu ba mươi sáu
tuổi, cười bối rối bằng màu môi thật, trông cảm động hơn tất cả những cặp môi
rực rỡ của các hoa hậu. Đó là ngoài môi, còn sâu trong cổ họng là những âm thanh
bị nén lại theo phép ứng xử cũng một kiểu phụ từ. Đáng lẽ chúng phải được tự do
xô tung ra, kêu lên, gào lên, rằng mẹ đang hạnh phúc. Nhân loại đại đồng và
hạnh phúc. Mẹ rất dễ hạnh phúc. Mẹ có thể tự nguyện hạnh phúc trong phạm vi
đường kính một mét tư, quây tròn bởi những mảnh bạt và ni lông chắp nối trong
khu vườn nhỏ lạo xạo sỏi và tiếng thì thầm rên rỉ của hầu hết các quán càphê.
Chủ quán ắt phải là một người đàn bà còn giữ nguyên vẻ lam lũ đức hạnh của một
đời làm cán bộ nhà nước. Bà ta sẽ sốt sắng, gần như xum xoe tuồn các đĩa hướng
dương, thuốc lá điếu lẻ và kẹo cao su vào từng lô ái tình bập bùng kín mít,
trong đó có mẹ. Mẹ cũng sẵn sàng hạnh phúc, khi người đàn ông đi cạnh chỉ đi
cạnh, chứ không dắt tay mẹ dung dăng để mẹ được tỏ cho phố phường náo nhiệt vô
danh biết, mẹ là người đàn bà được che chở. Mẹ hạnh phúc bất chấp cả ba nhà
hàng xóm, thỉnh thoảng nghe tiếng chân ngoài cầu thang lại hé cửa, cho một ví
dụ về đạo đức. Em thề, hỡi các người, từ nay ta không sang xin muối nữa. Thậm
chí câu hỏi bâng quơ nhiều lần của viên cảnh sát khu vực: “Thực ra, chị
làm nghề gì nhỉ?” cũng không thể ngăn cản mẹ hạnh phúc. Mẹ có hai bằng
đại học, bốn ngoại ngữ, ngoài ra còn làm thơ. Mẹ là trí thức hạng nặng.
Con chó Nhật không kịp đến, ông số 7 đã ra đi. Ông ta không có
điều kiện hành động giống cái xô rác hôm nào, vì các cuộc chia tay của mẹ bao
giờ cũng mang tinh thần chiến tranh: người ta phải dũng cảm và quyết liệt bằng
mọi giá. Rồi mẹ sẽ có một tay say đắm số 8, hy vọng rằng không vẹo vọ như số 8
của em, tất nhiên. Nếu cần, mẹ sẽ rút ngắn các giai đoạn tiền say đắm, để nhanh
chóng đạt tới cao trào sung sướng hơn. Đó thuần túy là vấn đề kỹ thuật. Nhưng
kỷ nguyên sau ông số 7 bỗng mang một dấu hiệu nguy hiểm: mẹ cũng bắt đầu lơ
đãng hướng nội. Mỗi lần mẹ hướng nội, em lại còn trơ một mình nhưng không có
thời gian quan sát trái tim lập dị của em, vì còn bận canh chừng ấm điện, tàu
ngầm, máy sấy tóc, bếp đun, bàn là, vòi nước, những vật tế cho nội tâm của mẹ.
Bất cứ lúc nào, căn buồng ga-tàu treo mạo hiểm của hai mẹ con cũng có thể bùng
cháy, hay thê thảm đắm chìm.
Rồi một chiều, mẹ ra mắt em và tấm gương Pháp dưới dạng một cuộc
cách mạng: mái tóc từng làm cả khu cầu thang sặc mùi phân chó phải xao xuyến
bây giờ là một mớ xoăn tít, cụt lủn, màu móng tay móng chân thì nhức nhối với
màu môi màu mắt, và triệt để hơn cả là bộ quần áo lóng lánh nhùn nhũn, toàn bộ
giống như một con ngỗng đang hoang mang giữa một mốt trưởng giả và mốt híp-pi.
Thế là mẹ đã thành một phạm trù. Càng ngày càng nhiều những phạm trù tương tự xuất
hiện trên đường em đi học. Các mợ sực tỉnh cơn thèm sống. Các mợ khuỳnh. Các mợ
vứt vỏ kẹo cao su và cưỡi Hon da nát đường em đi học. Em và tấm gương Pháp lần
đầu tiên đưa mắt cho nhau: hãy im lặng, không nhất thiết phải tán đồng, nhưng
cuộc cách mạng này đáng tôn trọng vì tính chất tuyệt vọng của nó. Mẹ đang phồng
lên dữ dội, đang lấn chiếm không gian, đang quyết tâm khẳng định một điều gì đó
ghê gớm lắm. Như thế ông số 7 và nỗi bất hạnh công dân của ông ta chưa từng
chiếm một chỗ, rồi đuổi không ra nữa trong lòng mẹ. Như thế mẹ, trí thức hạng
nặng, yên tâm lắm trong cuộc yêu khổng lồ nhưng mãi mãi đơn độc và bị thoá mạ
thường trực của mình. Như thế em không nêu một tấm gương về sự lãnh đạm, ít
nhất cũng với một nửa nhân loại. Mẹ phồng lên trên sự suy nhược của em mà thôi.
Mẹ kéo về một ông nói liên tục, như sợ ngày mai đột tử không kịp
nói nữa. “Ê, này, cô bé”, ông ta thò đầu qua
bức bình phong nói với em, “uống một chút chứ! Đừng có làm bộ mặt
khó dễ như bà hiệu trưởng thế. Hừm, các người tưởng các người đang ở đâu
hả? Anh Cát Lợi chắc? Uống đi cháu, bác xin lỗi. Th ôi được.Thôi
được. Thôi được. Tôi phải đi khỏi đây chắc ? Các người mơ màng quá. Cuộc sống
của tôi nhiều ý nghĩa lắm đấy. Em này, cái công ty của anh đang quét vôi lại.
Ra phết. Này cô bé, cố vào lớp chuyên tin đi, chú bảo đảm việc làm. Nhưng dù
sao thịt quay ở chợ này cũng khá. Anh đã tưởng phải đi xa hơn. Thịt quay là vấn
đề không đơn giản. Em này...” Ông ta ngoáy liên tục vào bát nước chấm,
ra nhà vệ sinh vài ba lần và dội nước ồ ồ, chắc cũng sợ ngày mai không kịp. Bên
kia bức bình phong, ông ta lột tất ở chân mình, tuyên bố rằng trên đời đáng
ghét nhất là sự ỡm ờ. Với ông ta, mọi chuyện đều phải rõ ràng, ngay tức khắc.
Mẹ may mắn đi đôi tất chỉ lên tới đầu gối. Mẹ thoả hiệp một chân, chân kia vẫn
thủ tiết. Tiếng mẹ khe khẽ đề nghị tới một quán cà phê nào đó. Ông ta gạt
đi: “Vẽ chuyện, con bé nhà em vô cảm.” Mẹ đứng phắt dậy, mái
đầu xoăn tít ném một đống dấu chấm hỏi rực lửa lên trần nhà. Bên trên là một
bầu trời bình thường. Ông ta chờ đợi hồi lâu. Khi không thấy lời đáp nào từ
trên ấy, ông ta cũng đứng phắt dậy: “Các người tưởng các người ở đâu hả? Anh
Cát Lợi chắc?” Vì sao ông ta chỉ hâm mộ mỗi nước Anh? Em bước
ra nói: “Mẹ, con đi tìm ông số 7.” Trời, ai dạy con gái đánh số, mẹ
ôm mặt lảo đảo.
Rồi lần đầu tiên trong căn buồng-ga tàu treo của hai mẹ con xuất
hiện khách đàn bà. Họ gồm ba người, đến vào các chiều thứ năm như trong thế
giới quý tộc. Đúng năm giờ, ngày đang bước vào thời điểm đực cái bắt đầu quấn
lấy nhau, thời điểm ông số 7 nghẹn ngào đi thu tiền điện, những cơn đau nho nhỏ
cứ dấy lên trong ông ta khi ngửi mùi dưa xào chảo lớn, đúng giờ ấy họ tập trung
ở nhà em, mít tinh ca ngợi tự do. Họ thi nhau thơm nức. Họ mở bia và nước ngọt
lốp bốp. Một lát sau họ sẽ lần lượt khỏa thân. Toàn những con ngựa không có
người cưỡi, xác thịt chảy buồn bã như suối. Một mợ vượt quá mọi kích thước, trừ
đôi cẳng chân bắt đầu teo lại. Một mợ đẹp như tạc, đẹp phi lý và lạnh buốt. Một
mợ lép kẹp, má lại phính. Cái xê-ri này cũng đáng tôn trọng vì nhu cầu phản
kháng của nó. Nhưng em đã già nua, kiệt quệ vì ký ức quá tải ái tình của mẹ.
Thêm những xác thịt gào thét của các mợ, em ắt phải gục xuống. Mợ to béo với
cẳng chân teo đến véo vào đùi em. Các mợ khác vừa cười hi hí khinh khích vừa sờ
nắn khắp người em: “Xem này, không khéo con bé xơ cứng mất.” Họ,
hội từ thiện không tự bố thí nổi cho mình. Có người nào trong số các mợ ấy
không từng bị một ông tàn nhẫn bảo rằng các mợ có phồng lên như chiếc chăn bông
cũ bật lại cũng hết sức vô ích? Cả mẹ nữa, có bao giờ mẹ giật mình bắt gặp mắt
những người đàn ông của mẹ trộm nhìn em?
Những người bạn gái phóng túng của mẹ gửi cho em mười tám mùa
xuân, bằng đúng nửa số năm tháng sung sướng và đau đớn của mẹ. Anh chàng mười
tám tuổi đứng giữa mẹ và em, người đàn ông mới toanh hiện nay của mẹ và của em.
Sự lạnh lẽo của em đẩy anh ta sang phía mẹ. Nỗi hoảng sợ của mẹ lại trả anh ta
về em. Thời chiến hết rồi. Bây giờ người ta thanh toán các hậu quả. Chẳng còn
cách nào khác mẹ phải chữa bệnh cho con gái mẹ. Liều thuốc là mối tình xót xa
bất đắc dĩ này.
12. 1990
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét