Chủ Nhật, 16 tháng 5, 2021

HOÀ THƯỢNG VIÊN KHÔNG VÀ MƯỜI VẠN TƯỢNG PHẬT

 

Nhóm tượng của Viên Không ở Quan âm tự (Kannon-ji)

HOÀ THƯỢNG VIÊN KHÔNG VÀ MƯỜI VẠN TƯỢNG PHẬT

Hà Vũ Trọng

Nguồn

Nghệ thuật điêu khắc của hoà thượng Viên Không (Enku 円空) đã không được biết tới suốt từ thế kỉ 17 cho đến khi được tái phát hiện vào thập niên 1950. Ngày nay, nhà tu khổ hạnh của phái Chân ngôn tông này được công nhận là nhà điêu khắc quan trọng nhất trong lịch sử nghệ thuật Nhật Bản. Tuy đã qua ba trăm năm, tác phẩm của Viên Không được các nhà phê bình sánh với nghệ thuật Biểu hiện của phương Tây hiện đại. Bề mặt của hình tượng thường để gần như dang dở, nhờ vậy bảo toàn được phẩm chất nguyên thuỷ của chất liệu; với bố cục trừu tượng, hình thể vừa giản phác vừa độc đáo vượt ra khỏi nghệ thuật đồ tượng truyền thống đã khiến cho tác phẩm của Viên Không mang phong cách cực “hiện đại”. Điểm nổi bật nhất trong tác phẩm của Viên Không là tính phi thời gian.

Đây là một hiện tượng phi thường và đặc sắc khiến cho Viên Không đứng một mình một cõi trong thế giới điêu khắc. Theo một truyền thuyết kể, lần đầu tiên lên núi Fuji, Viên Không đã bái lạy trước một ngôi đền và nguyện sẽ tác tạo 120,000 pho tượng chư thần và chư Phật trước khi ông chết. Chuyện kể tiếp, vào lúc đó ngôi đền bằt đầu khua động, một vị thần xuất hiện với một cây rìu trao cho Viên Không. Cuốn Cận thế kì nhân truyện viết “Viên Không chỉ có mỗi một cây rìu, và luôn luôn dùng nó để tạc tượng Phật”. Tài liệu này có bức minh hoạ cho thấy Viên Không đứng trên thang có bác nông dân đang vịn và ông đang dùng rìu tạc một gương mặt trên thân cây. 

 

 

Tác phẩm của Viên Không nằm rải rác từ miền trung đến miền bắc nước Nhật. Nhiều tượng được trân tàng hàng trăm năm trong những những ngôi chùa Phật giáo hay đền Thần đạo ở những làng miền núi. Do vậy, càng ngày người ta càng phát hiện thêm nhiều tác phẩm của ông ở tận những nơi xa xôi hẻo lánh. Ngoài ra, khoảng 1.500 bài thơ của Viên Không cũng được phát hiện, những bài thơ được viết ra như những kí lục trên hành trình vô định của vị kì tăng này.

Hôm qua, hôm nay,

tuyết rơi trên đỉnh Kozasa –

như sự mạc khải

của chư thần cuối năm.

*

Tôi đi hết một năm

qua con suối nhỏ nơi tầng trời

trên đỉnh Omine.

Mùa xuân tôi trở lại,

thấy anh đào nở.

Tác phầm điêu khắc của Viên Không có một uy lực khó tả và phong cách độc đáo hoàn toàn khác với nghệ thuật Phật giáo Nhật trong thế kỉ 17. Để hiểu và thưởng ngoạn cho đúng nghệ thuật của Viên Không, người ta không thể tách rời nghệ thuật và cuộc đời tâm linh của ông.

Năm 1971, hội Nghiên cứu Nghệ thuật Viên Không được sáng lập cùng với chuyên san Viên Không nghiên cứu. Đây cũng là hội hàn lâm duy nhất được thành lập để nghiên cứu chỉ riêng một nhân vật Nhật Bản.

 

Bồ Tát

 *

Viên Không sinh năm 1632 ở tỉnh Mino, thuộc miền Trung Nhật Bản, tiểu sử chép rằng ông là cháu của một người đàn ông tên là Yozaemon Kato, và rất có thể là con của một nông dân vô danh sống ở làng Naka, quận Nakashima, phía tây bắc tỉnh Nagoya. Trong một ngôi chùa nhỏ ở đó, hiện còn mười bảy tác phẩm của Viên Không từng được cúng dường và trân tàng, mà theo truyền thuyết thì chính nơi đây là sinh quán của ông.

Trong thời Edo (Giang hộ), thời điểm của chế độ mạc phủ Iemitsu Tokugawa, tất cả 66 tỉnh nằm dưới quyền kiểm soát trực tiếp với 300 lãnh chúa được vị Shogun (Tướng quân) chỉ định, quốc gia nằm trong gọng kềm một chính quyền hà khắc và phong kiến. Do sự phát triển chính sách bế quan toả cảng, gồm cả sự cấm đạo Thiên Chúa giáo, khoảng năm 1639, hậu quả là cả nước Nhật trở nên đóng cửa với thế giới bên ngoài. Trong thời kì dài hoà bình này, rất ít có sự tiếp nhận ảnh hưởng từ những nền văn hoá khác, nhưng một phong cách sống độc đáo và cảm quan thẩm mĩ riêng đã được phát triển. Vào thế kỉ 17, đa số các tông phái Phật giáo đã trở nên định chế hoá, còn các tăng sĩ thì thiếu nhiệt tâm không như thời của các tiền bối vĩ đại, họ bắt đầu bỏ quên việc tu tập. Nền điêu khắc Phật giáo đã đánh mất sức mạnh mà phần lớn chỉ phản ánh sự mô phỏng, khuôn sáo những phong cách trước đó.

Viên Không từ nhỏ đã làm chú tiểu ở ngôi chùa gần nhà thuộc phái Tịnh độ. Có lẽ ngay những năm đầu tu hành ông đã mang pháp danh là Viên Không. Sau đó ông rời ngôi chùa này để vào núi bắt đầu một lối tu khổ hạnh gọi là Shugendo (Tu nghiệm đạo) – một phái hướng đến giác ngộ và chứng đắc qua kinh nghiệm liên đới giữa con người và thiên nhiên. Đây là một tông phái Phật giáo độc đáo của Nhật. Nguyên thuỷ, phái này kết hợp những phương diện thực hành của cả tín ngưỡng Đạo giáo, đặc biệt phối hợp một số những nghi lễ huyền thuật và việc thờ phụng các vị sơn thần bản địa của Thần đạo. Những yếu tố này sau đó được hệ thống hoá qua những lí thuyết của Phật giáo mật tông. Các hoạt động của những người theo Shugendo đã chính thức cai quản các tự viện Thiên thai tông (Tendai) và Chân ngôn tông (Shingon) thuộc mật giáo.

Viên Không bắt đầu tạc tượng vào khoảng năm 1663, lúc 32 tuổi, ở quận Gujo, tỉnh Mino. Những tác phẩm sớm nhất có kích thước nhỏ cỡ bằng bàn tay, hình thể đơn sơ. Cũng như các hình tượng khắc gỗ thấy ở các ngôi đền Thần đạo địa phương, các thần linh của Thần đạo được tạc từ các khúc gỗ, hình dáng tứ chi, nếp nhăn y phục, gương mặt biểu lộ chỉ được khắc gợi ý, ít chi tiết. Các pho tượng này vẫn giữ nguyên trạng thái của chất liệu gỗ tự nhiên, ngoại trừ đôi mắt là được nhấn mạnh bằng mực đen.

Tạ ơn!

dù trong một mẩu gỗ

Phật cũng chuyển bước

đạo Pháp lên tiếng

nước sơn khê chảy...

*

Kể từ hôm nay

nguyện Thần phơi mở hình hài

trên chiếc bệ này

tâm thanh khiết

vạn đời.

Một thời gian sau, Viên Không bắt đầu làm việc với những hình thể phức tạp hơn khi mô tả Phật A Di Đà và Quan Âm, Bồ Tát. Những pho tượng này tay chân được khắc rõ nét hơn và đứng trên các bệ gỗ cũng được khắc chạm. Năm 1666, Viên Không đi đến những vùng đảo phía bắc (ngày nay là Hokkaido), những vùng núi phần lớn còn hoang vu chưa khai khá. Trong thời gian ở đây, ông đã khắc nhiều tượng. Một số đã được nhận dạng bởi các lời đề tự ở sau lưng những pho tượng thần bảo hộ vùng núi, những vùng mà Viên Không không thể nào đến được. Ông đã để những pho tượng này lại trong những ngôi đền nhỏ hoặc hang động, và mong rằng người ta sau đó sẽ đem chúng đi đến những nơi mà họ cần. Các pho tượng này theo phong cách và môtíp cổ truyền, phản ánh một trình độ kĩ thuật thuần thục cho phép xử lí tác phẩm có kích thước lớn hơn, một số có kích thước gần bằng người thật. Từ thời gian trở về lại trung bộ khoảng năm 1669, Viên Không bắt đầu làm việc với một phong cách độc đáo, đánh dấu sự chuyển tiếp giữa thời kì đầu và thời kì chín muồi. Tiêu biểu cho giai đoạn này là nhóm tượng Thập Nhị Thần Tướng điêu khắc cho một ngôi chùa ở làng Ueno, tỉnh Owari. Bề mặt của những khối gỗ đẽo bằng những nhát rìu giữ nguyên nét gồ ghề và phẳng phiu, ngoại trừ ở những chỗ cần miêu tả những đường nét như khí giới của các vị Tướng và điêu khắc hoa văn mây cuộn tròn. Qua những pho tượng này, Viên Không đã đạt được sự tự do, thoát khỏi những hạn chế của nghệ thuật đồ tượng và kĩ xảo truyền thống. Chúng cũng phơi mở cá tính sáng tạo đã sớm khai triển của nhà điêu khắc này.

 

Thập nhị thần tướng 

Viên Không trải qua tuổi tứ tuần ở tỉnh Yamayo, tại đây ông nghiên cứu triết học Phật giáo ở Pháp Long tự (Horyu-ji), một ngôi chùa quan trọng gần cố đô Nara. Sau đó ông lên núi Omine, một trung tâm tu tập Shugendo do phái Thiên Thai cai quản. Thời gian này, có lẽ ông đã trở thành tăng sĩ của Thiên Thai tông. Năm 1674, Viên Không đến tỉnh Shima và làm việc với một số tu sĩ Thiền tông, giúp họ tu phục lại các bộ Đại bát nhã kinh. Trên một số các trang mở đầu kinh, ông đã vẽ nhiều bức tranh các chư thần và hộ pháp bằng những nét bút lưu loát, các hình tượng về sau càng được tỉnh lược với vài nét vẽ nhanh. Những nét cọ súc tích và trực tiếp đã sớm thể hiện trong điêu khắc của Viên Không.

Khoảng 1675, Enku đến viếng một ngôi chùa của Thiên thai tông ở làng Araki, tỉnh Owari, và đã ở lại đây nhiều tháng trời để hoàn thành hàng ngàn pho tượng phản ánh đỉnh cao thành tựu điêu khắc của ông. Ngôi chùa này còn để lại sách ghi chép rằng, khi viện trưởng Enjo biết rằng Viên Không là một thợ giỏi thệ nguyện khắc một số lượng lớn tượng Phật, ông đã đem cho Enku một khối trắc bá thật to và xin khắc tượng hai Nhân Vương canh gác cổng chùa. Chỉ dùng một cái rìu, Viên Không đã sớm hoàn tất, còn những mảnh gỗ thừa, ông tiếp tục tạc hàng ngàn những tượng lớn, nhỏ các vị thần Phật giáo và Thần đạo. Các hình tượng nhỏ được khắc trên những mẩu và mảnh gỗ vụn được gọi là “mộc đoan phật” (koppa-butsu) hay “phật gỗ vụn”. 

 

Nhân Vương 

 Từ loại gỗ ván mỏng, với những nét tối thiểu và không do dự khi mô tả những nét thiết yếu, Viên Không khắc hình tượng ba mươi hai hình tướng Quan Âm. Từ những cây gỗ sần sùi, có mấu, thậm chí những khúc gỗ méo mó bị tiều phu đào thải, Viên Không đã tạo nên hình tượng những vị thần thiêng liêng. Và trong một cái hộp nhỏ ông đã niêm phong bộ tượng Một ngàn Bồ Tát với bài thơ:

Khúc củi giạt trôi

nhặt lên

giờ là chư thần hộ mệnh

cho trẻ em.

Hầu hết hình tượng “phật tí hon” này cỡ bằng ngón tay. Bởi đã được niêm phong trong hộp qua mấy trăm năm, màu gỗ tưởng như vẫn còn tươi nguyên và tự nhiên, như thể vừa mới được khắc hôm qua. Có một bộ tượng Ngàn Bồ Tát để ở Long Tuyền tự (Ryusen-ji) tại Owari, một nhóm tượng khác là Ngàn Địa Tạng (Jizo–vị Bồ Tát cứu độ sinh linh nơi địa ngục và trẻ con yểu tử, và cũng hộ trì cho những lữ khách phương xa) được đặt gần đó, nơi thị trấn Tsushima vẫn được bảo tồn nguyên vẹn.

Nguyện xin

ngàn hình tượng phật

giữ mãi từng mùa xuân,

làm gương soi vạn đời.

Vào tuổi tứ tuần, Viên Không đã khai triển kĩ năng và một phong cách súc tích, tỉnh lược, cho phép tạc hàng ngàn tượng trong một thời gian ngắn. Đến nay, đã phát hiện được hơn năm ngàn pho tượng, và có lẽ sẽ có thời điểm để tin rằng câu chuyện về 100 ngàn (hay 120 ngàn) tượng Phật của Viên Không không phải là truyền thuyết. 300 năm sau cái chết của Viên Không, tác phẩm điêu khắc của ông thực sự không được biết đến, trong những ngôi đền Thần đạo và các ngôi chùa hoang vắng, chúng bị phủ bụi, và mục nát với thời gian. Dù vậy, từ nay lịch sử nghệ thuật điêu khắc của Nhật Bản sẽ bị coi là không đầy đủ nếu thiếu sự luận bàn về tác phẩm của Viên Không và truyền thống sẽ làm bệ đỡ cho chúng.

Phong cách nghệ thuật của Viên Không có thể chia thành ba giai đoạn tiến triển: 1) Mười năm đầu, ông theo phong cách chung của điêu khắc thời Heian (Bình An). Giai đoạn 2) Rời bỏ những hình thức truyền thống để thử nghiệm những ý tưởng mới, gần như tất cả là những tưởng tượng mới lạ, một sồ gần như kì dị. Giai đoạn 3) cho thấy một khuynh hướng trừu tượng; những gương mặt và các bộ phận thân hình thường chỉ là gợi ý bằng những bề mặt để trống. Và khuynh hướng kéo dài hình tượng ra nương theo những đường cong tự nhiên của khúc gỗ (như trong bức Quan Âm 1689 tại Quan Âm đường (ở Núi Ibuki) hoặc gây ấn tượng mạnh hơn là Quan Âm Thập Nhất Diện tại Quan Âm đường (ở Koga), thời điểm này, nhiều pho tượng cho thấy hướng tới tính trang trí trong chi tiết, như bức Quan Âm Thiên Thủ ở Thanh Phong tự (Seiho-ji, quận hạt Gifu). Đây là thời kì kĩ năng cao độ, Viên Không đã vận dụng sự đa dạng của các phong cách để thí nghiệm, đồng thời cho thấy tay nghề bậc thầy khi dùng các công cụ. Chúng ta cũng không quên rằng, những hình tượng này được tạo ra cho người bình dân và thường được khởi hứng từ những gương mặt và cơ thể bình thường mà Viên Không đã nhìn thấy ngoài đời.

Năm 1690, tại ngôi làng Kankido ở tỉnh Hida, nơi đây Viên Không đã khắc và tàng chứa bộ ba pho tượng Phật. Mặt sau lưng bức tượng cuối cùng, Viên Không đề: “Mười ngàn vị Phật ở vùng này. Một trăm ngàn vị Phật đã được hoàn tất. Ngày 28, tháng chín, Nguyên Lục (Genroku) nguyên niên năm thứ ba”. Từ ghi chép này, ta biết được rằng cả đời Viên Không thệ nguyện khắc 100 ngàn pho tượng (không phải 120 ngàn theo truyền thuyết), và ông hoàn tất thệ nguyện lúc 52 tuổi. Công việc kéo dài 28 năm trời.

Nấm mộ của Viên Không nằm ở Di Lặc tự (Miroku-ji), trên mộ chí cho biết ông qua đời năm 1695, ngày 15 tháng 7, 1695, nhằm ngày lễ Vu Lan. Không có quan điểm nào nhất quán về cái chết của ông. Theo truyền thuyết địa phương, Viên Không đã yêu cầu đào một cái huyệt cạnh bờ sông Nagata. Xong xuôi, ông ngồi xuống huyệt, rồi người ta phủ đất dày lên tới mặt đất và có dẫn một ống tre từ huyệt lên để ông thở. Tiếng kinh cầu không ngừng, với tiếng chuông và chay tịnh, Viên Không giữ nguyên trạng thái đó cho đến khi viên tịch. Truyền thống tịch diệt chậm này phổ biến với các tu sĩ Phật giáo Mật tông vào thời đó trong lịch sử nước Nhật.

Đám cây sồi và anh đào cùng với những hàng dây leo tử đằng quấn quanh nơi Viên Không đã nhập cõi niết bàn. Người dân trong làng kinh sợ nói rằng những cây leo này sẽ chảy máu nếu có ai cắt lìa chúng.

Ở Nhật Bản, đã có sự quan tâm khôi phục nghệ thuật của Viên Không song song với việc phục hưng tất cả các nghệ thuật truyền thống thủ công ở Nhật. Triết gia Sôetsu Yanagi (1889-1961) đã cống hiến cả đời cho nhận thức về các ngành thủ công dân gian của Nhật. Dưới sự bảo trợ của ông, một phong trào nghệ thuật dân gian là mingei (dân nghệ) đã ra đời. Với nhận thức sâu rộng như vậy, không ngạc nhiên khi ta thấy tác phẩm điêu khắc của Viên Không được quan tâm rất mực. Ngay trong thời của mình, Viên Không đã đi trước thời đại. Giờ đây, thời của ông đã đến.

Mỗi ngày

tâm thanh khiết hơn

trăng trên trời

và thân này

tròn đầy.

 

Thiên thủ thập nhất diện Quan âm

 

 

Quan âm


 

Thiên diện Bồ tát

 

 

Bất động Minh vương

 

 

Phật tam tôn

 

 

Thần Hộ pháp

 

Địa tạng

 

Quan âm

 

 

Quan âm

 

 

Thánh đức Thái tử (Shotoku Taishi)

 

 

Thần điểu và Thần Hộ pháp

 

 

Mộc đoan Phật

--

Tài liệu tham khảo:

-Kazuaki Tanahashi, Enku–Sculptor of a Hundred Thousand Buddhas, Shambala 1982

-Kazuaki Tanahashi, Enku-butsu, Lộc Đảo xuất bản xã, 1973

-Grisha F. Dotzenko, Enku–Master Carver, Kodansha International Ltd. 1976

 

Nguồn: bài đã đăng trên tạp chí Văn hoá Phật giáo tháng 5. 2009

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét