Tôi phải đọc lúc tâm hồn tôi thanh thản vì truyện của bà diễn tiến chậm, ít khi có tình tiết éo le, không đổ máu bắn phá loạn xạ, không sex siếc rên rỉ oằn oại um sùm. Phải đọc hết truyện, nhận ra cấu trúc lắt léo, có dàn dựng chủ ý, có những đau đớn âu lo gói ghém suốt truyện, đôi khi mình nhận ra nhân vật đối diện với cái nguy hiểm có thể bị giết chết dù bà không nói thẳng ra. (Nguyễn thị Hải Hà)
Sỏi đá
Tác giả: Alice Munro
Nguyễn Đức Tùng dịch
Thuở ấy chúng tôi sống gần một hố sỏi. Đó không phải là loại lớn được đào bởi máy khổng lồ, chỉ là một cái hố nhỏ do một nông dân nào đó đào bán lấy tiền nhiều năm trước. Thực ra cũng khá cạn khiến bạn có thể nghĩ nó được dùng vào mục đích khác, như làm móng nhà, dù ngôi nhà ấy chưa bao giờ được xây lên.
Mẹ tôi vẫn luôn nhắc mọi người nhớ đến
nó. “Chúng tôi sống bên cạnh một cái hố sỏi cũ gần bên con đường dịch vụ”, bà bảo,
rồi cười, bởi vì bà rất hài lòng đã rũ bỏ mọi thứ liên quan đến ngôi nhà kia,
con đường nọ – người chồng – với cuộc đời của bà trước đây.
Tôi chẳng mấy khi nhớ đến cuộc đời ấy.
Đúng ra tôi nhớ rõ vài đoạn nhưng không mạch lạc nên bạn khó dựng nên một bức
tranh hoàn hảo. Tất cả những gì còn lại trong tâm trí tôi về ngôi nhà là giấy
dán tường với hình những chú gấu nhồi bông trong căn phòng cũ của tôi. Còn
trong nhà mới, thực ra là một cái nhà kéo di động [1].
Chị tôi, Caro, và tôi có một cái giường đôi, hai tầng chồng lên nhau, nhỏ hẹp.
Thoạt tiên khi mới dọn về, chị Caro trò chuyện thật nhiều với tôi về ngôi nhà
cũ, cố gắng làm cho tôi nhớ lại nó, cái này cái kia. Chị Caro nói chuyện khi
chúng tôi lên giường ngủ, câu chuyện kết thúc mỗi khi tôi chẳng thể nào nhớ lại,
khiến chị rất đỗi bực mình. Đôi khi tôi nghĩ là tôi nhớ, nhưng để phản đối hoặc
sợ nhớ sai tôi liền giả vờ quên tất.
Chúng tôi rời nhà tới cái nhà di động
kia vào một mùa hè. Mang theo con chó. Blitzee. “Con Blitzee thích sống ở đây,”
mẹ tôi nói thế, mà cũng đúng. Làm sao một con chó lại không cảm thấy thích được
sống ở một nơi thôn dã hơn là một đường phố, ngay cả với những sân cỏ lớn và những
ngôi nhà to bự? Nó sủa ăng ẳng khi thấy một chiếc xe chạy qua như thể nó làm chủ
con đường, thỉnh thoảng tha về nhà một con sóc hay một con nhím giết được. Mới
đầu Caro rất bực chuyện này, và Neal phải bỏ thời gian trò chuyện với chị ấy,
giải thích về bản tính tự nhiên của loài chó và về dây chuyền sự sống, ở đó tất
phải có một vật này ăn thịt một vật kia.
“Nhưng nó có thức ăn của chó rồi,”
Caro cãi, nhưng Neal trả lời. “Thế liệu nó không có thì sao? Nếu một ngày kia tất
cả chúng ta biến mất và con chó phải tự chăm lo lấy mình?”
“Con sẽ không biến mất đi đâu cả,”
Caro nói. “Con sẽ không biến mất, lúc nào con cũng săn sóc nó kia mà.”
“Con nghĩ vậy à?” Neal nói và mẹ tôi
liền xen vào để lái câu chuyện theo hướng khác. Neal lúc nào cũng sẵn sàng nói
chuyện về chủ đề những người Mỹ và bom nguyên tử, nhưng mẹ thì không nghĩ rằng
chúng tôi sẵn sàng cho mấy đề tài ấy. Bà không biết rằng khi chú đề cập tới
chuyện ấy tôi lại tưởng là chú đang nói về mấy ổ bánh mì nguyên tử nào đó. Tôi
biết là có một cái gì đó rất sai lầm trong diễn dịch của tôi, nhưng tôi không dại
gì mà đặt câu hỏi và bị người khác cười cho vào mũi.
Chú Neal là một kịch sĩ. Trong thị trấn
có một nhà hát mùa hè chuyên nghiệp, thứ rất mới vào thời ấy, khiến cho một số
người phấn khích và một số khác lấy làm lo lắng, sợ rằng nhà hát sẽ đem lại cho
cuộc sống ở thị trấn sự xáo trộn và những thứ lăng nhăng khác. Mẹ và cha tôi ở
trong số những người thích thú, nhưng mẹ tôi hoạt động tích cực hơn, vì bà có
nhiều thì giờ. Cha tôi là nhân viên bảo hiểm và do công việc ông phải đi lại
nhiều. Mẹ tôi trở nên bận rộn với những chương trình gây quỹ khác nhau cho nhà
hát và tình nguyện làm không công như người kiểm soát vé và hướng dẫn chỗ ngồi ở
trong rạp hát. Mẹ tôi xinh đẹp và khá trẻ khiến người ta nhầm bà với một nữ nghệ
sỹ. Bà bắt đầu mặc áo quần như một nghệ sĩ thật, với khăn voan, váy đầm dài, những
dây chuyền lủng lẳng ở cổ. Bà để tóc rũ ra có phần hoang dại và thôi không dùng
các thứ trang điểm cũ. Tất nhiên vào lúc đó tôi chẳng hiểu gì, thậm chí không để
ý đến những thay đổi ấy. Mẹ tôi là mẹ tôi. Nhưng chị Caro để ý. Và cha tôi cũng
vậy. Mặc dù thế, tôi biết tính cách của ông và cảm xúc mà ông dành cho vợ, tôi
nghĩ chắc ông cảm thấy tự hào vì vợ mình trông xinh đẹp với kiểu ăn mặc mới khiến
bà trở nên duyên dáng biết bao giữa người khác trong rạp hát. Sau này khi cha
tôi có dịp nhắc lại thời kỳ ấy ông vẫn nói rằng ông luôn ủng hộ các hoạt động
nghệ thuật. Tôi có thể hình dung mẹ tôi bối rối đến mức nào mỗi khi cha tôi
tuyên bố điều này trước những người bạn từ nhà hát, cảm thấy ngượng và cười để
che giấu ngượng ngập.
Thế rồi điều gì phải tới đã tới, ai
cũng thấy, trừ cha tôi. Tôi không biết liệu chuyện ấy có xảy ra với những người
thiện nguyện khác không. Tôi biết, mặc dù tôi không nhớ chắc rằng cha tôi đã
khóc và suốt ngày đi sau lưng mẹ tôi, lẩn quẩn trong nhà, không rời mắt khỏi bà
và không thể nào tin được chuyện mẹ tôi vừa kể. Và thay vì nói một câu nào đó
khiến ông cảm thấy an ủi, bà lại kể một chuyện gì đó làm ông đau khổ hơn.
Mẹ nói với cha rằng đứa bé trong bụng
là con của chú Neal.
Thế em có chắc không?
Chắc. Mẹ có ghi xuống ngày tháng.
Thế rồi chuyện gì xảy ra?
Cha tôi không khóc nữa. Ông phải trở
lại làm việc. Mẹ tôi dọn đồ đạc và đưa chúng tôi đến ở với chú Neal trong cái
nhà di động mà chú tìm được ở vùng ngoại ô. Sau đó mẹ tôi nói rằng mẹ cũng
khóc. Nhưng bà nói thêm bà cảm thấy được sống lại. Có thể là lần đầu tiên trong
đời mình, bà thực sự sống. Cảm thấy được trao cho một cơ hội, bà bắt đầu làm lại
cuộc đời. Bà bước ra khỏi nhà đi lướt qua những chén nĩa bằng bạc, những đĩa
sành sứ, những vật trang trí, và khu vườn đầy hoa và những cuốn sách trên kệ của
mình. Bây giờ bà mới thực sự sống, chứ không phải chỉ đọc trong sách. Bà để lại
những bộ quần áo treo lủng lẳng trong tủ áo và để lại những đôi giày cao gót nằm
im lìm trên giá treo giày cao vút. Chiếc nhẫn kim cương và chiếc nhẫn cưới nằm
ngay ngắn trong hộc bàn. Áo đầm mặc ngủ bằng tơ lụa nằm trong ngăn tủ. Bà dự định
sẽ đi lòng vòng quanh xóm ít nhất vài lần hoàn toàn khỏa thân, khi thời tiết ấm
áp cho phép.
Kế hoạch ấy không thực hiện được, bởi
vì khi bà định làm thế, Caro liền bỏ chạy và núp trong cái giường cũi của mình
và ngay cả Neal cũng nói rằng chú không hào hứng gì về chuyện ấy cả.
Thế chú nghĩ sao về tất cả mọi chuyện?
Neal. Cái triết lý của chú, như chú nói sau này, là hãy hoan nghênh bất cứ điều
gì xảy ra cho bạn. Mọi thứ đều là món quà. Chúng ta cho đi và chúng ta nhận lại.
Tôi cảm thấy nghi ngờ về những người
trò chuyện kiểu ấy, nhưng tôi biết rằng tôi không có quyền nghĩ thế.
Thật ra chú Neal cũng không phải là một
diễn viên. Chú có dịp đóng kịch, chú bảo, như là một thứ thể nghiệm, thử việc
mà thôi. Để tìm xem chú có thể biết được điều gì về khả năng của mình. Ở trường
đại học trước khi bỏ học, Neal đã từng diễn một vai trong vở nhạc kịch Vua
Oedipus [2]. Chú cảm thấy thích – cảm giác được cho
đi, được hòa quyện với người khác. Rồi một ngày kia trên đường phố Toronto, chú
tình cờ gặp một người bạn đang trên đường đi nhận việc mùa hè với một công ty
nhà hát ở thị trấn nhỏ. Chú liền đi theo, vì chẳng có việc gì khác để làm, và
cuối cùng nhận một việc trong khi người bạn kia thì không kiếm được việc gì.
Chú đóng vai Banquo. Đôi khi người ta để cho nhân vật hồn ma Banquo xuất hiện,
đôi khi không. Lần ấy họ muốn hồn ma xuất hiện và chú Neal vào vai thích hợp.
Kích thước vừa vặn. Một con ma hiện hình thành người rõ ràng.
Chàng trai nghĩ đến việc trải qua mùa
đông ở thị trấn này, ngay trước khi mẹ tôi bất ngờ đưa ra sự gợi ý đáng ngạc
nhiên của bà. Trước đó chú đã chấm cái nhà di động. Chú có đủ kinh nghiệm làm
thợ mộc để chọn công việc sửa chữa cho nhà hát, công việc ấy sẽ kéo dài cho đến
mùa xuân năm sau. Chú cũng chỉ nghĩ xa đến thế là cùng.
Caro cũng không cần phải đổi trường.
Chị ấy đứng đợi xe buýt ở cuối một khoảng đường ngắn chạy vòng qua cái hố sỏi.
Caro phải kết bạn với những đứa trẻ ở thôn quê, và có lẽ đã phải giải thích điều
chi đó với những đứa trẻ ở thị trấn mà chị ấy kết bạn năm trước đó nữa, nhưng nếu
Caro có gặp khó khăn gì về chuyện ấy thì tôi cũng chưa hề nghe chị nói ra.
Con chó Blitzee lúc nào cũng đứng chờ
chị tôi bên đường khi chị đi học về nhà.
Tôi không đến nhà trẻ bởi mẹ tôi
không có xe hơi. Nhưng tôi chẳng lấy làm phiền không có bạn. Chị Caro, mỗi khi
về nhà, là quá đủ cho tôi. Còn mẹ tôi lúc nào cũng vui cười. Mùa đông năm ấy
khi tuyết bắt đầu rơi, mẹ tôi và tôi liền đắp một người bằng tuyết và bà hỏi,
“Chúng ta sẽ gọi người tuyết này là Neal chứ?” Tôi bảo cũng được và chúng tôi
trang trí lên nó nhiều thứ hoa hòe làm người tuyết trông thật vui nhộn. Rồi
chúng tôi quết định chạy ùa ra khỏi nhà khi xe chú vừa tới đầu ngõ và kêu lên,
đây là Neal đây là Neal đây, nhưng đưa tay chỉ về phía người tuyết, thế mà chú
Neal liền nhảy ra khỏi xe hơi nổi dóa và la lên rằng chú sẽ lái xe đâm vào tôi.
Đó là một trong vài lần hiếm hoi mà
tôi thấy chú có cử chỉ như một người cha thực sự.
Những ngày mùa đông ngắn ngủi kia dường
như kỳ lạ đối với tôi – trong thị trấn, ánh sáng bừng lên lúc chiều tối. Nhưng
trẻ con đã quen thuộc với những thay đổi. Đôi khi tôi tự hỏi mình về căn nhà
cũ. Thật ra tôi cũng không nhớ nó lắm hay muốn về sống lại trong ngôi nhà ấy –
tôi chỉ tự hỏi nó bây giờ ra sao, đi đâu rồi.
Thời gian hạnh phúc của mẹ tôi với
chú Neal trải dài từ ban ngày sang đêm tối. Nếu tôi bỗng thức giấc và muốn đi vệ
sinh, tôi liền gọi mẹ. Bà tới ngay, hạnh phúc, nhưng chẳng có vẻ gì vội vã, với
một vài miếng quần áo hay khăn quàng quấn vội quanh người – cùng với mùi thơm
mà tôi nghĩ là của những ngọn nến và của âm nhạc. Và của tình yêu.
Một điều gì xảy ra có vẻ không an
lành được thế, nhưng tôi chẳng chú ý lắm để tìm hiểu nó. Con chó Blitzee, vốn
không lớn, nhưng cũng không quá nhỏ để nằm trong áo khoác của chị Caro. Thế mà
Caro cũng làm được việc ấy, tôi chẳng biết bằng cách nào. Không chỉ một lần mà
hai lần. Chị giấu con chó trong áo khoác của mình khi ngồi trên xe buýt tới trường,
và rồi thay vì tới trường, Caro mang con chó trở lại ngôi nhà cũ của chúng tôi,
thật ra cũng chỉ cách đó một dãy phố. Đó là nơi cha tôi tìm thấy con chó nhỏ, nằm
trong cái vòm che mùa đông, không khóa lại, khi ông về nhà sau bữa ăn trưa một
mình. Thật ngạc nhiên thấy con chó nằm ở đó, tìm thấy đường về nhà như một con
chó trong chuyện cổ tích. Caro gây nên chuyện lớn khi tuyên bố rằng không hề gặp
con chó suốt cả buổi sáng, khiến cho ai nấy phát hoảng lên.Thế rồi chị phạm sai
lầm khi lặp lại việc ấy một lần nữa, một tuần sau, và lần này mặc dù không ai
trên xe buýt hoặc ở trường nghi ngờ gì về Caro, chính mẹ tôi đã bắt đầu nghi ngờ.
Tôi không nhớ có phải cha tôi đã mang
con chó trả lại cho chúng tôi hay không. Tôi không thể nào hình dung ông tới đứng
bên trong tòa nhà di động của chúng tôi, hay đứng ở cửa, hay ngay cả đi trên đường
dẫn tới nó. Có thể chú Neal đã trở về ngôi nhà cũ của chúng tôi và mang con chó
đi. Thật khó mà hình dung.
Nếu câu chuyện tôi kể gây cảm giác
Caro là đứa con gái đau khổ, hay bày mưu tính kế tối ngày, thì không đúng đâu.
Như tôi kể, chị đã từng cố gắng làm cho tôi phải nói ra nhiều chuyện, khi đi ngủ
buổi tối, nhưng chị cũng không hay than thở buồn rầu. Tính Caro không hay hờn dỗi.
Chị cũng không tìm cách gây cảm tình ở người khác. Chị thích những người nào
thích chị, chị thích làm không khí sôi nổi lên bằng cách hứa làm một chuyện gì
cho tôi với vẻ hoan hỉ. Nhưng chị thường nghĩ về chuyện ấy hơn cả tôi.
Bây giờ thì tôi nghĩ rằng Caro là người
hay để tâm đến mẹ tôi.
Chắc chắn chị đã bị tra hỏi về việc
chị đã làm gì với con chó. Tôi có thể nghĩ ra thêm vài chuyện khi cố nhớ lại.
“Con làm thế để chơi thôi.”
“Thế con có muốn ra đi và sống với
cha con không?”
Tôi tin là có người đã hỏi chị thế và
Caro đã trả lời là không.
Tôi chẳng hỏi Caro gì cả. Điều chị ấy
làm đối với tôi cũng không có gì kỳ lạ. Có lẽ mọi việc cũng thường xảy ra như
thế với bọn trẻ nít như tôi – không có gì mà những đứa trẻ lớn tuổi hơn làm khiến
chúng tôi phải cảm thấy ngạc nhiên.
Gia đình có một hộp thư bằng thiếc gắn
trên cọc ngoài sân, gần đường. Mẹ tôi và tôi đi tới đó mỗi ngày, trừ những ngày
mưa bão lớn, để xem có gì cho chúng tôi không. Hai mẹ con làm việc ấy sau khi
tôi ngủ trưa dậy. Đôi khi đó là thời gian duy nhất mà chúng tôi ra khỏi nhà. Buổi
sáng chúng tôi coi ti vi chương trình trẻ con – hoặc mẹ đọc sách trong khi tôi
coi. (Mẹ vẫn không thôi đọc sách suốt một thời gian dài.) Chúng tôi hâm nóng những
hộp súp làm thức ăn buổi trưa, rồi tôi đi nghỉ trong khi mẹ đọc sách. Cái bụng
ngày càng lớn, và đứa bé đạp lung tung khiến tôi cũng có thể cảm thấy được. Tên
của nó là Brandy, bất kể trai hay gái.
Một ngày kia chúng tôi đi lấy thư và
trước khi tới hộp thư, không xa, mẹ tôi bỗng dừng lại và đứng sững người im lặng.
“Im,” mẹ tôi bảo, mặc dù tôi chẳng
nói gì cả mà cũng không hề lấy đôi ủng cào qua cào lại trên tuyết như mọi khi.
“Thì con vẫn im lặng mà,” tôi nói.
“Suỵt. Quay người lại.”
“Nhưng chúng ta chưa lấy thư.”
“Không cần. Cứ bước.”
Và tôi lập tức nhận ra con Blitzee,
lúc nào cũng chạy theo chúng tôi, khi thì ngay phía trước, khi thì ngay phía
sau, không còn ở đó nữa. Một con chó khác, đang đứng bên kia đường, cách hộp
thư vài mét.
Mẹ tôi gọi điện thoại cho nhà hát khi
vào trong nhà và để cho con chó Blitzee chạy tuột vào, lúc ấy nó đang đứng chờ
chúng tôi bên cửa. Không ai trả lời điện thoại. Mẹ lại gọi nhà trường và nhờ một
người nào đó yêu cầu người lái xe buýt chở Caro về tận nhà. Nhưng người tài xế
không thể làm thế được, vì tuyết xuống nhiều quá từ lúc chú Neal xúc tuyết,
nhưng người tài xế vẫn ngồi quan sát Caro cho đến khi chị ấy bước hẳn vô nhà.
Không ai thấy một con chó sói nào cả.
Chú Neal cho rằng chẳng hề có một con
chó sói nào như thế ở vùng này. Và nếu có, chú bảo, thì chúng sẽ không làm hại
ai, chúng rất yếu như những con thú đang ngủ đông.
Caro nói chó sói không phải là loài
ngủ đông. “Tụi con học được chuyện ấy ở trong nhà trường.”
Mẹ muốn chú Neal mua một khẩu súng.
“Em nghĩ là anh sẽ đi mua một khẩu
súng, vào rừng và bắn chết một con chó sói mẹ, có lẽ đang có một bầy con núp
trong bụi rậm và nó đang tìm cách bảo vệ chúng, như cách mà em đang bảo vệ các
con của em chăng?” Chú Neal dịu dàng bảo vậy.
Caro nói, “Chỉ có hai. Chúng chỉ có
hai con vào một lúc thôi.”
“Được rồi, được rồi, chú sẽ nói chuyện
với mẹ con.”
“Anh thật không biết gì cả,” mẹ tôi
nói. “Anh không biết liệu có cả sói con đang đói hay không.”
Tôi không bao giờ nghĩ là mẹ tôi lại
nói với chú với lời lẽ như thế.
Chú nói, “Từ từ. Từ từ. Hãy suy nghĩ
một lát xem. Súng là một cái gì rất nguy hiểm. Nếu anh đi mua một khẩu súng,
anh có thể nói gì đây? Nói là chiến tranh Việt Nam cũng tốt thôi? Hay là chính
anh cũng phải đi đánh nhau ở Việt Nam?”
“Nhưng anh không phải là một công dân
Mỹ.”
“Em không chọc tức được anh đâu.”
Đó là những lời nói qua nói lại và cuối
cùng chú Neal cũng không mua súng. Chúng tôi không bao giờ thấy lại những con
chó sói nữa, nếu quả thật có một con như vậy. Tôi nghĩ là mẹ tôi từ đó không ra
lấy thư nữa, nhưng cũng vì bụng bà quá lớn đi lại khó khăn.
Tuyết tan mau. Cành cây trụi hết lá
và mẹ tôi bắt chị Caro phải mặc áo khoác vào buổi sáng, nhưng buổi chiều khi về
nhà chị kéo lê cái áo sau lưng. Mẹ bảo trong bụng bà có hai đứa sinh đôi, nhưng
bác sĩ bảo chỉ có một.
“Tuyệt,” chú Neal nói, thích thú cái
ý tưởng có con song sinh. “Bác sĩ mà biết cái gì.”
Cái hố sỏi đã đầy lên vì tuyết tan ra
và cả nước mưa. Vì vậy Caro phải đi sát bờ nước trên đường tới chỗ chị chờ xe
buýt. Nơi đó trở thành một cái hồ nhỏ, yên tĩnh và đẹp lạ lùng dưới bầu trời
trong sáng. Caro mặc dù chẳng hy vọng nhiều cũng hỏi rằng liệu bọn trẻ chúng
tôi có thể chơi ở đó không.
Mẹ tôi bảo đừng có điên. “Cái hồ ấy
phải sâu đến bốn, năm mét.”
Chú Neal nói, “Có thể chỉ sâu hai
mét.”
Caro nói, “Ngay gần bờ thì không sâu
thế đâu.”
Mẹ nói, sâu lắm. “Nó sâu tận sát bờ,
chứ không phải giống như ở bờ biển thoai thoải cát đâu. Phải tránh cho xa, đồ
cái con quỷ tha ma bắt kia.”
Mẹ tôi bắt đầu nói những chữ tục tĩu
gần đây ngày càng nhiều, nhiều hơn cả chú Neal, và nói với giọng rất bực bội.
“Chúng ta cũng đừng để cho con chó chạy
tới gần đó chứ?” bà hỏi.
Chú Neal bảo cái đó không phải lo.
“Chó có thể bơi được.”
Một ngày thứ Bảy. Caro xem cuốn
phim Kẻ khổng lồ thân thiện cùng với tôi, khen chê lung tung
làm hỏng cả cuộc coi phim. Chú Neal nằm trên ghế bành, kéo ra thành chiếc giường
cho chú và mẹ tôi. Chú hút thuốc lá, vì chú không thể hút ở chỗ làm việc cho
nên vào cuối tuần chú hút nhiều lên. Đôi khi Caro làm phiền, tới hỏi xin thử một
hơi. Có một lần chú để cho chị ấy hút thử nhưng bảo đừng nói cho mẹ biết.
Tôi cũng ở đó nên chú cũng bảo tôi thế.
“Anh biết là ông ấy có thể mang các
con ra khỏi đây ngay lập tức,” mẹ tôi bảo, “Đừng bao giờ làm lại nữa.”
“Không bao giờ nữa,” chú Neal cũng đồng
ý thế. “Thế nếu ông ấy lại đầu độc toàn chúng bằng cách toàn cho ăn mấy thức ăn
khô đóng gói sẵn thì sao?”
Mới đầu chúng tôi không gặp cha mình.
Thế rồi sau lễ Giáng sinh một kế hoạch được hai bên đồng ý vào các ngày thứ Bảy.
Sau mỗi lần thăm viếng bao giờ mẹ cũng hỏi chúng tôi có vui không. Khi nào tôi
cũng trả lời có và nghĩ thế thật, bởi vì tôi nghĩ là nếu bạn đi coi phim hay ra
bờ hồ ngắm cảnh hay được ăn trong một hiệu ăn, thế có nghĩa là bạn có một thời
gian vui vẻ. Chị Caro cũng nói có, nhưng giọng của chị ấy làm như thể chuyện ấy
không phải là công việc của mẹ tôi. Thế rồi cha tôi đi nghỉ lễ vào mùa xuân ở
Cuba (mẹ tôi nhận xét với chút ngạc nhiên nhưng có lẽ cũng tán đồng) và cha trở
về với triệu chứng bị cảm cúm nặng, nên những cuộc gặp gỡ tạm hoãn. Chúng sẽ được
nối lại vào mùa xuân, nhưng sau đó thì không xảy ra nữa.
Sau khi truyền hình đã tắt, chị Caro
và tôi đi ra ngoài chạy lòng vòng, như mẹ nói để thở hít một chút khí trời mát
mẻ. Chúng tôi mang con chó theo.
Khi chúng tôi ra ngoài, việc đầu tiên
làm là cởi khăn quàng ra, chúng được mẹ tôi quàng vào cổ mỗi đứa. Caro hỏi tôi
muốn làm gì và tôi trả lời không biết. Chị hỏi cho có hình thức nhưng tôi trả lời
thành thật. Chúng tôi để con chó dẫn đường và con Blitzee bao giờ cũng chạy ra
phía cái hầm sỏi nhìn xuống. Gió thổi khiến nước dựng lên thành những con sóng
nhỏ, chúng tôi cảm thấy lạnh, lại quàng khăn trở lại. Tôi không nhớ chúng tôi đứng
đó bao lâu, khi đi bộ dọc theo hầm sỏi, chỉ biết là người đứng ở nhà không thể
nhìn thấy chúng tôi. Sau một lát, tôi nhận ra tôi đang được chỉ dẫn.
Nghĩa là tôi sẽ trở về nhà và nói với
chú Neal và mẹ tôi một điều gì đó.
Rằng con chó đã rơi xuống nước.
Con chó rơi xuống nước và Caro sợ là
nó sẽ chìm mất.
Blitzee. Chết đuối.
Chết đuối.
Nhưng con Blitzee không nhảy xuống nước.
Cũng có thể nó nhảy. Và chị Caro cũng
có thể nhảy xuống nước để cứu nó.
Tôi nhớ là tôi cãi lại với chị rằng
Caro đâu có nhảy, chị không hề nhảy, chuyện ấy có thể xảy ra nhưng nó đâu đã xảy
ra. Tôi cũng nhớ rằng chú Neal đã nói là chó không thể chìm.
Caro vẫn muốn tôi làm đúng những điều
chị ấy căn dặn kỹ càng.
Tại sao?
Có thể tôi đã hỏi chị như thế, cũng
có thể tôi đã đứng đó không vâng lời và cố ý tìm cách cãi lại chị.
Trong tâm trí mình tôi có thể thấy chị
Caro bồng con chó nhỏ lên đẩy nó ra xa, mặc dù con chó cố bám lấy cái áo khoác
của chị. Thế rồi chị nhảy lùi lại. Caro nhảy lùi lại và chạy về phía bờ nước.
Chạy, nhảy, ùm một cái xuống nước. Nhưng tôi không thể nào nhớ được tiếng bõm của
nước khi chị ấy nhảy vào, và con chó nữa, tiếng của cả hai. Không hề nghe tiếng
bõm của nước hay tiếng bùm lớn hơn. Có lẽ vào lúc ấy tôi đã trở về nhà chăng –
chắc là vậy.
Khi tôi nằm mơ thấy điều ấy, lúc nào
tôi cũng chạy. Và trong giấc mơ của tôi lúc nào tôi cũng chạy, cũng chạy, không
phải về phía căn nhà mà ngược lại về phía cái hố sỏi. Tôi có thể nhìn thấy con
Blitzee trồi lên ngụp xuống và Caro bơi về phía nó, bơi một cách mạnh mẽ, lao tới
để cứu con chó lên. Tôi có thể nhìn thấy chiếc áo choàng của chị ấy màu sọc nâu
nhạt, cái khăn quàng cổ, khuôn mặt thành công tự hào, mái tóc đỏ sẫm, những đường
uốn lượn cong của tóc trôi bập bềnh trên sóng nước. Tất cả những điều tôi có thể
làm là nhìn ngắm và hạnh phúc – chẳng ai cần đến tôi cả vào lúc ấy.
Thật ra điều tôi làm chỉ là đi bộ về
phía căn nhà. Và khi vào nhà rồi tôi đã ngồi xuống như thể đó là một cái băng
ghế dài trong khi thật ra chiếc nhà di động không hề có thứ gì để ngồi như thế.
Tôi đã ngồi xuống và chờ đợi điều sắp xảy ra.
Tôi biết như thế vì đó là một thực tế
đã xảy ra. Tôi không biết, dù vậy, tôi định làm gì hay suy nghĩ ra sao. Tôi cứ
chờ đợi, có lẽ thế, một màn mới trong vở kịch của Caro, hay trong vở kịch của
con chó.
Tôi không nhớ tôi đã ngồi đó lâu bao
nhiêu, năm phút, hay nhiều hơn? Hay ít hơn? Trời không lạnh lắm.
Tôi đã từng đi thăm một chuyên gia
tâm lý về chuyện này và bà ấy thuyết phục tôi rằng có lẽ tôi đã tìm cách để mở
cánh cửa của căn nhà di động nhưng nó bị khóa lại. Khóa lại bởi vì mẹ tôi và
chú Neal đang nằm ngủ với nhau và khóa lại để khỏi bị làm phiền. Nếu tôi đã từng
gõ lên cánh cửa thì chắc họ sẽ giận lắm. Người chuyên viên cố vấn lấy làm hài
lòng đã đưa tôi đến kết luận này, và tôi cũng lấy làm thỏa mãn nữa. Trong một
lúc. Nhưng rồi tôi không nghĩ rằng điều đó thực sự đã xảy ra. Tôi không nghĩ là
họ đã khóa cửa lại, bởi vì tôi biết có một lần họ đã từng không khóa cửa khi chị
Caro tình cờ bước vào, trông thấy cảnh ấy, và họ cười phá lên nhìn vẻ sửng sốt
trên mặt chị Caro.
Có thể tôi đã nhớ rằng chú Neal đã từng
nói chó thì không bị chết đuối, nghĩa là chị Caro tìm cách cứu con Blitzee là
không cần thiết. Thế là chuyện của chị ấy tạo ra trò chơi kia không thể tồn tại.
Bao nhiêu là trò chơi mà Caro nghĩ ra.
Liệu tôi đã từng nghĩ rằng chị ấy biết
bơi. Vào chín tuổi nhiều đứa cũng biết bơi. Thực tế là Caro đã từng đi học một
lớp vào mùa hè năm trước, và rồi chúng tôi rời nhà đến cái nhà di động và chị ấy
chẳng còn được đi học nữa. Hay là Caro nghĩ rằng chị ấy có thể biết bơi đủ rồi.
Mà tôi thì lại tưởng rằng chị ấy có thể làm được bất cứ điều gì mình muốn.
Người cố vấn tâm lý không tin rằng
tôi cảm thấy khó chịu vô cùng khi phải tuân theo những lời chỉ dẫn của Caro
nhưng cảm tưởng ấy của tôi là có thật. Điều đấy có vẻ không đúng lắm. Nếu tôi
đã lớn hơn nữa thì có thể. Vào lúc ấy tôi vẫn còn thần tượng chị Caro lắm và
tin rằng chị ấy sẽ làm đầy ắp thế giới của mình.
Tôi ngồi đó bao lâu? Chắc không lâu lắm.
Và thế nào tôi cũng đã gõ cửa. Sau một lúc. Sau một phút hay hai phút. Dù thế
nào mẹ tôi cũng đã mở cửa không biết vì sao. Như có một linh cảm dị thường.
Kế đó, tôi đã lọt vào bên trong nhà.
Mẹ tôi gào thét và cố để làm cho chú Neal biết chuyện gì xảy ra. Chú ấy đứng dậy
cố gắng trò chuyện với mẹ tôi, chạm tay vào người bà, với một vẻ nhẹ nhõm, dịu
dàng và khuyên nhủ. Nhưng đó không phải là chuyện mẹ tôi muốn chút nào, bà giằng
tay chú ra và chạy vọt ra khỏi cửa. Chú lắc đầu và nhìn xuống những bàn chân trần
của mình, với những ngón chân to bất lực.
Tôi nghĩ là chú có nói một điều gì đó
với tôi với cái giọng buồn rầu như hát. Kỳ lạ.
Tôi không còn nhớ một chi tiết nào
khác nữa.
Mẹ tôi không nhảy ùm xuống nước. Bà
cũng không vì vậy mà bị sinh non. Đứa em trai của tôi Brent, chỉ sinh ra sau đó
một tuần hay mười ngày, sau lễ an táng, và nó sinh ra đủ ngày đủ tháng. Trong
thời gian chờ đợi để sinh con, mẹ tôi ở đâu thì tôi không nhớ. Có thể bà được
giữ lại trong bệnh viện và được cho thuốc an thần với liều tối đa vì lý do sức
khỏe.
Tôi nhớ ngày đám tang rất rõ ràng. Một
người đàn bà vui vẻ và thoải mái vô cùng mà tôi không biết tên là Josie – dẫn
tôi đi chơi. Chúng tôi đi thăm nơi này nơi nọ, một vài tòa nhà búp bê khá lớn,
để tôi vào đó, rồi cho tôi ăn vào buổi trưa với những món ăn mà tôi thích nhưng
không ăn quá nhiều khiến tôi phải đau bụng. Josie là người mà sau này tôi biết
rõ. Cô là bạn của cha tôi, hai người quen nhau ở Cuba, và sau khi cha tôi và mẹ
tôi li dị, cô trở thành mẹ kế của tôi, người vợ thứ hai của cha tôi.
Mẹ tôi từ từ bình phục. Bà phải thế
thôi. Bà cần coi sóc Brent vừa mới sinh và đa phần là chăm sóc tôi. Tôi nghĩ là
tôi đã ở bên nhà của cha tôi và Josie khi mẹ tôi bắt đầu ổn định trong căn nhà
nơi bà dự định ở suốt đời. Tôi không nhớ đã từng tới thăm Brent ở đó cho đến
khi nó đủ lớn để ngồi trên chiếc ghế cao của trẻ con.
Mẹ tôi trở lại công việc ở nhà hát. Mới
đầu mẹ làm việc như một người thiện nguyện, dẫn đường cho khách, nhưng vào thời
gian tôi đi học, bà có một việc thực sự ăn lương, và có việc quanh năm. Bà là
người quản lý kinh doanh của rạp hát. Cái rạp hát vẫn tồn tại được, việc kinh
doanh khi lên khi xuống, nhưng đến giờ vẫn còn.
Chú Neal không tin tưởng vào các cuộc
lễ tang, vì vậy chú đã không đến dự tang lễ của chị Caro. Chú cũng chưa bao giờ
nhìn thấy mặt của Brent. Chú viết một bức thư – tôi biết điều này rất lâu về
sau – nói rằng bởi vì chú không có ý định làm cha, vì vậy tốt nhất là ra khỏi
cuộc đời của mẹ tôi ngay từ đầu. Tôi cũng không bao giờ nhắc đến chú với đứa em
trai của tôi, bởi vì tôi nghĩ điều đó có thể làm cho mẹ tôi khó chịu, cũng vì
Brent không có tí gì giống với chú Neal cả, mà trong khi đó lại có vẻ giống ba
tôi khiến tôi đôi lúc cũng tự hỏi chuyện gì đã xảy ra vào thời gian mẹ tôi thụ
thai. Cha tôi chẳng bao giờ nói gì về điều đó và sẽ không bao giờ. Cha tôi đối
xử với Brent cũng như đối với tôi nhưng vì ông thuộc loại lúc nào cũng làm thế
cả.
Cha tôi và dì Josie không có con với
nhau nhưng họ chẳng lấy làm phiền chi. Dì Josie là người duy nhất từng nói về
Caro, mặc dù không thường xuyên lắm. Dì nói rằng cha tôi không đổ lỗi cho mẹ
tôi. Ông cũng nói rằng ông quá bận rộn khi mẹ tôi muốn có một chút hạnh phúc
thoải mái. Ông cần phải có người nhắc nhở và ông đã nhận được sự nhắc nhở ấy,
không có gì phải đau khổ hối hận về chuyện đó. Nếu không có cái nhắc nhở ấy thì
chẳng bao giờ ông tìm thấy dì Josie và hai người chẳng bao giờ có thể hạnh phúc
như bây giờ.
“Hai người nào?” Tôi hỏi thế để thách
thức ông và ông có thể trả lời một cách rõ ràng, “Josie. Josie, tất nhiên.”
Mẹ tôi không thể nào nhớ lại thời
gian ấy, mà tôi cũng không muốn nhắc nhở làm chi. Tôi biết rằng mẹ tôi đã từng
lái xe tới chỗ chúng tôi ở, và thấy mọi chuyện đều thay đổi như ngôi nhà kia mà
bạn thấy bây giờ đã được xây trên nền cũ, bà nhắc đến điều ấy với một vẻ bực bội,
tôi cũng đi xuống vùng đất cũ nhưng chẳng dám nói với ai. Tất cả những điều có
thể được làm trong gia đình vào thời ấy có thể được xem là lỗi lầm.
Ngay cả hố sỏi bây giờ cũng biến
thành căn nhà, mặt đất phía dưới đã được nâng cao lên.
Tôi có một đứa bạn cùng phòng,
Ruthann, trẻ hơn tôi nhưng tôi nghĩ, khôn ngoan hơn. Hoặc tối thiểu là lạc quan
hơn về chuyện xua đuổi tà ma. Tôi sẽ không bao giờ có dịp gặp chú Neal nữa nếu
như cô bạn của tôi không thúc giục tôi. Tất nhiên trong một thời gian lâu tôi
chẳng hề nghĩ tới mà cũng chẳng có cách nào liên lạc trở lại. Chính là chú ấy
cuối cùng đã viết thư cho tôi. Mấy dòng ngắn ngủi để chúc mừng, chú viết thế,
sau khi nhìn thấy bức hình của tôi trên tờ thông báo Alumni Gazett.
Chú ấy làm gì với tờ báo ấy thì tôi không rõ. Tôi đã nhận được một trong những
tấm bằng danh dự thật ra chỉ có giá trị trong một giới hạn hẹp, ngoài ra không
có ý nghĩa gì nhiều.
Chú Neal sống đâu khoảng năm mươi dặm
cách chỗ tôi đang dạy học, cũng là nơi tôi từng tới học đại học ở đó. Tự hỏi liệu
thời gian tôi còn là sinh viên, chú ấy có ở đó không. Rất gần. Hay chú ấy trở
thành một nhà nghiên cứu, học giả?
Mới đầu tôi không có ý trả lời bức
thư này, nhưng khi kể cho Ruthann, nó bảo tôi nên trả lời. Thế là tôi gửi cho
chú một bức thư qua email, và rồi hai bên sắp xếp gặp nhau. Tôi gặp chú ở cái
thị trấn của chú ấy, trong không khí không có vẻ gì là đe dọa ở một quán cà phê
ở đại học. Tôi tự dặn mình nếu chú ấy trông có vẻ đáng sợ – tôi không biết rõ
tôi có ý gì khi nghĩ đến chữ ấy – tôi sẽ bước ra thẳng.
Chú Neal trông có vẻ thấp hơn hồi trước,
như khi đã lớn chúng ta nhớ lại người quen thời nhỏ tuổi. Tóc thưa và cắt ngắn
đến sát da đầu. Chú mời tôi một tách trà. Chú cũng uống trà.
Chú làm gì để sống?
Chú bảo chú dạy kèm học sinh để chuẩn
bị các kỳ thi. Cũng giúp đỡ họ viết các tiểu luận. Đôi khi chú cũng viết hộ các
luận án. Tất nhiên chú lấy tiền.
“Không phải vì thế mà có thể trở
thành triệu phú được đâu,” chú nói.
Chú Neal sống trong một khu nhà tồi
tàn. Hay khá hơn tồi tàn một chút. Chú thích thế. Tìm mua quần áo ở mấy tiệm rẻ
tiền. Cái đó cũng được.
“Hợp với những nguyên tắc của chú.”
Tôi không chúc mừng gì về mấy thứ ấy
nhưng, nói thật lòng, tôi không nghĩ là chú chờ đợi một lời chúc mừng nào từ
tôi cả.
“Dù sao, chú không nghĩ là đời sống của
mình có gì hay ho. Chú nghĩ là cháu muốn biết thêm về chuyện gì xảy ra.”
Tôi lắng nghe, không biết trả lời thế
nào.
“Chú đã bị ném đá,” chú Neal bảo.
“Thêm nữa chú không biết bơi. Thời mới lớn chú không có một cái hồ bơi nào để tập
cả. Chú đã từng suýt chết đuối rồi. Đó có phải là điều mà cháu muốn biết
không?”
Tôi trả lời rằng tôi không hề bận tâm
gì về chú ấy cả.
Thế là chú biến thành nhân vật thứ
ba. Khi ấy tôi liền hỏi, “Chị Caro đã tính toán thế nào trong đầu chị ấy?”
Người chuyên viên tâm lý đã khuyên
tôi rằng chúng ta không thể nào biết được. “Có thể là chính chị Caro cũng không
biết chị muốn gì, sự chú tâm của người khác? Tôi không nghĩ là chị ấy thực sự
có ý định tự tử bằng cách chết đuối. Chỉ cẩn sự chú tâm của người khác về cảm
giác buồn bã của chị ấy hay sao?”
Cô bạn Ruthann đã từng nói, “Để làm
cho mẹ tôi thực hiện những điều mà Caro muốn? Làm cho chị ấy có tiếng nói hơn
và xem thử bà có thể trở lại với cha mình được không?”
Chú Neal nói, “Chuyện ấy chẳng có chi
quan trọng nữa. Có thể Caro nghĩ là mình có thể bơi giỏi hơn. Có thể nó không
biết là áo choàng mùa đông nặng đến thế hay có thể không có người nào đi qua đó
để cứu nó.”
Chú nói thêm, “Đừng mất thời gian nữa.
không phải là cháu không nghĩ đến chuyện nếu như mình chạy vội hơn và kịp nói
cho mọi người nghe, phải thế không? Cháu không nghĩ là tìm cách làm cho mình cảm
thấy có lỗi sao?”
Tôi trả lời là tôi cũng có suy nghĩ đến
những thứ mà chú nói, nhưng không phải thế.
“Điều cần thiết là phải sống hạnh
phúc,” chú Neal bảo. “Bất kể chuyện gì đã xảy ra, tập sống thế đi. Cháu có thể
làm được. Mọi chuyện sẽ trở nên dễ dàng và dễ dàng hơn. Không liên quan gì đến
các hoàn cảnh xung quanh cả. Cháu sẽ thấy mọi chuyện tốt lạ lùng. Chấp nhận tất
cả và rồi những bi kịch sẽ biến mất. Hoặc là những bi kịch con người bắt đầu
sáng lên rạng rỡ, cách này hay cách khác, và cháu đứng đó, tập sống dễ dàng với
cuộc đời.”
Bây giờ thì tạm biệt thôi.
Tôi hiểu điều chú Neal muốn nói. Thực
ra đó là điều cần phải làm. Thế nhưng, trong tâm trí tôi, chị Caro vẫn mãi mãi
chạy dọc theo bờ nước và ném mình xuống đó, như một người thắng cuộc, còn tôi vẫn
đứng im trên bờ, mong chờ ở chị một lời giải thích, và chờ nghe tiếng của làn
nước kia bắn lên tung tóe từ mặt hồ yên tĩnh.
[1] Trailer, di chuyển được bằng
cách kéo theo sau xe hơi, thường dùng ở Bắc Mỹ. Tương tự mobile homes, nhưng chữ
sau chỉ các nhà dùng để ở lâu hơn.
[2] Oedipus Rex, hoặc Oedipus
the King, vở kịch nổi tiếng của Sophocles.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét