Chủ Nhật, 9 tháng 8, 2020

Kể chuyện sông Tô Lịch 2000 năm

 Kể chuyện sông Tô Lịch 2000 năm

Lê Văn Lan


Ai cũng nghĩ Tô Lịch là thủy danh, tức là tên sông. Trong khoa học định danh học có phân ra nhân danh, sơn danh, địa danh, thủy danh... Tô Lịch nay được biết là tên sông và ai cũng nghĩ nó là thủy danh. Nhưng hoàn toàn sai.

Đó là một nhân danh. Đó là một tên người.

Và đây là một nhân vật lịch sử đàng hoàng, có tiểu sử, có công tích, được chép vào chính sử. Ngoài ra chưa kể đến những thành tích, ngọc phả, thần phả, những nghi lễ thờ cúng rồi thì lễ hội… để thờ nhân vật lịch sử họ Tô tên Lịch.

Như vậy, có thể khẳng định điều đầu tiên khi nhắc đến Tô Lịch rằng đây là nhân danh được thuỷ danh hóa. Nguyên nhân làm sao?

Người ta hoàn toàn có thể làm được mấy tập phim rất hay, rất công phu về điều này. Bộ phim cần phải bắt đầu bằng cảnh xuất hiện núi Long Đỗ. Long là Rồng và Đỗ là Rốn. Rốn Rồng. Dân gian vẫn gọi đỗ là đậu, đều có xuất xứ của nó.

Bài thơ nổi tiếng của Tào Thực làm theo lệnh anh trai mình là Tào Phi từng viết:

Chử đậu nhiên đậu ky, 
Đậu tại phủ trung khấp. 
Bản thị đồng căn sinh, 
Tương tiễn hà thái cấp? 

Dịch nghĩa: 

Nấu đậu đun cành đậu, 
Đậu ở trong nồi khóc. 
Sinh ra từ một gốc, 
Sao nỡ đốt thiêu nhau.

Đậu hay là đỗ nghĩa gốc của nó là cái rốn. Thế tức là đã có một cái núi Rốn Rồng xuất hiện khi nhắc đến Tô Lịch.

Bản đồ thành Thăng Long theo Hồng Đức Địa Dư - 1490, với sông Cái bên mặt Đông, sông Tô Lịch mặt Bắc và Tây. Ảnh tư liệu. Nguồn trích dẫn: 36hn.

Tìm về cội nguồn lịch sử khai sinh ra Hà Nội ngày nay, những di chỉ khảo cổ tại Cổ Loa cho thấy con người đã xuất hiện ở khu vực Hà Nội ngày nay từ trước Công nguyên (TCN), giai đoạn của nền văn hóa Sơn Vi. Cư dân Hà Nội thời kỳ đó sinh sống nhờ trồng trọt, chăn nuôi và chài lưới. Giai đoạn tiền sử này tương ứng với thời kỳ của các Vua Hùng trong truyền thuyết. Thời kỳ băng tan, biển tiến sâu vào đất liền, Hà Nội lúc đó vẫn đang còn lầy lội, người ta đã dùng thuật ngữ là vịnh Hà Nội. Thế rồi đến thời kỳ biển lùi, nước rút dần và từ vùng lầy lội ấy nổi lên những gò đất. Sử sách miêu tả về vùng đất đó cho thấy có 12 hay 13 cái gò đất lớn giữa hệ thống sông ngòi chằng chịt. Có thuyết nói rằng gò Đống Đa ngày nay cũng chính là một trong số những gò đất thời tiền sử ấy. Nhưng ở đây, ta cần quan tâm đến một gò đất nổi tiếng nhất bấy giờ, ấy là gò đất Long Đỗ.

Người tiền sử đã tìm đến, chọn chỗ đó làm đất định cư, xây làng, lập chợ vì nó cao nhất, lớn nhất và linh thiêng nhất. Làng Rốn Rồng cũng chính là ngôi làng đầu tiên của đất Thăng Long trong lịch sử và Hà Nội ngày nay. Sử sách xưa chép không gọi là làng, mà ghi là Long Đỗ Hương. Chữ Hương có nghĩa là thôn. Gọi "quê hương" là vì lẽ đó. Niên đại của Làng Rốn Rồng vào đầu Công Nguyên.

Điều quan trọng tiếp theo là người đứng đầu của ngôi làng đó, ấy là một người họ Tô tên Lịch. Sử cũ viết về thời đầu Công Nguyên có chép rõ: "Đây là người đứng đầu Long Đỗ Hương. Có lòng nhân ái, không những cai quản tốt mà gặp lúc đói kém, Tô Lịch đã xuất của trong nhà ra giúp cho nạn dân. Vì thế rất được tin phục. Đến khi chết thì được tôn làm thành hoàng."

Tức là từ một nhân vật có thật trong lịch sử, ông Tô Lịch trở thành một nhân thần. Trong việc phân chia thế giới thần linh, chúng ta có hai loại nhiên thần và nhân thần, thần gốc tự nhiên và thần gốc người. Ông Tô Lịch là nhân thần và là thành hoàng của làng cổ ở Hà Nội hôm nay.

Long Đỗ Hương có đặc trưng là một gò đất cao và có một dòng nước uốn lượn ở bên làng. Dòng nước ấy vào 2.000 năm trước chưa có tên. Khi ông Tô Lịch qua đời, dòng nước uốn quanh đó, vốn là nguồn cung cấp nước cho làng, được mang tên Tô Lịch.

Từ đó mà ra đời sông Tô Lịch.

Việt Nam trải suốt từ Bắc vào Nam, có hàng nghìn con sông, hàng nghìn ngọn núi. Sông thường có nguồn từ núi mà thành. Sông chở nước, mang tính âm, thực hiện chức năng sinh thành sự sống, duy trì sự sống. Nhờ sông mà châu thổ đồng bằng được sinh ra. Núi chỉ nơi có đất trên cao, mang tính dương, hùng vĩ và là mái nhà cho vạn vật sinh sôi… Từ ghép "sông núi" vốn có cùng trường nghĩa với danh từ "đất nước".

Như vậy, từ xa xưa cặp sông - núi trong văn hóa người Việt chính là một cặp Âm - Dương, cha - mẹ. Trong tâm thức Việt, cặp đôi này có chức năng sinh sản, duy trì sự sống; nơi nào có cặp đôi sông - núi nơi đó được xem là vùng đất địa linh nhân kiệt.

Nhìn vào văn hoá Việt, có rất nhiều cặp biểu tượng sông núi nổi tiếng như vậy.

Phía tây bắc có núi Mường Hung soi vào dòng sông Mã. Khởi nguồn cho nước Văn Lang có núi Tản sông Đà. Về Ninh Bình thì cặp biểu tượng sông núi mà người dân hết sức tự hào và gìn giữ là sông Vân núi Thúy. Nam Định thì được gọi là vùng đất của non Côi sông Vị. Vùng đất xứ Nghệ là núi Hồng sông Lam. Xứ Huế thì không ai mà không biết đến sông Hương núi Ngự. Vào đến Quảng Ngãi thì cặp biểu tượng là núi Ấn sông Trà.

Thế thì tìm hiểu Hà Nội, Thăng Long, Đông Đô, hay Đại La… cần phải biết rõ về cặp biểu tưởng núi Nùng sông Tô.

Nằm ở vị trí trung tâm của Long Đỗ hương từ thời tiền sử, có một ngọn núi thiêng,  tên gọi dân gian là núi Nùng. Giờ đây chúng ta có thể xác định được núi Nùng tiền sử nằm ở đâu giữa Hà Nội hiện đại này?

Nhiều người đi qua đường Hoàng Hoa Thám, chỗ Bách Thảo, thường chỉ tay vào gò đất cao cao ở đó mà giới thiệu như một sự hiểu biết đáng tự hào về lịch sử Hà Nội:

- "Biết núi Nùng nổi tiếng ở đâu không? Kia kìa!"

Đó là một sai lầm chết người.

Ngọn núi trong vườn Bách Thảo bị nhầm là núi Nùng, thực ra đây là "Sư Sơn". Nguồn: Tranh của Họa sĩ Lương Xuân Đoàn (chúng tôi xử lý lại thành đen trắng cho phù hợp với màu sắc toàn bài này).

Ngọn núi ở trong vườn Bách Thảo có tên ghi vào các văn tự cổ, bản đồ cổ là Sư Sơn. Vì chữ Hán không có âm nào để phiên âm tên gốc của ngọn núi là Sưa, nên người ta chép đại chữ Sư cho gần âm. Từ đó, quen dần đọc thành Sư Sơn.

Tên gốc của nó là núi Sưa. Cách gọi tên núi này giống cách người xưa gọi một ngọn đồi nổi tiếng ở Bắc Ninh là Lim, chỉ vì ở đó được trồng nhiều cây lim. Núi Sưa cũng vậy. Chỗ này vốn có rất nhiều cây Sưa quý mà được gọi là núi Sưa, phiên sang chữ Hán là Sư Sơn. Ta không bao giờ được phép nhầm lẫn núi Sưa (Sư Sơn) với núi Nùng thật sự.

Bởi núi Nùng là một ngọn núi thiêng, nó nằm trung tâm hoàng thành Thăng Long, ngày nay còn được gọi là núi Điện Kính Thiên. Và Điện Kính Thiên được xây trên đất gốc của Long Đỗ Hương - gò đất cổ 2.000 năm.

 

Nơi đặt Điện Kính Thiên trong di tích Hoàng thành Thăng Long ngày nay mới thực sự là núi Nùng. Ảnh tư liệu. Nguồn trích dẫn: Hanoi.gov.vn

Truyền thuyết rồi người đời sau cũng đã chép vào những bộ như Việt Điện U Linh, Lĩnh Nam chích quái... đều nói từ núi Nùng này ông Tô Lịch đã phát hiện ra một huyệt đạo có thể thông xuống tận âm ty địa phủ. Trên đỉnh của núi thì mạch của nó có thể thông lên đến tận trời xanh. Phát hiện này của ông Tô Lịch đã khiến Núi Nùng ở Long Đỗ Hương chẳng những là trung tâm, là cao điểm, là tiêu điểm, là tụ điểm mà còn là linh điểm.

Cũng chính vì thế mà suốt 1.000 năm Bắc thuộc, các thời kỳ từ Nam Việt - Lưỡng Hán cho đến Tùy Đường cai trị Giao Chỉ đều ưu tiên lựa chọn núi Nùng để xây trung tâm hành chính, và dựa vào địa thế của sông Tô mà được bảo vệ và phát triển. Như vậy núi Nùng sông Tô là một cặp biểu tượng đã xuất hiện từ TCN chứ không phải đến thời Thăng Long mới có. 

Đến giai đoạn Thăng Long, chúng ta cần phải quan tâm đến chuyện vua Lý Thái Tổ dời đô. Kinh đô của nước Đại Cồ Việt lúc đó đang ở Hoa Lư "thành thì hẹp, đất thì thấp". Vậy muốn dời đô, vua Lý Thái Tổ quyết định đi đâu?

Ông ta có thể hoàn toàn chọn Cổ Loa. Sau An Dương Vương (Thục Phán) cả nghìn năm, Ngô Quyền lại định đô ở đó. Nhà Ngô lập nước từ 939 đến 965 thì sụp đổ. Vậy là cho đến lúc Lý Thái Tổ quyết định dời đô (1010) thời gian không hề xa. Thành Cổ Loa vẫn còn là một tòa thành tốt, lại nằm ở vị trí trung tâm. Nhưng ông đã không chọn.

Ông cũng có thể hoàn toàn chọn ngay chính quê ông, Đình Bảng Bắc Ninh. Vua đương triều thì chỉ cần ra một sách lệnh là gạch ngói, phu phen sẽ ùn ùn tập kết đến để xây kinh đô ngay. Lê Lợi xây kinh đô ở quê gốc của mình là Lam Kinh, Đinh Tiên Hoàng xây Hoa Lư cũng là ở quê mình. Nhưng mà Lý Thái tổ không chọn quê để định đô. Mà ông lại quyết định chọn Đại La. Vì sao?

Vì tất cả những địa danh trên, từ Cổ Loa, Đình Bảng, Lam Kinh hay cả Hoa Lư... đều ở phía Bắc của sông Nhị Hà (sông Hồng), phía Bắc của sông Tô Lịch. Chỉ có Đại La với trung tâm là điểm Rốn Rồng đó mới có sông Tô để mà làm hào sâu vừa để phòng ngự vừa để che chở. Thực tế sông Tô suốt cả 2.000 năm nay vẫn chính xác là một hào nước lớn của thành Đại La - Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.

Vậy là sông Tô có nhiệm vụ phòng ngự cho kinh thành. Quan trọng hơn nữa, cùng với sông Tô ở phía trong, nhích ra một tý ở vòng ngoài, Đại La còn có con sông Cái bảo vệ. Tên gốc của sông Hồng ngày hôm nay chính là sông Cái.

Bản đồ Hà Nội cuối thế kỷ 19 trong Đồng Khánh Địa Dư Chí, tiếp tục thể hiện sông Tô Lịch còn vẹn nguyên và ôm trọn, cùng với sông Cái (sông Hồng) tạo thành 3 mặt bảo vệ thành Thăng Long. Ảnh tư liệu. Nguồn trích dẫn: Báo Kiến Thức.

Nghĩa của chữ Cái rất hay. Nó thể hiện được trí tuệ dân gian của người Việt cổ khi đặt tên. Cái là một từ đa nghĩa. Trong trường hợp "con dại cái mang", cái là mẹ. Trong trường hợp "trống cái", cái lại là to. Thế là cái có hai nghĩa mẹ và to. Nhưng chưa hết. Còn có trường hợp "đường cái", nó là đường chính yếu. Vậy là các sắc thái ý nghĩa từ "mẹ, to và chính yếu" đều được lấy ra để đặt tên gốc của con sông Hồng ngày hôm nay.

Người Pháp đặt tên con sông này là sông Hồng bởi vì họ là những nhà địa lý giỏi. Họ thấy con sông này nhiều phù sa. Phù sa lại màu hồng cho nên họ gọi là Fleuve Rouge. Chuyển sang tiếng Anh là Red River. Chuyển sang Hán ngữ là Hồng Hà. Kết hợp cả Nôm lẫn Hán ta gọi là sông Hồng.

Mà người Pháp chỉ mới đến đây từ thế kỷ 19, cho nên Hồng Hà, sông Hồng, Fleuve Rouge hay Red River… so với chiều dài 2.000 năm thì đó là một cái tên mới toanh.

Sông Cái mới là tên gốc. 

Sông Cái (sông Hồng) và cầu Long Biên trước đây. Ảnh tư liệu. Nguồn trích dẫn: Báo Kiến Thức.

Sông Cái và sông Tô Lịch là hai hào tử huyệt để che cho Long Đỗ, che cho Đại La. Cho nên Lý Thái Tổ không chọn những địa danh kia mà chọn chỗ này là vì những lý do đó. Cặp mắt của Lý Thái Tổ không chỉ là cặp mắt của một nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà quân sự mà còn là của một nhà sử học.

Để rồi mãi về sau, bao nhiêu lần "Thăng Long phi chiến địa" phần lớn là nhờ vào những kiến thức lịch sử về một dòng sông.

Tới cuối thế kỷ 19, dòng sông Tô Lịch cũng chính là nhân chứng cho việc người Pháp hai lần chiếm đánh thành Hà Nội. Tất cả những lần chiếm Hà Nội của người Pháp đều phải dùng pháo thuyền (một loại thuyền chiến có trang bị các loại pháo hạm tầm xa) di chuyển từ cửa biển ngược dòng sông Hồng rồi vào sông Tô Lịch mà nã pháo, chiếm thành.

Cổng thành Cửa Bắc mà ngày này chúng ta vẫn thấy là nằm trên phố Phan Đình Phùng. Con đường đó có được là bởi người Pháp sau khi chiếm Hà Nội đã cho lấp đoạn sông Tô chảy qua. Khi Pháp đánh cổng thành Cửa Bắc, ông Hoàng Diệu dù đang ốm vẫn quyết lên Cửa Bắc để chỉ huy giữ thành, ấy là đang trông xuống sống Tô.


Thành Cửa Bắc với hào nước trước mặt chính là sông Tô Lịch, bức ảnh này là khi chưa bị đạn pháo bắn. Bức còn lại là tường thành đã có dấu đạn pháo khi quân Pháp công thành. Ảnh tư liệu. Nguồn trích dẫn: VietnamLandmarks; 36hn.

Thời đó đoạn sông này còn rất to, rộng 20m, sâu 3m, lại còn được thả cả chông gai bên dưới. Cho nên Pháp mới không vào được và phải bắn pháo hạm vào chỗ cổng thành Cửa Bắc.

Nhưng cũng từ những vết đạn đại bác ở cửa thành đó, từ sau cái ngày 25/4/1882, tương lai của sông Tô Lịch trở nên bi đát như chính đô thành Hà Nội vừa thất thủ, như chính cả dân tộc Việt Nam bị lầm than dưới thời Pháp thuộc. Hàng nghìn năm sông thiêng chứng kiến thịnh suy, và sức vươn lên của con người, của dân tộc Việt Nam; vậy mà chỉ cần có gần 80 năm, người Pháp với tư duy đại lục địa của mình, đã góp phần đường phố hóa, bê tông hóa một dòng sông lịch sử. Người Hà Nội hôm nay có cần phải cống mương hóa rồi lấp kín nó luôn đi không? 

Cho đến trước khi bị lấp một phần, sông Tô bắt nguồn từ sông Hồng chảy từ Đông sang Tây rồi xuôi xuống phía Nam Hà Nội. Hồ sơ lưu trữ của người Pháp cho thấy, 30km chiều dài sông Tô chở theo mạch nguồn lịch sử 2000 năm, có đến 30 làng xã dựa vào dòng nước vừa trong vừa mát ấy mà ra đời, rồi thịnh suy theo dòng nước.

Sơ đồ thể hiện sự ảnh hưởng lịch sử và văn hoá của dòng sông Tô Lịch với những ngôi làng ven sông. Sơ đồ được chúng tôi vẽ lại một phần từ tài liệu "La rivière Tô Lịch dans le paysage de Hanoi" (tạm dịch: Sông Tô Lịch trong cảnh quan Hà Nội) của Đỗ Xuân Sơn.

Khởi thủy sông Tô Lịch đã đóng vai trò như một tuyến đường giao thông quan trọng của Long Đỗ Hương, vốn đã có được dòng lạch to lớn. Sử sách chép lại, sông Tô Lịch xưa dài 30km, bề ngang rất rộng và là hệ thống giao thông đường thủy quan trọng từ phía Đông vào thành Thăng Long. Dân gian miêu tả nó như thế này:

Nước sông Tô vừa trong vừa mát
Em ghé thuyền em sát thuyền anh
Dừng chèo muốn ngỏ tâm tình
Sông bao nhiêu nước thương mình bấy nhiêu.

Hoặc:

Sông Tô nước chảy trong ngần
Con thuyền buồm trắng lướt gần lướt xa
Thon thon hai mái chèo hoa
Lướt đi, lướt lại như là bướm bay

Điểm cốt yếu tạo ra sức sống và vẻ đẹp của sông Tô Lịch chính là nằm ở 2 cửa thông với sông Nhị Hà. Hai cửa sông này như hai huyệt đạo quyết định đến sự tồn vong của dòng sông.

Cửa thứ nhất ở khu vực phố Chợ Gạo ngày nay. Nó nằm ngay dưới nền của tòa nhà Ngân hàng Kỹ Thương Việt Nam, tòa Techcombank đồ sộ.

Tranh vẽ thể hiện cửa sông nơi sông Tô Lịch giao với sông Hồng ngày xưa (là phố Chợ Gạo ngày nay). Nguồn: "La rivière Tô Lịch dans le paysage de Hanoi" của Đỗ Xuân Sơn.

Theo thực địa thì vào năm 1889, thực dân Pháp với chính sách lục địa hóa, đồng bằng hóa, mở rộng Hà Nội đã cho lấp đoạn đầu nguồn này của sông Tô Lịch. Từ đó mới xuất hiện phố Chợ Gạo. Có tên Chợ Gạo là bởi vì, nó là chỗ để người ta thuyền bè ngược xuôi buôn gạo ở ngay cửa sông Tô.

Từ phố Chợ Gạo, dòng Tô thông sang phố Nguyễn Siêu ngày nay. Tại sao con phố đó có tên là Nguyễn Siêu? Tại vì khu làng ven bờ sông đó, vốn có nhà của ông Nguyễn Văn Siêu. Ông sống ở đó từ nhỏ, sau thành tài, mở trường dạy học ngay bên bờ sông.



Tranh vẽ mô tả cửa sông Tô Lịch (Chợ Gạo ngày nay) và quang cảnh, đời sống trong thành Thăng Long xưa. Nguồn trích dẫn: 36hn.

Sông Tô lúc bấy giờ rộng lớn mênh mang, vừa là nơi thuyền bè tập kết buôn bán nhưng đồng thời cũng là nơi ngân nga những tiếng giảng bài, đọc thơ của các danh sĩ đến đây ngâm vịnh. Đặc biệt là danh sĩ Nguyễn Siêu, người xây đền Ngọc Sơn, người để lại bút tích Tả Thanh Thiên ở Tháp Bút, chính là ông ấy đấy. Ở số nhà 12 phố Nguyễn Siêu bây giờ ngày xưa là trường Phương Đình của Nguyễn Văn Siêu. Đình là cái nhà to, Phương là vuông. Và ông đã có câu rất hay:

Cố tri viên thị trí
Nguyện thủ phương vi hình

(Vẫn biết rằng tròn là khôn đấy
Nhưng ta quyết chọn sống vuông)

Có lẽ vì lựa chọn của mình như thế, mà ông xây ngôi trường hình vuông và đặt tên là Phương Đình ở ngay bên bờ sông Tô Lịch.

Vì thế mà đến năm 1889, khi người Pháp lấp quãng sông ấy, dựng thành con phố thì phố đó đã được đặt tên là phố Nguyễn Siêu. Bây giờ ở số nhà 20, vẫn còn dấu tích trường học, đề Phương Đình, được dùng làm nơi thờ tự Nguyễn Siêu.

Hết phố Nguyễn Siêu dòng sông chạy ngược lên, bị lấp thành phố Ngõ Gạch. Từ đó mới ngoặt vào cắt đôi phố Hàng Đường, người xưa đã phải dựng một cái cầu bắc qua để nối bên này Hàng Đường với bên kia Hàng Đường. Ở trên đầu cầu còn có tượng ông phật Di Lặc suốt ngày đêm ngồi cười. Chính là Cầu Đông đấy. Chợ Cầu Đông nổi tiếng trong câu ca dao:

Bà già đi chợ cầu Đông
Xem một quẻ bói lấy chồng lợi chăng
Thầy bói gieo quả phán rằng
Lợi thì có lợi nhưng răng chẳng còn

Thế rồi sông chảy tiếp sang bên kia đường là phố Hàng Cá. Cà phê chỗ Hàng Cá rất ngon.

Từ đây, sông mới ngoặt một cái ra Hàng Lược. Ở chỗ ấy người ta xây một cái cống, vì nó chéo, thành ra mới có tên phố Cống Chéo hàng Lược. Chỗ mà bây giờ người ta hay nhắc đến phiên chợ hoa ngày Tết, là ở chính đấy.

Tiếp theo, sông chảy lên phố Hàng Cót, rồi đổ vào đường Phan Đình Phùng, với Thành Cửa Bắc như tôi vừa nói ở trên. Từ đây, sông chạy qua Cửa Bắc, lên ô Thụy Khuê chỗ xưởng phim truyện, số nhà 4.

Vì là cửa lớn đầu tiên bị bịt mất rồi, nên từ thời cuối thế kỷ 19, người ta truyền nhau rằng sông Tô Lịch được bắt nguồn từ chỗ Thụy Khuê đường Bưởi, lấy nước Hồ Tây và uốn lượn qua núi Sưa ở Bách Thảo ngày nay.

Nhầm tai hại là ở đó!

Trong vườn Bách Thảo hiện vẫn có dấu tích của sông Tô Lịch, nhưng nó chỉ còn là cái rãnh con con thôi. Từ đây, sông Tô ngược lên vùng Bưởi. Quãng sông này có di tích đáng chú ý là đền thờ thần Đồng Cổ, hay còn gọi là thần Trống Đồng, một vị thần cổ xưa xuất hiện từ thời Vua Hùng.

Sách Việt Điện u linh có chép: Năm 1028, trước ngày Lý Thái Tổ mất, thái tử là Lý Phật Mã mộng thấy thần Đồng Cổ báo rằng: "Ba vị tước vương mưu làm phản!". Do có phòng bị, lại được các tướng Lê Phụng Hiểu, Lê Nhân Nghĩa giúp, nên thái tử đã dẹp được cuộc nổi loạn này. Mười ngày sau khi lên ngôi, Phật Mã (tức vua Lý Thái Tông) cho xây ngay đền thờ thần Đồng Cổ ở nơi gặp nhau của sông Thiên Phù và sông Tô Lịch, thuộc làng Đông Xã nội thành Đại La. Bây giờ nó vẫn ở đấy, tại số 353 đường Thụy Khuê.

Đền Đồng Cổ có hội thề rất ý nghĩa với lời thề Trung Hiếu: "Làm tôi bất trung, làm con bất hiếu, thần minh tru diệt". Lời thề độc lắm, bách quan văn võ đều phải thề như thế.

Từ Thụy Khuê, sông mới chảy ngược lên trên Bưởi và ngoặt một cái nối với làng Hồ Khẩu. Hồ này tức là Hồ Tây còn Khẩu là cửa. Đó chính là cửa sông còn lại của Tô Lịch ngày xưa.

Bản đồ Hà Nội giai đoạn 1428 - 1527 rút từ tài liệu "La rivière Tô Lịch dans le paysage de Hanoi" của Đỗ Xuân Sơn. Ghi chú số 1, 2 do chúng tôi thêm vào.

Sau 1889, khi chính thức bị bít 2 cửa sông lại, Tô Lịch coi như trở thành dòng sông chết. Nó báo hiệu một thời kỳ suy vong của thành Hà Nội, của cả đất nước Việt Nam khi đó. 

Nếu cống hóa sông Tô Lịch, mọi thứ ở Hà Nội này có thể sẽ chẳng còn nguồn cội nữa. Nên tôi mới nói, không phải mắng ông bí thư quận ủy kia vì mỗi người một quan điểm, nhưng không thể giết chết sông Tô Lịch! Kể cả sau này, ai "lăm le" giết chết dòng sông này, thì không còn mặt mũi nào nhìn vào tổ tiên ngàn đời!

Trong lịch sử 2000 năm của sông Tô Lịch, không thể không nhắc tới ngôi chùa cổ nhất Hà Nội và ngôi đền cũng cổ nhất.

Đầu tiên, phải khẳng định rằng cặp biểu tưởng núi Nùng sông Tô mang đến cho Hà Nội cơ hội tìm hiểu về cội nguồn của sự tôn trọng điều linh thiêng, tôn kính thần linh, tổ tiên. Xét trên một khía cạnh nào đó, đây là phương cách giúp người ta sống và tồn tại một cách có ý nghĩa và tự hào. Vây, ta cần biết cơ sở tôn giáo hay tín ngưỡng nào xuất hiện trước nhất ở Hà Nội? Ở trường hợp này, cần phải nói rõ hơn là chùa nào cổ nhất ở Hà Nội đến nay còn lưu giữ được?

Đó là chùa Trấn Quốc.

Chùa Trấn Quốc ngày nay. Nguồn trích dẫn: Vietravel


Trước khi mang tên Trấn Quốc vào thế kỷ 19 thì chùa này đã có tên là chùa An Quốc, vào thế kỷ 15. Trước giai đoạn này khoảng 1000 năm, vào thời Lý Nam Đế, năm 544, khi ông ấy xây thành ven sông Tô Lịch, tòa thành đó có tên là Tô Lịch Giang thành, nằm ngay bờ con sông Tô Lịch.

Năm 546, dũng tướng Phạm Tu, bây giờ đóng quân ở quê hương là Văn Điển, chỗ sông Tô nối với sông Nhuệ, đã xuôi theo dòng sông, hành binh đến Tô Lịch Giang thành, đánh nhau với quân Lương xâm lược để bảo vệ thành, và hy sinh ở đó. Hành trình từ đầu nguồn đến cửa sông Tô đánh giặc của Phạm Tu trở thành câu chuyện cực kỳ bi tráng trong lịch sử giữ nước của nhà nước Vạn Xuân non trẻ.

Lý Nam Đế trước khi qua đời đã kịp để lại cho hậu thế những công trình lớn ở ngay bên bờ sông Tô Lịch. Công trình chính trị là Đài Vạn Xuân, nơi tụ hội trăm quan, công trình quân sự là Tô Lịch Giang thành, và công trình văn hóa là chùa Khai Quốc - tức là chùa mở nước, cùng một lúc với thời điểm đặt ra nước Vạn Xuân.

Chùa Khai Quốc ở thế kỷ thứ 6, sau này chính là nền đất để hình thành nên ngôi chùa An Quốc ở thế kỷ 15. Ba ngôi chùa ở 3 thời đại khác nhau, được tôn tạo trên cùng một vị trí, tất cả đều liên quan đến Quốc cả: Khai Quốc, An Quốc, Trấn Quốc - ngôi chùa cổ nhất ở Hà Nội ngày nay.

Cống mương hóa sông Tô Lịch, là chôn vùi luôn gốc tích của cơ sở tôn giáo cổ xưa nhất Hà Nội này.

Còn ngôi đền cổ nhất Hà Nội thì sao? Đó là đền Bạch Mã thờ thần Long Đỗ. Long Đỗ như đã nói đó, là Rốn Rồng.

Đền Bạch Mã xưa. Nguồn trích dẫn: Hanoi.gov.vn


Nếu như chùa Khai Quốc có niên đại từ quãng năm 544 thì đền Bạch Mã có niên đại chắc chắn vào năm 866, thế kỷ IX. Còn trước đó, nó ra đời từ một hành động tôi cho là rất "fair-play" của Cao Biền.

Cao Biền làm Tiết Độ sứ ở Tĩnh Hải quân (một tên gọi của Việt Nam trong thời kỳ Bắc thuộc) cất công đắp thành Đại La, lấy núi Long Đỗ làm trung tâm. Nhìn từ núi Long Đỗ về phía đông, Tiết Độ sứ chọn khu vực Cầu Đông của sông Tô Lịch để mở cửa thành. Một hôm, Cao Biền ra chơi ngoài cửa đông, chợt thấy lòng sông có chỗ mây mù tối tăm, thoáng bóng người kì dị, mặc áo hoa, cưỡi rồng đỏ, tay cầm thẻ bài màu vàng, bay lượn mãi theo mây. Cao Biền kinh sợ, lấy bùa ra trấn yểm.

Chẳng dè, ngay đêm đó, thần Long Đỗ sai mưa gió sấm sét đánh xuống dữ dội. Sáng ra xem, Cao Biền thấy vàng, đồng và bùa trấn yểm đều đã tan thành cát bụi. Mọi bùa yểm lúc đó như Việt Điện u linh chép: nát vụn ra như cám.

Cao Biền lấy làm sợ hãi, biết là mình đã thua thần nước Nam, liền nói một câu vẫn còn được ghi rõ trong Việt Điện u linh: "Đất này còn lắm thần linh, ta không thắng được, tất có ngày bị thần đánh bại." Sau câu nói đó, bèn cho lập đền thờ ở ngay chỗ ấy để phụng thờ Long Đỗ thần quân.

Đến thời Đinh Tiên Hoàng, đền thờ thần Long Đỗ được dựng lại đúng ở vị trí cũ (ngày hôm nay là số 76 phố Hàng Buồm) và mang tên Bạch Mã.

Thế kỷ thứ 11, Lý Thái Tổ dời kinh đô đến đất này, đổi Đại La thành Thăng Long. Nhà vua sai đắp lại thành, nhưng hễ thành đắp xong lại lở, bèn sai người đến cầu đảo thần Long Đỗ. Chợt người cầu đảo thấy có con ngựa trắng từ trong đền đi ra, dạo quanh thành một vòng, đi tới đâu, để vết chân rõ ràng tại đó, cuối cùng vào đền rồi biến mất. Sau nhà vua cứ theo vết chân ngựa mà đắp thành thì thành không lở nữa. Vua bèn nhân đó, phong thần Long Đỗ làm thành hoàng của Thăng Long. Các vua đời sau cũng theo đó mà phong tới Bạch Mã Quảng Lợi Tối Linh Thượng Đẳng Thần.

Bên trong Đền Bạch Mã. Nguồn trích dẫn: Báo Kiến Thức

Cống mương hóa con sông Tô Lịch, là điều mà Cao Biền không làm nổi và không dám làm trong đời. Tục truyền rằng, trận thua khiến Cao Biền tâm phục khẩu phục mà lập ra đền thờ thần Long Đỗ là lần thua duy nhất trong đời của tay phù thủy Cao Biền.

Mọi dòng sông đều có vận mệnh của nó. Nhìn vào từng giai đoạn lịch sử suốt 2000 năm, thế kỷ thứ 10 - 11 - 12 có thể coi là lúc mà sông Tô Lịch ở vào giai đoạn hào hoa, huy hoàng, rực rỡ. Giai đoạn mà người kinh thành nói riêng, người Việt nói chung ký thác cả đời sống văn hóa tinh thần, đời sống kinh tế, đời sống quân sự vào dòng sông Tô.

Thời kỳ này có một ngôi làng điển hình của Hà Nội dựa vào dòng sông Tô mà hình thành và phát triển. Đó là làng Láng, gắn với di tích Chùa Láng và nghề trồng húng Láng nổi danh.

Cắt nghĩa tên làng này mới thấy được vẻ đẹp của dòng sông Tô Lịch.

Láng là tên nôm của Hương Yên Lãng trong sử sách, hay An Lãng, gồm Láng Thượng, Láng Hạ, Láng Trung. Yên hay An đều có nghĩa là lặng, ổn định. Còn Lãng ở đây có nhiều nghĩa, vừa là sóng (phong bình lãng tĩnh - gió yên sóng lặng), vừa là sáng, rực rỡ (thiên sắc thanh lãng - màu trời trong xanh).

Ở nét nghĩa nào thì tên ngôi làng này cũng đều mô tả trọn vẹn vẻ đẹp của nó là bình yên, đẹp đẽ, sáng trong, rực rỡ.

Người dân làng Láng còn cắt nghĩa cho tên làng mình rất thú vị. Vì dòng sông Tô Lịch nước vốn trong xanh, dân làng Láng thuần nông chuyên múc nước sông Tô tưới rau trên đồng dưới bãi.

Đêm trăng sáng, lấy một gàu nước mà hắt xuống thế này. Lênh láng! Là Láng đấy. Dồi dào và trong sáng. Tên làng đặt cũng từ vẻ đẹp của dòng sông là thế.

Làng Láng có ông bà Từ Vinh và Tằng Thị Loan sinh ra một người con trai, là Từ Đạo Hạnh. Đạo sĩ Từ Vinh làm quan trong triều, nhưng hay dùng phép thuật ngoài đời, có lúc còn quấy nhiễu nhà Diên Đình Hầu, mà bị pháp sư Đại Điên ở Dịch Vọng dùng phép thuật chém chết. Gia cảnh ly tán, Từ Đạo Hạnh đi tu ở chùa Thầy. Thậm chí, truyền thuyết kể Từ Đạo Hạnh sang tận cả Tây Trúc để học pháp, rồi trở về với phép thuật tinh thông. Nhớ mối thù giết cha, Từ Đạo Hạnh hóa ra cây gậy trôi ngược sông Tô Lịch đến chỗ Đại Điên, y ra xem liền bị gậy vụt chết. Nay còn có địa danh ngõ Vụt ở làng Yên Hòa!

Sau này, Từ Đạo Hạnh dùng phép thuật đầu thai làm con của Sùng Hiền Hầu, em vua Lý Nhân Tông. Năm 1128, con Sùng Hiền Hầu lên ngôi báu, lấy hiệu là Lý Thần Tông. Tương truyền, sau khi lên ngôi, Lý Thần Tông đã cho xây Chùa Láng để thờ Từ Đạo Hạnh. Chùa có tên chữ là Chiêu Thiền tự, một danh lam của Thăng Long.

Hình ảnh chùa Láng thời xưa. Ảnh tư liệu. Nguồn trích dẫn: Nguoihanoi.com.vn - 36hn.

Trong hậu cung Chùa Láng ngày nay vẫn còn có tượng Từ Đạo Hạnh làm bằng mây đan, sơn then đặc sắc. Sân chùa có lầu bát giác, đường dẫn vào chùa có hai hàng cây muỗm cổ thụ. Xưa kia chùa còn có những cây đại thụ cổ kính hàng ngàn tuổi. Bên cạnh chùa Láng được coi là trung tâm đã hình thành cả một tiểu vùng văn hóa Láng với nhiều đền miếu, chùa chiền, trải dọc theo bờ sông Tô Lịch. Từ cuối triều Lê, có người đến thăm Chùa Láng đã ghi lại bài thơ truyền qua mấy thế kỷ:

Đệ nhất tùng lâm có phải đây?
Có ai cho vái hỏi thăm Thầy
Ngai vàng hai kiếp rồi đâu tá?
Trơ trọi thông già đứng réo mây!

Không chỉ riêng Láng, cả một vùng làng từ nghề nông, nghề giấy, nghề dệt lụa, nghề thương nghiệp… của đất Thăng Long đều là trông vào nước sông Tô Lịch. Bây giờ nếu lấp hết sông đi, thử hỏi những làng nghề, phố nghề của Hà Nội biết tìm nguồn cội ở đâu?

Không thể lấp sông! Nhưng còn CỨU SÔNG thế nào? Tuy cho đến nay chưa có một giải pháp được thực hiện hiệu quả, nhưng tôi cho rằng cứu được hay không cứu được sông Tô Lịch trước hết người ta phải biết rõ "bệnh sử" của nó đã. Đây là nguyên tắc đầu tiên trong mọi quá trình khám chữa bệnh! Vậy mà tôi thấy chẳng ai chịu tìm hiểu cho hai năm rõ mười cả! 

Vậy "bệnh sử" của sông Tô thế nào?

Một chi tiết vô cùng quan trọng mà những người muốn cứu sông Tô phải biết, cho đến thế kỷ 16 - 17 - 18 nước sông Tô vẫn "vừa trong vừa mát". Tô Lịch lúc bấy giờ vẫn giữ được hệ thống luồng to lạch lớn. Chỉ khi người Pháp chiếm được thành Hà Nội, chính thức bắt tay vào quá trình khai thác thuộc địa tại Việt Nam, sông Tô Lịch mới bắt đầu bị bức tử.

Chỗ này có một vấn đề về lý thuyết phải chú ý. Kinh đô Thăng Long - một "thành phố sông hồ", đấy là mệnh danh của các giáo sĩ phương Tây. Alexandre de Rhodes còn so sánh Thăng Long với Vienna cơ mà.

Đặc trưng nổi bật của thành phố này là nhiều mạch sông, hồ, dẫn đến chỗ nào cũng có nước và lầy lội; quá thiếu thốn quỹ đất để xây dựng nên một thành phố theo quan niệm của các kỹ sư xây dựng đến từ Pháp. Người Pháp lại càng sợ môi trường ẩm thấp, đầy mầm bệnh truyền nhiễm ở tiểu vùng khí hậu nóng ẩm nhiệt đới gió mùa như Hà Nội.

Mang văn minh từ cựu lục địa châu Âu đến để khai hóa thành phố này, người Pháp quyết tâm biến Hà Nội của sự lầy lội, cổ xưa, lạc hậu, trở thành "tiểu Paris phương Đông" thời bấy giờ. Lý thuyết cảnh quan của nước Pháp cho rằng "chúng ta không đến để nhìn vào tự nhiên những gì chúng ta thích trong tự nhiên. Chúng ta sẽ đi nhìn vào tự nhiên những gì quyến rũ chúng ta trong nghệ thuật." Như vậy, họ đã mang theo cái được gọi là văn minh và nghệ thuật của châu Âu đến để quy hoạch cho Hà Nội theo cách mà họ muốn.

Thứ quyến rũ được người Pháp lúc đó phải là những gì đến từ châu Âu, giống hay na ná với nước Pháp, tư duy của thực dân là ở chỗ đó. Gần như phủ định tất cả dấu ấn cổ truyền của vùng đất thuộc địa. Thăng Long được người Pháp gọi là Kẻ Chợ, kinh đô của vương quốc Đằng Ngoài, thứ văn minh tre nứa, giờ phải chuyển sang gạch đá châu Âu. Tiếp nữa là giao thông từ đường thủy, sông hồ  phải trở thành đường xá của châu Âu; thế thì người Pháp mới đúng là người mở đường, khai hóa. Cách mà người Pháp nâng đường cái quan thành đường quốc lộ, mở thêm hàng chục con đường trên nền những lối đi tắt thời phong kiến... tất cả đều xuất phát từ học thuyết của người cai trị.

Phải công nhận là với thuyết đó, người Pháp đã làm việc một cách rất bài bản. Đầu tiên, họ nghiên cứu kỹ dòng chảy của sông Tô Lịch. Những thông số ghi chép đã chỉ ra rằng, vùng Giang Khẩu (phố Chợ Gạo ngày nay) của sông Tô Lịch được sông Hồng bồi lắng lượng phù sa rất lớn. Việc bồi lắng ở cửa phân lưu này ngày càng mạnh đã ảnh hưởng lớn đến đời sống của cư dân quanh đó. Sử các đời Lý - Trần - Lê cũng đã chép, một số lần dân kinh thành phải khơi vét lòng sông.

Đây là điểm tiên quyết để người Pháp đưa ra phương án đắp sông Tô từ Thụy Khuê qua các đường phố Phan Đình Phùng, cống chéo Hàng Lược, Ngõ Gạch… rồi tiến dần tiến dần ra đến chân cầu Long Biên ngày nay. Để lục địa hóa thành phố sông hồ này, một mặt họ lấp 2 cửa sông Tô, lấp lòng sông; một mặt mở đường, xây cầu, làm nhà trên những khu đất mới nhân tạo thành.

Năm 1902, Hà Nội trở thành thủ đô của Liên bang Đông Dương, cái tên Tiểu Paris phương Đông bóng bẩy được cất lên từ đó, cũng là lúc, đặc trưng của thành phố sông (ville - fleuve) suốt 2000 qua chính thức chấm dứt. Sông Tô Lịch trên thực tế chỉ còn giữ lại được 13,7km chiều dài.

Chính vì thế mà thành phố sông hồ này biến chất, làm chết luôn cả dòng sông mà đã ra đời cùng nó. Đây là một vấn đề có tính chất lý thuyết trong việc kiến tạo đô thị của người Pháp, tìm hiểu kỹ thì còn có nhiều kiến thức đô thị học rất quan trọng.

Đô thị Hà Nội từ đô thị sông nước thành đô thị lục địa mắc phải một vấn nạn nan giải bao năm nay: mưa xuống một cái là ngập luôn.

Phố Phùng Hưng, theo tài liệu của Doãn Kế Thiện, Chủ tịch Mặt trận tổ quốc khóa đầu tiên của thành phố Hà Nội, còn có cái hồ gọi là hồ Xác Trẻ. Vì thực chất, Phùng Hưng vốn là con hào nước, không có phố.

Thế thì những ca đẻ ra mà không nuôi được, vừa đẻ ra đã mất, các cụ mới cho đấy là cái chuyện con ranh, con lộn. Những cái đứa trẻ mắc phải cái số phận con ranh, con lộn, tức là vừa đẻ ra là con ranh rồi lại lộn vào bụng mẹ để lại trở thành con ranh. Họ mới cắt vòng con ranh con lộn đó bằng cách đứa trẻ sinh ra, chết thì quẳng xác xuống hồ, không cho nó thành con ranh con lộn nữa. Hồ đó thực chất là một khúc sông Tô Lịch, sau này được người Pháp lấp thành phố với tên Pháp là Boulvard Henri d’Orléans, quận công xứ Orléans.

Phùng Hưng rồi mấy con phố bên cạnh như Hà Trung, Nhà Hỏa, Đường Thành, khu vực chợ Hàng Da… cứ mưa một trận mà xem, ngập nước là chuyện bình thường.

Quãng hơn 20 năm trước đây, thế hệ của những người giờ đây có thể là tiến sĩ, là giáo sư, là doanh nhân, là những nhà quản lý hoặc là người bình thường thôi, trên dưới 50 tuổi; lúc ấy đang còn thanh niên, họ chính là những người gần như cuối cùng còn được nhìn thấy dòng sông Tô Lịch vẫn trong, vẫn xanh, vẫn có thể dùng để tưới cho cây cối và chống hạn cho ruộng đồng.

Đến bây giờ thì chết hẳn rồi.

Những đứa trẻ chủ nhân của Thăng Long - Hà Nội 1.000 năm hôm nay sinh ra là đã thấy nước sông Tô Lịch đen kịt, bốc mùi thối rữa…

Vậy ai đã giết sông Tô Lịch? Cái này người Hà Nội phải biết rõ hơn ai hết. Một dòng sông sống tốt suốt 2000 năm, rồi bị làm cho teo tóp cỡ 100 năm, và chết lâm sàng mới vài chục năm; vậy chúng ta có thể cứu chữa nó được không?

Chỉ người Hà Nội mới có thể trả lời được bằng chính nhu cầu được sống, tồn tại và phát triển một cách có ý nghĩa của chính mình.

Bao nhiêu biện pháp, bao nhiêu đề án, dự án làm trong sạch rồi làm sống lại sông Tô Lịch hiện nay, đều chỉ là chữa ngọn mà thôi. Người ta đang chữa mà không quan tâm đến tiền sử bệnh lý của bản thân dòng sông Tô, tiền sử của bản thân đời sống xã hội thành phố Hà Nội, tiền sử của ngọn nguồn hệ thống thủy văn, thủy lợi cả khu vực đồng bằng sông Hồng này.

Các cống xả thải ngày nay ra sông Tô Lịch.

Qua những biểu hiện lâm sàng của sông Tô Lịch hiện nay, kết hợp với với những thông tin lịch sử, chúng ta cần hiểu rằng, dòng sông này đang chết vì bị bịt hết các cửa ra vào của nó. Cửa ra vào chính là Giang Khẩu ở chợ Gạo, cửa phụ là Hồ Khẩu ở Bưởi. Đã bị cắt nguồn cấp nước vào ra tự nhiên, Tô Lịch này lại còn bị đầu độc mỗi ngày một khủng khiếp hơn bởi nước thải.

Theo tính toán, hiện nay trên toàn tuyến sông Tô Lịch có đến 13 điểm xả thải chính xuống lòng sông. Đấy là chưa kể quãng 200 cống thoát nước sinh hoạt lớn nhỏ dân sinh từ cỡ 100 cơ sở tiểu thụ công nghiệp ở các làng nghề ven sông…

Biết được những nguyên nhân ấy rồi, người có trách nhiệm, người có tâm nguyện muốn cứu sông Tô, liệu có thể đưa ra phác đồ chính xác và phù hợp hay không?


 
Nhà sử học Lê Văn Lan
 
Thanh An - Hải Trung
 
Đỗ Linh
 

Nguồn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét