Phạm Thị Hoài - Tư cách trí thức Việt Nam
Phạm Thị Hoài
Mạng Ý Kiến: Mặc dù tác giả Phạm Thị Hoài không
muốn phổ biến bài, nhưng trong hoàn cảnh hiện nay, nhìn từ góc độ Con Người
Việt Nam, trong đó có giai tầng trí thức (?), bài có ý nghĩa rất lớn; do đó để
độc giả có thêm một nhận định về con người Việt Nam, về trí thức Việt Nam,
chúng tôi xin mạn phép trích đăng bài. May ra việc xem xét lại về chiều sâu Con
Người Việt Nam khiến cho chúng ta tìm ra được các câu trả lời để thoát khỏi
tình trạng bế tắc hiện nay (nếu không muốn nói là cuộc tổng khủng hoảng con
người, xã hội), đặt nền móng cho công cuộc xây dựng một nước Việt Nam mới sau
này. Mong lắm thay !!!
Phạm Thị Hoài: Bài nói chuyện này tôi không muốn phổ
biến rộng hơn phạm vi của buổi toạ đàm tháng Mười 2000 tại Berlin, và đương
nhiên đã không cho phép sử dụng và đăng tải tại bất cứ nơi nào. Song vì những
hiểu lầm nhất định, tạp chí Cánh Én đã đăng bài này tháng 4/2001 và tổ chức
thảo luận trên diễn đàn liên mạng Trí thức Việt Nam. Vì bản chuyển từ băng ghi
âm do Cánh Én thực hiện và không hề thông qua tác giả có vô số sai sót, tôi
đành tự ghi lại bài nói chuyện này để có một tư liệu đúng. Ðó là lí do duy nhất
về phía tôi cho việc đăng tải mà trước sau tôi vẫn không muốn...
Vấn đề tôi muốn đặt ra ở đây rất đơn giản,
xin những vị có ý chờ đợi ở một nhà văn những tư tưởng cao siêu, phức tạp thể
tất cho. Tất nhiên là mọi vấn đề của hiện thực Việt Nam đều rất phức tạp. Nhưng
tôi nghĩ rằng, cái cách dễ dàng nhất, láu lỉnh nhất để khỏi phải đối mặt với cái
hiện thực này chính là làm cho nó phức tạp hơn bản thân nó. Mà văn nghệ sĩ và
trí thức Việt Nam có một căn bệnh trầm kha là, khi sự vật dường như không thể
giải quyết nổi theo các tiêu chí của nho sĩ, hiệp sĩ hay chiến sĩ thì nó lập
tức được nhìn theo nhãn quang của phương sĩ, hay đạo sĩ. Ðấy là một thứ nhãn
quan tất nhiên rất thú vị và vô cùng phức tạp, thú vị và phức tạp tới mức cho
phép người ta có thể mải mê trong chính nó, và bản thân hiện thực chỉ còn là
cái cớ rất phụ mà thôi. Nhưng chúng ta sẽ trở lại cái hiện thực này ở một đoạn
sau. Bây giờ tôi chỉ xin nói trước là, trong buổi hôm nay chúng ta sẽ cố gắng
giản dị và sáng tỏ trong suy nghĩ của mình.
Xuất phát điểm của vấn đề mà tôi muốn đặt
ra cũng rất giản dị:
Sau ít nhất là hai ngàn năm có một cộng
đồng Việt, một dân tộc Việt, một văn hoá Việt, một quốc gia Việt, và sau ít
nhất là hai trăm năm có một lãnh thổ Việt như ngày nay, chúng ta vẫn là một
nước nghèo và lạc hậu vào hạng nhất thế giới. Nhưng vấn đề không phải chỉ ở chỗ
nghèo và lạc hậu. Nếu chỉ như vậy thì tôi còn chưa thấy có gì đáng sợ lắm.
Vấn đề một là ở chỗ: chưa bao giờ chúng ta
không như thế. Từ khi tôi sinh ra đã như vậy. Từ khi cha mẹ, ông bà tôi sinh ra
đã như vậy. Từ khi các cụ tôi sinh ra cũng như vậy. Khi các kỵ tôi sinh ra thì thế
giới lúc đó chỉ là Trung Hoa và Ấn Ðộ, nhưng bảng xếp hạng thì vẫn thế, không
có gì thay đổi. Nước Hy Lạp chẳng hạn là một nước hiện nay đang nghèo nhất cộng
đồng Châu Ấu, nhưng không phải bao giờ cũng thế. Nước Nga cũng đang vô cùng bê
bối, nhưng không phải lúc nào cũng thế. Chỉ có nước Việt là chưa bao giờ không
như thế mà thôi. Tôi thậm chí không dám nghĩ tiếp rằng, khi cháu tôi, hoặc chắt
tôi sinh ra, chúng ta vẫn không thoát được cái kiếp đội sổ như vậy. Sở dĩ tôi
phải nói hơi dài về vấn đề này, vì nó là một yếu tố quan trọng trong việc hình
thành tính cách và tư cách của người Việt nói chung và người trí thức Việt nói
riêng. Ta hãy hình dung, nếu một anh học trò trong suốt cuộc đời đi học của
mình không bao giờ không đứng cuối lớp, như một cái dớp không thay đổi, thì đến
một lúc nào đó ý chí phấn đấu của anh ta, nếu anh ta có một ý chí, cũng phải
tiêu tan.
Hai là, nếu câu chuyện chỉ dừng ở chỗ chúng
ta là một nước nghèo và lạc hậu mà thôi thì tất nhiên vẫn là một câu chuyện
buồn, nhưng chưa đến nỗi bi đát và vô vọng. Bởi lẽ - chỗ này tôi cũng phải nói
thẳng, vì chúng ta đang sống ở một nước không nghèo và không lạc hậu tí nào là
nước Ðức - có thể nói rằng sự giàu có và văn minh tiến bộ cũng đẻ ra những nỗi
buồn rất đặc trưng của nó, cũng đẻ ra sự bi đát của nó, chứ không phải chỉ
riêng nghèo và lạc hậu mới buồn và bi đát. Ta vẫn thường xuyên thấy những công
dân của cái thế giới văn minh và giầu có này tìm cách giải toả những nỗi buồn
của họ, giải toả những bi kịch của sự thừa thãi vật chất cũng như của sự tiến
bộ với tốc độ rất nhanh chóng của cái xã hội hiện đại của họ bằng cách tìm về
những xã hội còn mông muội, còn bán khai, còn nghèo khó, và coi đó là một câu
trả lời nhất định, một alternative. Tất nhiên chúng ta có thể mỉm cười và coi
đó là một thứ lãng mạn, một căn bệnh quí phái, nhưng không thể bác bỏ nó được.
Chỉ có điều, hiện thực Việt Nam thậm chí không phải là chỗ thích hợp để cái thế
giới thứ nhất đó chữa chạy những cái căn bệnh quí phái của mình. Bởi vì ngoài
cái nghèo và lạc hậu, thì đến đầu thế kỷ 21 này xã hội Việt Nam còn là chỗ hội
tụ của những dịch bệnh dường như vô phương cứu chữa khác mà bao trùm lên tất cả
là một khái niệm, tôi đặt tên khái niệm đó là sự bất an. Với một nhà văn thì
đương nhiên sự bất an trong tinh thần và tâm hồn là mối quan tâm chính. Theo
cách nhìn của tôi, thì sức mạnh của một xã hội là khả năng đem lại cho các
thành viên của nó cảm giác an toàn và yên tâm nhất định. Người ta có thể nghèo,
nhưng nếu người ta có được một cảm giác an toàn nhất định, điều đó quan trọng
hơn. Nếu không có cảm giác ấy thì người ta chỉ có thể miễn cưỡng sống tạm cuộc
đời của mình và đương nhiên không có một động cơ nào đủ mạnh để sống tiếp cuộc
đời của những thế hệ trước, sống trước cuộc đời của những thế hệ sau và sống
chung cuộc đời của những kẻ cùng thời. Nói như thế thì xã hội Việt Nam là một
tập hợp tạm bợ, rời rạc và hoàn toàn không hữu cơ của những cá nhân hoang mang
và bất ổn.
Về xuất phát điểm là như vậy, vấn đề đặt ra
là trong cái số phận dường như là vĩnh viễn hẩm hiu đó của dân tộc ta thì người
trí thức tham dự như thế nào ? Nói một cách khoa trương và có lẽ tương đối sáo
thì người trí thức Việt Nam chịu trách nhiệm gì về cái số phận chung ấy của cả
một dân tộc ? Cho đến nay, chúng ta đã nghe, có thể là đã nghe đến thuộc lòng,
những lời đáp vô cùng rõ ràng về việc này. Việc vì ai, do ai mà nước ta đáng
buồn như vậy. Có hai câu trả lời rõ như ban ngày: một là do khách quan, hai là
do chủ quan.
"Thằng khách quan", tôi xin lỗi
là phải dùng một từ như vậy, bởi vì trong tiếng Việt thì kẻ có tội rất to như
thế phải bị gọi là thằng. Thằng khách quan nó có vô số hoá thân và đều được gọi
tên rất rành mạch: lúc thì đó là thằng lịch sử, lúc thì đó là thằng bối cảnh,
thằng hoàn cảnh, thằng tình hình chung, lúc thì đó là thằng ngoại xâm, thằng
thế lực thù địch, thằng thực dân đế quốc, thằng thiên tai địch họa ... Nếu nghe
như vậy thì người ta có cảm giác là: bao nhiêu thằng khách quan đểu cáng nhất
đều hùa nhau vào ám dân tộc ta cả. Như vậy thì chẳng có lý do gì hy vọng và
chẳng có một cuộc toạ đàm nào, một cuộc hội thảo nào cần thiết nữa. Và nếu ai
tin vào lời tiên đoán của ông giáo sư Harvard là ông Huntington trong cuốn sách
cách đây mấy năm rầm rộ, cuốn Cuộc Chiến Văn Hóa, rằng Việt Nam sẽ là địa bàn
xung đột để chiến tranh thế giới lần thứ ba giữa Mỹ và Trung Quốc xảy ra, thì
quả nhiên là chúng ta đáng tuyệt vọng hoàn toàn.
Về chủ quan, người Việt Nam không có truyền
thống đem cả một dân tộc ra mà tự phê bình. Một trong những lý do vì sao như
vậy cũng là ở chỗ, khi người ta đã suốt cả một số phận luôn luôn đội sổ thì
lòng tự tin thực sự chẳng còn gì lớn lắm. Ðấy là tôi muốn nói đến một lòng tự
tin thực sự, chứ không phải cái thứ tự tin theo kiểu vừa đánh võ mồm vừa run
trong lòng, hoặc là thứ tự tin lưu manh, cứ kích nhau lên để hòng vụ lợi cho
mình. Rõ ràng là tự phê bình đòi hỏi một lòng tự tin lớn. Tôi cứ nhìn cái cách
tự tra vấn mình, tự hành hạ, tự truy tội, tự xỉ vả mình của một dân tộc như dân
tộc Ðức này mà phải nhận ra rằng: phải là một dân tộc đã đạt được nhiều thành
tựu đến mức nào mới dám làm cái việc cũng rất ư quí phái là tự phê bình mình
như vậy... Vậy dân tộc Việt trọn gói thì không có lỗi gì đáng kể, nhưng một bộ
phận, bộ phận đầu sỏ của nó thì bao giờ cũng luôn luôn là đầu mối của mọi tai
họa. Bộ phận đó, như chúng ta thường xuyên được nghe nói, bao giờ cũng là chính
quyền, là lực lượng thống trị... Lúc thì chính quyền Bắc thuộc, lúc thì là vua
quan nhà Nguyễn chịu trách nhiệm, lúc thì chính quyền thực dân Pháp chịu trách
nhiệm, lúc thì bè lũ Mỹ-ngụy. Và bây giờ, không có chính quyền nào khác hơn là
chính quyền cộng sản, thì chính quyền cộng sản chịu trách nhiệm. Bảo đúng thì
tất nhiên là đúng. Nhưng như vậy có kỳ cục lắm không? Chẳng lẽ trước năm 1945
nạn đói xảy ra là do phong kiến thực dân, còn bây giờ nạn đói xẩy ra là do cộng
sản hay sao? Chẳng lẽ cái thói chạy chọt, vây cánh, cửa quan, cửa quyền, bợ
đỡ... rất nổi tiếng từ thời cụ Ngô Tất Tố cũng tại cộng sản hay sao? Chẳng lẽ
văn chương Việt Nam cả một thế kỷ 15 chỉ được một ông Nguyễn Trãi, cả một thế
kỷ 16 hầu như cũng toàn nhạt nhẽo và trung bình cả thì cũng tại cộng sản hay
sao? Một trong những nhà phê bình văn học sắc sảo nhất của Việt Nam ở hải
ngoại, anh Nguyễn Hưng Quốc, hiện là giảng viên của trường Ðại học Victoria tại
Úc, cách đây 10 năm có viết một cuốn sách nhan đề Văn Học Việt Nam Dưới Chế Ðộ
Cộng Sản. Trong đó anh đi tìm câu giải thích cho tình trạng kém cỏi tẻ nhạt của
văn học miền Bắc trong những vấn đề của chế độ xã hội chủ nghĩa và hệ thống lý
luận mác-xít. Ðiều đó tất nhiên có nhiều phần đúng, nhưng chưa đủ. Những năm
sau này anh Nguyễn Hưng Quốc đi đến một nhận xét hết sức khổ tâm là văn học
Việt Nam ở hải ngoại tồn tại ở các chế độ dân chủ, tự do, hoàn toàn không phải
dính líu đến hệ lý luận mác-xít, hệ kiểm duyệt cộng sản, hoàn toàn không liên
quan đến bộ máy tuyên truyền chính trị chính thống, nhưng cái văn học ấy cũng
không khá gì hơn, cũng trì trệ, lạc hậu, bảo thủ và tẻ nhạt. Tất nhiên là tẻ
nhạt theo một kiểu khác. Vậy lời đáp nằm ở đâu?
Việc phê phán cái xã hội nghèo đói, loạn
tặc, nhiễu nhương, tạm bợ, không có phương hướng ở Việt Nam, tất nhiên có thể
gắn với việc phê bình chính quyền lãnh đạo. Thế cái xã hội của người Việt ở
ngoài nước, tại cộng đồng hải ngoại, không có mặt sự lãnh đạo của chính quyền
cộng sản mà cũng đủ những phẩm tính tương tự thì chúng ta biết phê phán trên cơ
sở nào? Rõ ràng có những vấn đề thuộc về văn hoá Việt Nam, những vấn đề nghiêm
trọng, không thể qui vào một chính thể, tập đoàn hay đảng phái thống trị nào,
nó là những hằng số xuyên suốt cả số phận dân tộc Việt Nam, bắt đầu thậm chí từ
Lạc Long Quân, nếu như có ông ấy và bà Ấu Cơ. Và nếu đã mở hồ sơ văn hoá Việt
Nam ra mà xét thì có thể nói là ở ngay trang đầu chúng ta đã gặp một thành phần
không thể không gặp, đó là trí thức Việt Nam.
Bản thân tôi không dám làm cái việc là điều
tra số phận dân tộc bằng cách đi truy tìm phần dính líu của từng cá nhân người
Việt, trí thức hay không trí thức thì cũng thế. Nói chung nhiệm vụ nhà văn của
tôi không nằm ở chỗ đi qui trách nhiệm cho ai. Vả lại, trong rất nhiều tình
huống thì câu hỏi ai có tội, ai có lỗi, là không thể giải đáp trọn vẹn được.
Nhưng việc tất yếu mà một nhà văn phải làm ở thời nào cũng thế là quan sát, và
nếu có thể thì khám phá những khía cạnh mà anh ta cho rằng còn mờ khuất của con
người và cuộc đời. Nhưng không một nhà văn nào khi làm việc đó có thể ôm đồm cả
thế gian mà quan sát và khám phá được. Bản thân tôi, do hoàn cảnh gia đình cũng
như môi trường đào tạo, môi trường sống, môi trường sáng tác và làm việc, tôi
không thể làm một việc gì khác hơn là quan sát và khám phá giới trí thức. Tôi
không có thẩm quyền gì để có thể phát biểu, chẳng hạn về tư cách của người nông
dân hay thợ thuyền Việt Nam. Tôi không có một hiểu biết gì đáng kể về những
điều đó. Song trí thức Việt Nam là chủ đề của hầu hết các sáng tác của tôi. Vì
vậy mà có một buổi nói chuyện như thế này. Tôi không nghĩ rằng mình có thể vạch
ra được một đường hướng nào. Việc duy nhất mà tôi có thể thử làm là khắc hoạ
diện mạo của trí thức Việt Nam. Bản thân việc này là một đề tài mà một cá nhân
không kham nổi. Hôm nay tôi thử trình bày về hai tư cách mà theo tôi là đáng để
ý, đó là: "tư cách chính thống" và "tư cách học trò".
Bây giờ phải xin nói trước để chúng ta dễ
đồng ý với nhau về khái niệm là: một định nghĩa hoàn hảo về trí thức rõ ràng
không thể có được, ngay cả đối với hoàn cảnh còn tương đối dễ bao quát như hoàn
cảnh Việt Nam. Chúng ta tạm quy ước với nhau là khi nói tới trí thức Việt Nam ở
đây là nói tới những người mà do học thức, trình độ, môi trường sống, thói
quen, hoặc thậm chí do ngẫu nhiên cũng được, mà hoạt động trí tuệ và tinh thần
là thường trực, hoặc chủ yếu, hoặc đóng một vai trò đáng kể.
Bây giờ tôi xin nói về tư cách chính thống
của trí thức Việt Nam
Một người bạn vong niên của tôi ở Hà Nội,
ông Nguyễn Kiến Giang, gần đây có đưa ra một khái niệm là "tính cách phò
chính thống của trí thức Việt Nam". Tôi thì gọi đó là tư cách quan văn,
theo cái mô hình trị nước là một ông vua có thể u mê, có thể anh minh, hai bên
tả hữu là quan văn và quan võ. Tôi gọi tư cách chính thống của trí thức Việt
Nam này là "tư cách quan văn".
Chúng ta hãy xem lại lịch sử. Nếu như bỏ
qua cái thời kỳ mông muội, khi người săn bắn giỏi nhất, bắt cá khéo nhất, thắng
nhiều cuộc vật nhất và có thể cũng có nhiều con nhất vì được nhiều đàn bà ái mộ
nhất, một người như thế được đứng đầu một cộng đồng Việt, nếu bỏ qua thời kỳ đó
thì chúng ta có ngay mười mấy thế kỷ toàn trị của giới có học. Khi đó là giới
sĩ, một thời gian dài là giới tu sĩ, sau đó tuyệt đối là giới nho sĩ. Chế độ
khoa cử với chức năng là một hệ thống đào tạo và tuyển chọn cán bộ và nhân viên
nhà nước, đã tự động ghép học thức, tri thức và quyền lực thành một cặp bài
trùng. Tri thức vừa là con đường dẫn đến quyền lực, vừa là cách thực hiện quyền
lực. Không có gì để nghi ngờ nữa, giới sĩ phu Việt Nam trong lịch sử là giới
cầm quyền, hay ít nhất cũng là giới thừa hành quyền lực. Nói theo từ hiện đại
thì toàn bộ guồng máy nhà nước Việt Nam trong lịch sử nằm trong tay các trí
thức nho giáo. Nhân đây cũng xin nói ngoài lề là cái tinh thần rất nổi tiếng và
thường xuyên được ca ngợi rằng, người Việt hiếu học, cha mẹ muốn con hay chữ,
yêu thầy, theo tôi một phần cũng rất đáng kể xuất phát từ tinh thần yêu địa vị
và trọng quyền lực. Nếu chữ nghĩa không mở ra được một triển vọng thơm tho như
vậy, một người đi học thi đỗ làm quan thì cả họ được nhờ, tôi tin rằng cái sự
hiếu học kia chắc chắn là giảm đi đáng kể.
Nhân đây cũng xin nói ngoài lề là cái tinh
thần rất nổi tiếng và thường xuyên được ca ngợi rằng, người Việt hiếu học, cha
mẹ muốn con hay chữ, yêu thầy, theo tôi một phần cũng rất đáng kể xuất phát từ
tinh thần yêu địa vị và trọng quyền lực. Nếu chữ nghĩa không mở ra được một
triển vọng thơm tho như vậy, một người đi học thi đỗ làm quan thì cả họ được
nhờ, tôi tin rằng cái sự hiếu học kia chắc chắn là giảm đi đáng kể.
Song câu chuyện "phò chính
thống", câu chuyện "quan văn" không chỉ dừng lại khi nho học
thất thế. Công bằng mà nói thì ở một giai đoạn ngắn của lịch sử, tức là ở đầu
thế kỷ 20 trong cả nước, và từ năm 1954 đến năm 1975 ở miền Nam, đã có một cơ
hội để cặp bài trùng trí thức và quyền lực có thể tách nhau ra được, và quả
thực cũng có tách nhau ra phần nào. Nhưng đấy là một khoá học tiếc thay rất
ngắn, quá ngắn để trí thức Việt Nam vượt ra khỏi cái vòng kiềm toả và tự kiềm
toả bằng quyền lực chính trị để trở thành một lực lượng độc lập như giới trí
thức ở các xã hội dân chủ hiện đại. Chúng ta có thể coi những vận động cải cách
xã hội và dân trí ở Việt Nam đầu thế kỷ 20 là độc lập với chính quyền nửa phong
kiến nửa thực dân đương thời. Và quả nhiên có một tầng lớp trí thức văn nghệ sĩ
tự do, tức là không ăn lương của nhà nước, không hưởng bổng lộc của chính
quyền, không phải là các công chức, viên chức, cán bộ trong bộ máy cai trị, một
tầng lớp như vậy quả nhiên là có xuất hiện, điều này cũng lặp lại ở miền Nam trong
khoảng thời gian 1954-1975. Thế nhưng lịch sử đã quyết định diễn ra theo chiều
hướng là tự lặp lại. Bi kịch của một người như Phạm Quỳnh là bi kịch của một
trí thức xuất thân hoàn toàn độc lập, có đủ mọi cơ hội và đủ uy tín để tồn tại
như một tiếng nói, một uy tín tinh thần, một trọng lượng xã hội độc lập hẳn
hoi, nhưng cuối cùng cũng không vượt qua nổi sự mê hoặc của quyền lực chính
thống. Tất nhiên Phạm Quỳnh trở thành thượng thư Bộ Lại trong triều Nguyễn với
một hy vọng là mượn những phương tiện chính trị mà hành cái đạo của mình. Thế
nhưng, ông Tây học Phạm Quỳnh vậy là cũng hành động không khác gì ông Khổng Tử.
Khổng Tử chẳng làm được điều gì khi còn đang tại chức. Khổng Tử chỉ có đánh xe
đi bát phố, nghe nhạc và bình phẩm về đàn bà, về cái hoạ đàn bà thì đúng hơn,
khi tại chức. Và Phạm Quỳnh cũng chẳng làm được gì cho cái đạo của mình trong
suốt thời gian làm bộ trưởng như vậy, và Phạm Quỳnh có lẽ còn lâu mới là người
trí thức Việt Nam cuối cùng vừa ghét quyền lực, vừa mong được phục vụ quyền lực
như vậy.
Từ năm 1945 ở miền Bắc Việt Nam và từ năm
1975 ở toàn đất nước, có thể nói rằng câu chuyện của cặp bài trùng trí thức và
quyền lực lại được kể tiếp với những tình tiết thực ra là giống hệt như trong
lịch sử. Chỉ có pha thêm những màn gay cấn đặc trưng cho cái thời đại này mà
thôi. Tôi cho rằng chỉ có những người rất ưa sơ đồ hóa các hiện thực mới kết
luận rằng trong xã hội cộng sản hay xã hội chủ nghĩa không có chỗ cho trí thức.
Không phải như vậy. Nó chỉ không có chỗ cho các trí thức bất đồng quan điểm,
bất đồng tư duy mà thôi. Một xã hội của đồng chí tất nhiên không trải chiếu hoa
cho những kẻ bất đồng chí. Song điều đó không có gì là mới mẻ, không phải là
đặc sản riêng của chuyên chính vô sản, mà của bất kỳ một nền chuyên chính nào.
Một trí thức từng là đồng chí như Nguyễn Trãi khi thành bất đồng chí tất nhiên
cũng phải chịu cái hoạ tru di tam tộc. Và một nhà văn tài hoa từng được coi là
thần tượng của sự ngông nghêng, thách thức như Nguyễn Tuân thực ra cũng có thể
so với Nguyễn Du: bất mãn thì có bất mãn, bất đồng thì có bất đồng, nhưng cả
hai dù miễn cưỡng hay tự nguyện, cuối cùng cũng để cho chính quyền trọng dụng
mình. Nguyễn Du đóng vai đại sứ đi công cán ở nước ngoài, một chức vụ thực sự
là không thấp hèn gì. Nguyễn Tuân cũng vậy. Hồi sinh viên tôi thường tự hỏi:
Tại sao lại như thế? Phải tay tôi thì không bao giờ chịu để mình ở cái thế há
miệng mắc quai như vậy. Nhưng khi đó tôi còn chưa hiểu gì về cái thế phò chính
thống, cái thế quan văn của trí thức Việt Nam, một cái thế quả nhiên là rất há miệng
mắc quai.
Cuộc cách mạng vô sản ở Việt Nam thực ra là
một cuộc cách mạng hoàn toàn do giới trí thức lãnh đạo, còn quần chúng cách
mạng thì thời nào cũng vậy, là đám đông, và đám đông trong một nước nông nghiệp
tất nhiên là nông dân. Cách mạng vô sản ở Việt Nam là một cuộc cách mạng do một
nhóm trí thức lãnh đạo một đám đông nông dân tranh đấu cho quyền lợi của một
giai cấp khác, đó là giai cấp công nhân. Nếu chúng ta nói như vậy thì việc các
quyền lợi dẫm lên nhau, sự không đồng bộ của nhân sự và khả năng phản bội lẫn
nhau của những bên tham gia đã được định trước.
Song ở đây tôi chỉ muốn nói về sự tham gia
của trí thức văn nghệ sĩ Việt Nam ở buổi ban đầu của cuộc cách mạng, rồi khi
cách mạng quay ra ăn thịt những đứa con đẻ của mình, và bây giờ, khi rõ ràng là
cách mạng đã về hưu. Mối tình giữa chủ nghĩa cộng sản và trí thức, nhất là trí
thức cánh tả trên toàn thế giới, là một mối tình phức tạp, đẫm nước mắt và đẫm
máu. Nhưng tôi dám nói rằng chính cái cuộc tình hết sức nồng nhiệt và lãng mạn
với lực lượng trí thức và văn nghệ sĩ Việt Nam thuở ấy đã chắp cánh cho cách
mạng, khiến cho nó không chỉ là một cuộc khởi nghĩa của nông dân, hay một cuộc
bạo động của thợ thuyền.
Ðiều gì diễn ra khi cách mạng không chỉ còn
là một ý tưởng và một lí tưởng, mà đã trở thành một hiện thực, một chế độ, một
guồng máy khổng lồ? Tôi xin trích ra ở đây một vài dòng trong nhật ký của Trần
Dần năm 1958, vào cái thời điểm mà người ngoài tưởng là cuộc nổi dậy trong văn
giới Việt Nam, được biết đến dưới cái tên Nhân Văn Giai Phẩm còn rất là sôi
sục. Ông ghi ngày 08-01-1958 như sau:
Tin chạy xì xầm xung quanh rất ghê gớm.
Rằng báo Văn là một cái rớt của Nhân Văn, rằng nhà xuất bản hội nhà văn bị lái,
rằng Câu Lạc Bộ thành nơi hoạt động của bọn Nhân Văn. Tóm lại, bọn Nhân Văn ấy
lọt vào tổ chức của Hội Nhà Văn, chúng ra tay chèo lái một cách "tinh
vi"... Sự thật ra, bọn Nhân Văn ấy, non năm nay họ đã theo một cái chính
sách gì? Có thể tóm chính sách của họ là: sợ, cầu an, cố đi gần lãnh đạo, dao
động, chán nản... Một ngón tay Nhân Văn cũng không có. Non năm nay họ đã nằm
bẹp cả xuống, vắt tay lên trán, suy nghĩ như các nhà hiền triết cả rồi. Họ có
còn cái khao khát chiến thắng của những người tiến bộ nữa đâu ? Nói đúng ra, họ
vẫn mong sự tiến bộ sẽ thắng. Song họ mong nó sẽ thắng bằng một cách ích kỷ,
tức là bằng bàn tay thúc đẩy của kẻ khác hơn là bàn tay họ... Vậy đỡ nguy hiểm
hơn... Giá lãnh đạo thuyết phục, họ sẽ có cơ giác ngộ, trở nên con nhà nết na
nữa cũng nên. Ðằng này lãnh đạo cứ cái chính sách ục, thụi vô lý mãi! Họ càng
tủi thân và thất vọng... Tôi biết họ chỉ mong nhất một điều là: "mong
thánh đế hồi tâm?".
Những dòng ấy được viết ra do một trong
những người được coi là cứng cổ nhất trong Nhân Văn Giai Phẩm là Trần Dần. Tôi
xin lưu ý những khái niệm như "cố đi gần lãnh đạo", "giá lãnh
đạo thuyết phục", "mong thánh đế hồi tâm". Tôi cho rằng không
cần phải nhiều lời nữa để mô tả cái tính cách phò chính thống này của văn nghệ
sĩ trí thức Việt Nam. Nếu có một trí thức thực sự li khai với quyền lực, li
khai với quyền lực không lấy gì làm đẹp đẽ lắm của chế độ cộng sản, thì phải có
mười trí thức đang nằm chờ ngày "thánh đế hồi tâm" và sẽ có một trăm
trí thức không làm gì khác hơn là để cho cái chính quyền ấy trọng dụng mình.
Mao Trạch Ðông trong bài nói chuyện nổi
tiếng ở Thiên An có tuyên bố thẳng thừng: "trí thức là cục phân",
song người am hiểu hiện thực của chủ nghĩa xã hội phải nói rằng, trí thức cũng
là cục vàng. Những cục vàng ấy là báu vật nằm trong tay những nhà cầm quyền. Ở
một địa vị như vậy thì có lí do gì mà mong thay đổi! Người ta có thể gọi đó là
cái hèn, cái nhu nhược, cái cầu an. Tôi gọi đó là cái nghiện. Nghiện chính
thống. Nghiện suốt cả một lịch sử thì không dễ gì một vài ngày mà cai ngay
được. Người nghiện thì ít khi trách cái sự nghiện của mình mà có chăng chỉ đổ
tội cho cái làm mình nghiện. Chúng ta phải buộc lòng đi đến một kết luận: khi
tự đồng nhất mình ở mức độ cao như vậy với giai cấp thống trị, bất kể là giai
cấp nào, thì cái bộ phận ưu tú nhất của dân tộc Việt Nam là trí thức Việt Nam
mặc nhiên phải đánh mất cái thôi thúc cải thiện, thay đổi và cải cách xã hội.
Một ông trí thức nho giáo làm quan tất nhiên là không bao giờ nảy ra sáng kiến
chống nạn mù chữ trong đám dân đen. Bởi lẽ ông ta chỉ hơn họ và được làm quan
nhờ có mấy trăm chữ ở trong bụng. Một ông nhà thơ phụ trách Ban văn hoá văn
nghệ tất nhiên không khuyến khích những thứ thơ văn mới lạ, bởi lẽ nếu thiên hạ
đi say mê thứ văn thơ mới lạ đó thì thơ ông ta ai đọc? Kinh nghiệm của chính
bản thân tôi ở trong nước, với tư cách là một nhà văn hiện nay không được phép
công bố tác phẩm ở trong nước, là: Chưa có một ông Ðảng hay một ông công an nào
có cơ hội đọc duyệt tác phẩm của tôi cả. Bởi vì trước khi các vị đó sờ được đến
bản thảo của tôi thì các đồng nghiệp của tôi ngồi ở những vị trí rất nhiều
quyền lực đã kiểm duyệt hộ chính quyền từ khuya rồi!
Bây giờ tôi xin nói đến tư cách học trò của
trí thức Việt.
Thực ra dân tộc Việt không toàn phải tiếp
xúc với những kẻ đến từ một nền văn minh cao và mạnh hơn hẳn. Láng giềng của
nước Việt một thuở, như chúng ta đã biết, là Chiêm Thành, Ai Lao, Phù Nam,
Khơme, Xiêm La, Chà Và, Nhật Bản... Ðương nhiên người Việt cũng tiếp thu điều
này, điều nọ trong quá trình giao lưu văn hoá với họ... Trong tiếng Việt ta có
thể tìm thấy những dấu tích đó. Thế nhưng, chúng ta có thể lấy hẳn của người
Chiêm Thành một giống lúa, lúa chiêm, mà chả buồn học hỏi gì nhiều ở văn hoá và
ngôn ngữ của họ... Chúng ta lấy biết bao nhiêu điệu nhạc buồn của họ vào chính
cái quan họ Bắc Ninh nổi tiếng của chúng ta, khiến cho cái làn điệu dân ca đó
trở nên có thể nói là buồn nhất trong các làn điệu dân ca của miền Bắc nói
chung, lúc đó miền Bắc là cái nôi văn hoá Việt và lúc đó Việt Nam chỉ dừng lại
ở miền Bắc. Chúng ta lấy của họ như vậy mà chả buồn học hỏi điều gì ở họ, không
buồn nghiên cứu gì về họ và thậm chí dường như chúng ta chôn phắt họ đi mà
không tiếc nuối gì hết.
Như vậy, ở cái thế của kẻ mạnh, hoặc ít
nhất ở cái thế của kẻ bằng vai, thì người Việt chẳng buồn học ai cả, chẳng buồn
ngưỡng mộ ai cả. Thế nhưng, khi ở cái thế của kẻ yếu, của kẻ bị chinh phục, bị
khinh bỉ, bị nhục nhã, thì sự học của chúng ta mới vội vã bắt đầu. Tôi có viết
trong một tác phẩm về việc hầu như chẳng người Việt nào buồn biết tiếng Nhật
như sau: "... người Nhật chiếm nước này chưa đủ dài để người nước này thèm
tiếng Nhật. Nỗi nhục chưa kịp ngả thành lòng yêu".
Cái sự học của trí thức chúng ta trong thế
giằng xé giữa một bên là nỗi nhục, một bên là lòng yêu, là một sự học đầy mâu
thuẫn, thậm chí có thể nói là bệnh hoạn, đầy những đau khổ mà bản thân tôi có
thể chia sẻ nhiều phần. Ta hãy lấy ví dụ về việc học này qua cách sáng tạo chữ
viết. Cả người Việt lẫn người Nhật vốn đều có tiếng nói riêng mà không có chữ
viết riêng. Trung Hoa thì ngược lại, có chữ viết. Nhưng Trung Hoa không băng
qua biển để đi sang Nhật mà mang chữ viết cho người Nhật. Và nói chung thì
Trung Hoa là một dân tộc lục địa, họ tin ở con ngựa hơn con thuyền. Cái từ mà
chúng ta dùng để chỉ họ là người "Tầu" thật ra chẳng đúng tý nào, họ
là dân tộc không liên quan đến tầu bè. Trung Hoa rõ ràng không băng qua biển để
cưỡng bách người Nhật phải học sách Tầu và viết chữ Tầu, mà chính là người Nhật
đã tự động ngồi lên thuyền, băng qua biển đến Trung Hoa, rồi khuân một ít văn
hóa Trung Hoa, trong đó có chữ viết, về nhà họ để dùng tạm trong lúc còn thiếu
thốn. Cái thái độ đi học của người Nhật như vậy là một thái độ chủ động, tích
cực và có sự sòng phẳng của nó. Cần thì học, thích thì học, hoàn toàn tự
nguyện. Và một khi người Nhật đã mất công lặn lội như vậy để khuân về nhà từng
ấy bộ chữ Trung Quốc thì họ cũng dùng hết, không vứt đi đâu bộ nào. Tất nhiên,
không phải ngày một ngày hai, nhưng sau trên dưới khoảng chục thế kỷ, sau nhiều
thất bại thì người Nhật cũng dùng được bộ chữ Trung Quốc trong việc ghi lại
tiếng Nhật. Chữ Nhật ra đời và trụ được cho đến ngày nay trên cơ sở bộ chữ Tầu
giản tiện. Một người Nhật nếu biết tiếng Tầu thì rất quý, thế nhưng nếu không
biết thì họ vẫn có khả năng dùng tốt chữ Nhật của họ... Họ đã thành công trong
việc đi học ở bên ngoài và làm ra được cái mà họ chưa có. Họ là hạng học trò
ngoại lệ...
Còn việc sáng tạo chữ viết của người Việt
diễn ra như thế nào? Người Việt chẳng cần lặn lội sang Tầu đi học, mà chính là
người Tầu mang một núi khí giới, một rừng người đến trước, rồi sau đó khuân một
hòm sách sang sau. Dĩ nhiên là người Việt vừa học vừa chửi, giống hệt như vừa
học vừa chửi Pháp, vừa học vừa chửi Liên Xô, và bây giờ vừa học vừa chửi Mỹ.
Cái sự vừa học vừa chửi này biến thiên qua nhiều cấp độ và tuỳ vào diễn biến
hay triển vọng trong mối quan hệ giữa thầy và trò. Ở trong dân gian, thái độ
lưỡng phân này thường bùng nổ chỉ ở thời gian đầu, sau đó có thể nói là cái gì
của ta sẵn có, cái gì mà nó bắt ta phải học, dần dần cũng đồng hoá vào nhau, ở
cấp độ dân dã, đôi khi không phân biệt nổi xuất xứ nữa. Thí dụ như nói dến ông
bụt chẳng hạn, nào ai còn rạch ròi mà bảo rằng đấy là một ngoại kiều Ần Ðộ, mà
tên thực ra phải là buddha cơ, nào có ai phải rạch ròi đến thế đâu. Nhưng trong
giới trí thức thì cái thái độ lưỡng phân kia là cả một tấn bi hài kịch, trong
đó có những pha đầy phi lý, những pha trái khoáy, những pha nực cười và tất
nhiên là rất nhiều pha vô cùng vô duyên. Với giới trí thức Việt Nam thì chỗ này
có sự rạch ròi của nó. Cái học thuyết của ông bụt không mang tên là bụt giáo mà
mang tên là Phật giáo, bởi lẽ giữa chữ bụt và chữ Phật có một khoảng trống, và
ngồi trong khoảng trống ấy chính là ông thầy Trung Hoa.
Việc người Việt luôn có những kẻ thù mạnh
và giỏi hơn mình, và kết quả là người Việt luôn phải tiếp thu nền văn minh của
kẻ thù, việc ấy vừa là một bất hạnh vừa là một diễm phúc. Rõ ràng là trên đời
chẳng có cái gì không có ít nhất hai mặt của nó, chỉ có điều, sức mạnh và tầm
vóc của một nền văn hoá biểu hiện ra ở chính cái chỗ nó vận động như thế nào
trong sự phức tạp đa chiều đó. Nó có đủ khả năng khống chế sự bất hạnh và
khuyếch trương cái diễm phúc kia lên không, hay là ngược lại. Hay là nó chẳng
có một chủ trương chiến lược nào cả, cứ tiện lúc nào sướng cái hay của Tây của
Tầu thì khen lấy được, học lấy được, lúc nào cáu lên thì vứt hết, dẹp hết, quay
về trâu ta ăn cỏ đồng ta. Và tôi ngờ rằng sự tuỳ tiện này chính là cách ứng xử
của chúng ta. Người ta có thể cho sự tuỳ tiện này một cái tên quan trọng hơn,
"sự linh hoạt" chẳng hạn. Nhưng tên có hay như thế nào cũng không thể
kéo cái hiện thực dở đi theo được.
Kẻ bị buộc phải đi học trong tình thế lưỡng
phân mà lại tùy tiện như vậy thì đến hệ quả gì? Một trong những hệ quả là: hắn
không bao giờ học cho hết chữ của thầy. Mới học được nửa trang, mới đọc được
nửa trang, học đến nửa quyển sách thì cái phanh của lòng yêu nước, lòng căm thù
ngoại xâm - tất nhiên đấy là một tình cảm rất chính đáng - đã chặn đứng tất cả
lại và hắn nhất quyết quay ra với khẩu hiệu "tự lực cánh sinh", hoặc
phương châm "sáng tạo, ứng dụng vào hoàn cảnh Việt Nam". Nghiên cứu
đối phương chẳng hạn, khi người ta có một kẻ thù thì nghiên cứu kẻ thù để chiến
thắng nó là một động cơ đáng kể để học hỏi nền văn minh của kẻ thù. Chỉ có điều
tôi có cảm giác rằng sự nghiên cứu của chúng ta chỉ dừng lại ở cái mức tin tức
tình báo, đại loại như cái thông tin rằng quân Nguyên Mông không thạo đường
thuỷ, hay đại quân hậu cần của giặc hiện đang tắc ở đoạn nào. Chắc là cái sự
học và sự nghiên cứu của chúng ta nó dừng lại ở chỗ ấy, nó khác hẳn sự nghiên
cứu của cả người Tầu, người Pháp, và người Mỹ về chúng ta. Có một thực tế là
các học giả Việt Nam ngày nay muốn thực sự nghiên cứu về Việt Nam thì không thể
không sang Trung Quốc, Pháp và Mỹ để ngồi đọc tài liệu Việt Nam mà những nước
đó đem về giữ trong các thư viện và văn khố của họ... Tôi có một người bạn,
hiện nay đang lang thang ở các trường đại học Mỹ để nghiên cứu về Phan Khôi.
Một hành trình hết sức vòng vo. Vì sao? Ðể nghiên cứu về Phan Khôi, anh phải
đọc báo Việt Nam của những năm 30. Những báo đó, chúng ta không giữ lại đầy đủ,
chúng ta không giữ lại, theo đúng tinh thần của người Việt là thời nào biết
chuyện của thời đó, thời nào khoanh lại thời đó, thế hệ nào khoanh lại thế hệ
đó, không dính líu gì đến thế hệ sau nữa. Nhưng người Pháp thì khuân những báo
đó về Pháp, không phải chỉ khuân một bản mà khuân nhiều bản. Cái bản thừa, bản
đúp, thì họ bán lại cho người Mỹ và bây giờ thì Bộ văn hoá Pháp cấp cho một nhà
nghiên cứu Việt Nam một khoản tài trợ để nhà nghiên cứu Việt Nam sang Mỹ mua số
báo Việt Nam đã được Pháp bán lại cho Mỹ, để nghiên cứu về một nhân vật Việt
Nam đầu thế kỷ. Ðối với giới sử học Việt Nam, các công trình của cơ quan nghiên
cứu Pháp, Viễn Ðông Bác Cổ, là một chỗ dựa không thể thay thế nổi. Rõ ràng là
thực dân Pháp muốn chinh phục và bám trụ ở Ðông Dương và điều đó không có gì để
bàn cãi cả. Ðể làm điều ấy, họ cần hiểu biết về cái xứ sở mà họ muốn chiếm giữ,
hiểu biết tường tận về văn hoá, một nền văn hoá xa lạ với họ, chứ không phải
chỉ là thu thập những tin tức tình báo. Chắc chắn là hoạt động của Viễn Ðông
Bác Cổ được Bộ thuộc địa Pháp tài trợ ... Các học giả và trí thức Pháp có thể
đã là công cụ cho một mục đích không lấy gì làm đẹp đẽ lắm, song bản thân công
việc nghiên cứu của họ diễn ra nghiêm túc và thấu đáo. Còn các học giả Việt Nam
có thể là công cụ cho một mục đích chính đáng, song kết quả công việc của họ
lại tạm bợ và nửa vời.
Xét về phương diện này thì người trí thức
VN ngoại lệ nhất là Nguyễn Trường Tộ, và bản thân Tự Ðức cũng là một bậc trí
thức không đến nỗi ngu đần như trong sách sử chính thống mô tả. Song như chúng
ta đã biết, chương trình canh tân được Nguyễn Trường Tộ đề nghị và rất nhiều
điểm cũng được Tự Ðức tán đồng không hề được đem ra thực hiện. Ða số giới cầm
quyền đương thời cũng là các bậc học giả hiểu cao, biết rộng, họ có đủ lí do
cần thiết để cản trở chương trình canh tân đó, mà cái lí do rằng Nguyễn Trường
Tộ là người theo đạo Tây chỉ là một cái cớ.
Một mặt thì chưa học đến nơi đã sốt sắng
sáng tạo, để rồi toàn đi đến những kết quả nửa vời như vậy. Mặt khác, khi chỉ
còn một mình với cái đống sáng tạo dở dang không dùng được đó thì người trí
thức Việt Nam mới lại thành một học trò ngoan, thậm chí rất ngoan. Ngoan tới
mức thành một kẻ nô lệ, thành bảo hoàng hơn vua. Thậm chí Khổng Tử hơn cả Khổng
Tử, ga-lăng hơn cả người Pháp, mác-xít hơn cả cha đẻ của mác-xít. Lúc bấy giờ
cái người học trò thích sáng tạo ấy mới tự phong cho mình những danh hiệu,
chẳng hạn là đại diện xứng đáng nhất của những trường phái gì gì đó, của những
ông thầy gì gì đó ... Khi Trung Hoa đã là Trung Hoa dân quốc, và trí thức Trung
Hoa đã miệt mài ngồi dịch sách của những bậc như Rousseau, Montesquieu, thì trí
thức Việt lúc đó vẫn còn chết chìm trong cái mớ "thi vân tử viết" của
mình, và triều Nguyễn khi đó trưng ra những lễ nghi nho giáo còn chặt chẽ hơn
cả triều đình Bắc Kinh một thuở. Ta có thể lấy chủ nghĩa lãng mạn trong văn học
Việt Nam tiền chiến làm ví dụ cho việc nay.
Tất nhiên phong trào Thơ Mới và văn xuôi
1930-1945 là một bước tiến khổng lồ cho văn học Việt Nam, song thần tượng của
nó, nguồn ảnh hưởng của nó từ văn học Pháp là những thứ đã diễn ra trước đó có
khi cả vài thế kỷ. Cái mà ông thầy Pháp đã bỏ ra khỏi giáo trình của mình từ
mấy đời thì anh học trò Việt vẫn còn nghiền ngẫm say sưa lắm, còn cái mà ông
thầy ấy đang dạy ở trên lớp thì anh học trò ấy chỉ nghe có một nửa tai rồi bảo:
"Cái đoạn này thì ta nên tự lực cánh sinh". Cho đến bây giờ cái tinh
thần của lãng mạn tiền chiến vẫn chế ngự trong văn chương Việt Nam hiện đại.
Nếu có ai phê bình thì các vị ấy vênh mặt lên bảo rằng: "Văn chương Pháp
cũng thế, dám chê cả văn chương Pháp à !?" Song những điều đang diễn ra
trong văn học Pháp hiện đại thì chẳng có ai buồn học, có bảo là phải học thì
các vị ấy lại bảo: "Biết cả rồi, xoàng cả thôi, cũng chả hơn gì ta đâu,
mình làm có khi còn hay hơn !". Như thế thì hỏi làm sao văn chương nghệ
thuật nước ta không luôn luôn đi lạc một bước, ít nhất là một bước sau thế
giới? Năm mươi năm nữa chẳng hạn, các học trò Việt lại đi mở những thứ sách của
thế giới bây giờ ra, thế giới bây giờ, để học lấy học để. Ðã học như thế thì
lấy đâu ra thời gian để học chính những thứ đang cùng thời với mình? Hỏi làm
sao cái học đó không phải là cái học viển vông?
Thí dụ rõ rệt cho cái lẫn lộn lung tung
giữa chủ động nô lệ và chủ động sáng tạo ta có thể quan sát ở các trí thức Việt
khi họ đi ra nước ngoài để học hỏi. Chẳng hạn, khi ra nước ngoài học về khoa
học quản lí, là thứ mà chúng ta chưa bao giờ có. Rõ ràng trước khi một nước
phương Tây quyết định đầu tư vào một chỗ nào đó ở Việt Nam thì họ đành phải làm
cái việc không đừng được là đào tạo, cũng như muốn bán cho ta một cái máy bay thì
họ phải làm cái việc là đào tạo hộ một anh phi công, đấy là chuyện họ không
đừng được. Như vậy là trí thức Việt cắp cặp đi học khoa học quản lí hiện đại.
Chữ thầy được mười thì học trò nghe được một, thôi thế thì cũng là may rồi.
Nhưng cái mà tôi thường xuyên chứng kiến ở những người đó là họ sẵn sàng vứt
tất cả một phần đó đi, mà bảo rằng: "Úi trời, cái kiểu quản lí này không
thích hợp với hoàn cảnh Việt Nam !" Cũng là có lí chứ không phải không có
lí, tất nhiên là không ai đi bệ nguyên xi nước ngoài về mà dùng được, nhưng
chuyện đó tôi không bàn. Tinh thần sáng tạo thì bao giờ cũng muôn năm cả. Thế
nhưng cũng chính những người đó, khi trở về nước, đối mặt với những lề lối quản
lí rất Việt Nam, nghĩa là rất cẩu thả, rất tạm bợ, rất mông muội, rất trung cổ,
thì lại giương cái sở học của mình trong các chuyến đào tạo ở nước ngoài như
vậy ra mà bảo rằng: "Tây nó làm như thế, Tây nó khác, Tây nó phải như thế
... Không được thế này, không được thế kia ..." Nhưng Tây nó làm như thế
nào thì không còn nhớ, thế là lại đi học nữa! Xã hội Việt Nam sinh ra một tầng
lớp trí thức không làm điều gì khác hơn là suốt đời đi học như vậy. Cứ đến lớp
thì chê thầy, cứ về nhà thì lại nhớ thầy, xin cắp cặp theo học lại. Suốt đời đi
học như vậy. Như thế thì hỏi làm sao được như người Nhật, tự làm ra chữ viết
dùng được cho mình?
Chữ Nôm Việt Nam được làm ra, về xuất phát
điểm thực ra không khác gì chữ Nhật, chỉ có điểm khác là nó không thành công.
Muốn dùng chữ Nôm, người ta phải biết chữ Hán trước đã, rồi sau đó lại phải học
thêm quy tắc cấu trúc cái chữ Hán, vốn đã rất phức tạp như vậy, vào với nhau
như thế nào để nó ra cái gọi là chữ Nôm. Tôi lấy một ví dụ: muốn viết chữ
"trờí" chẳng hạn, muốn viết cái tiếng ta ấy ra mặt giấy thì phải viết
thế nào ?. Người ta phải biết hai chữ Hán là chữ "thiên" và chữ
"thượng", phải biết cách ghép hai chữ này vào nhau để thành một chữ
"trờí". Quả nhiên là một cái lô gích vô cùng kinh hoàng đối với hình
dung của tôi, cứ làm như còn một cái "thiên" nào khác, ngoài cái
"thượng" đó. Mà đã thế sao không dùng luôn tiếng Hán, chỉ có một chữ
"thiên" là xong, tại sao lại hai lần tiếng Hán như thế, gộp vào nhau
để ra chữ "trờí"? Trong cái công trình sáng tạo chữ Nôm ấy, rõ ràng
sáng tạo là gì? - Là ghép hai cái rập khuôn vào nhau! Tôi chưa bao giờ dám tự hào
về cái chữ Nôm mà theo tôi, xin lỗi quý vị ở đây, là điển hình cho tinh thần
khổ dâm. Phải học cái chữ của kẻ thù thì chỉ đơn giản là khổ, nhưng học cái chữ
của mình bằng cách hai lần đi qua chữ của kẻ thù thì lại bỗng nhiên sướng? Như
thế chẳng phải khổ dâm thì là cái gì? Song kết cục của công trình làm ra chữ
viết của ta như thế nào lại là bất ngờ lớn cho chúng ta. Chữ quốc ngữ là tác
phẩm của một số cha cố Dòng Tên. Cái may của chúng ta trong câu chuyện này là
những người truyền giáo có mặt ở Việt Nam một thời gian dài, có ảnh hưởng quan
trọng, là các vị Dòng Tên, nổi tiếng là những trí thức tu sĩ uyên bác, có năng
khiếu ngoại ngữ và có một lòng khoan thứ nhất định đối với những tín ngưỡng
khác, chứ không phải là các vị của Dòng Dominique như trong trường hợp của
Trung Quốc chẳng hạn.
Những căn bệnh khác của "người học trò
Việt Nam" trong tình thế lưỡng phân này chúng ta có thể kể ra: Học như vậy
thì không thể không mặc cảm. Ðương nhiên là phải thấy mình bé nhỏ, kém cỏi
trước cái khổng lồ, phong phú và cái ưu thế của những thành tựu văn hoá khác.
Tôi thực sự chưa hề được chứng kiến một trí thức hoặc văn nghệ sĩ Việt Nam nào
có một lòng tự hào và tự tin đáng thuyết phục khi họ đi ra nước ngoài. Tất
nhiên trong chuyện này có nhiều bên tham gia. Không thể có kẻ đại diện cho một
văn hoá nhược tiểu nếu như không có kẻ đại diện cho một cường quốc văn hoá. Tất
nhiên như vậy, nhưng đấy không phải là đề tài của chúng ta hôm nay. Ðã mặc cảm
như vậy thì không thể không chán nản, mà ỳ ra và ăn sẵn. Dường như trí thức
Việt Nam có thể rất yên tâm mà nghĩ rằng: "Không có chúng ta thì thế giới
vẫn tiến bộ ầm ầm". Thế thì đợi người ta tiến bộ mà ăn nhờ có phải đỡ mất
công hay không ?. Mà đằng nào, nếu mình làm thì có ra gì mà làm ?. Thế nhưng ăn
sẵn cũng có rất nhiều cách ăn sẵn. Cái cách ăn sẵn của trí thức chúng ta cũng
chẳng giống ai, còn chọn chán, còn chê chán, còn chặt miếng ra, miếng nào vừa
mồm mình thì mới dùng, vừa khẩu vị mình, dễ cho cái bụng mình tiêu hoá. Tất
nhiên điều đó cũng có cái hợp lí của nó, song vì sao không thử xem lại cái
miệng mình có nhỏ quá hay không, khẩu vị của mình có cần thay đổi đi hay không,
và bụng dạ mình có còn đủ tốt để tiêu hoá cái gì đó hay không?
Tóm lại, khi cái học của một tầng lớp có
học của chúng ta như thế thì cái học ấy có hơn gì sự vô học của một đám đông
hay không ? Hỏi làm sao mà cái học ấy không giúp gì được ai.
Hết.
Nguồn ở đây
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét