4. Mặt nạ Cham -
Giữa phẫn nộ hình tướng và những bước chân thiền
Kim Cương Thừa,
Cham và thiền hành động
Tao loạn thường là bà đỡ cho những cuộc sinh thành vĩ đại. Nếu triều đại Hồi giáo Abbasad đã không đem quân tấn công Ấn Độ và tàn phá trung tâm Phật học Valabhi vào nửa cuối thế kỉ 8, khiến Phật giáo suy vi. Nếu quân đội Hồi giáo của Muhammad Ghudi không thiêu hủy Nalanda (Siêu Loại), ngôi chùa Phật giáo cuối cùng vào thế kỷ 13, khiến các vị đại sư Mật giáo mỗi người tháo chạy mỗi ngả, Kim Cương Thừa đã không có điều kiện sinh thành và phát triển một cách rực rỡ tại cái nơi vốn dĩ đã dành cho nó: những cao nguyên tinh khiết và huyền bí của xứ tuyết Hymalaya.
Những mặt nạ Cham (nguồn: Infographic (Tibetan Cham Dance)
|
Những bước chân tao loạn khó
mà giữ được sự bình thản và vô ưu như người theo Phật hằng mong. Những bước
chân tao loạn khó mà giữ được sự bao dung trong hoàn cảnh mà lòng sân hận khởi
phát một cách tự nhiên như chính sự khởi phát lòng thương của con người. Những
bước chân không thể nói lời từ ái mà buộc phải nói tiếng nói phẫn nộ. Những bước
chân phát ra nguồn năng lượng tiêu cực mà lẽ ra phải được dùng để đốt cháy vô
minh nhằm khai quang con đường giác ngộ. Những bước chân vô nghĩa!...
Kim Cương Thừa nhận thấy sự
phí phạm và tận dụng triệt để nguồn năng lượng quý giá này để
xây nên các pháp tu với tôn chỉ: lấy tất cả chướng ngại làm phương tiện
nhằm tu luyện thành tựu. Thay vì cố gắng nhổ tận gốc các cảm xúc như sân hận,
kiêu mạn, ích kỷ, và say mê, chúng ta có thể sử dụng nó như nhiên liệu cho giác
ngộ. Những cảm xúc này không còn là kẻ thù phải tiêu diệt. Chúng trở thành người
trợ giúp, chúng là năng lượng đẩy cho những bước nhân nhanh thêm trên con đường
giải thoát. Cham ra đời nhằm để chuyển hóa tâm thức sân hận bởi chính
nó: những hình tướng phẫn nộ hành thiền bằng sự động loạn của những bước chân,
kiểu thiền hành động.
Cham - Nguồn gốc và vũ trụ quan
Tương truyền, một đại sư được
sinh ra từ hoa sen, tên là Liên Hoa Sinh (sa. padmasambhava) đã
làm cho múa trở nên một phương pháp hành thiền đặc biệt của Phật Giáo Mật
Tông ở vùng Tây Tạng. Padmasambhava sử dụng những điệu nhảy để đuổi
và loại trừ quỷ dữ khi chúng ngăn chặn ông xây dựng tu viện Samye nổi tiếng
vào năm 775. Ông lại sử dụng những vũ điệu này để trừ tà cho vua Sindhu
Rajakhi khi ông được triệu tập đến Bumthang (miền Trung Bhutan), để cứu vị
vua sắp chết này. Những điệu nhảy trong niềm quán tưởng tới các vị thần linh dưới
hình thức phẫn nộ của Padmasambhava khiến ma quỷ phải kinh hãi và hàng
phục.
Cấu
trúc tu viện Samye phản ánh vũ trụ quan của Kim Cương Thừa
và tượng của
Padmasambhava được thờ bên ttrong chính điện
|
Lùi xa vào huyền sử, kinh điển
Phật giáo ghi nhận rằng Bồ tát Phổ Hiền dạy múa Vajra Gar cho Ngũ Trí
Như Lai, khi Ngài chuyển pháp Luân Xa từ hình thức bí truyền vào cõi Phật
pháp. Ngũ Trí Như Lai sau đó dạy những điệu múa này cho Tam Bảo
là Quán Thế Âm Bồ Tát, Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát và Kim Cương Thù Bồ Tát. Đến lượt
mình, các vị Bồ Tát lại dạy các điệu nhảy trong dòng truyền thừa tương ứng của
họ. Sau đó, các vũ điệu này đã được lan truyền đến Udyana (Afghanistan ngày
nay), Nepal và Tây Tạng bởi một số đại sư Mật giáo trên con đường chạy loạn
tới những quốc gia này. Dưới ảnh hưởng của
Đại sư Liên Hoa Sinh (còn gọi là Guru Rinpoche trong hình tướng con
người), Vajra Gar đã thay đổi rất xa so với nguồn gốc nhu mì của nó
để trở thành Cham của động loạn và tỉnh thức ngày nay.
"Những điệu múa tĩnh lặng
và có bản chất khoan hòa gọi là Gar. Ngược lại, những vũ điệu của "phẫn nộ"
có bản chất mạnh mẽ, được thực hiện với sự nhấn mạnh vào động tác chân, gọi là
Cham" (Ven. Ngawang Chonjor, nguồn: interview). "Khi
động tác tay (lag stabs) là chính yếu, vũ điệu gọi là Gar, khi chỉ có chân di
chuyển (rkang stabs), vũ điệu gọi là Cham" (Dalai Lama thứ
5). Rõ ràng có một sự chuyển hóa hướng về hành động trong hình thức hành
thiền (tantra - giải thoát dòng tâm thức), nhằm điều chỉnh phương tiện cho
phù hợp với mục đích của Kim Cương Thừa, như một cách hợp nhất con người - thần
linh - vũ trụ trong một thể hoàn hảo nhất.
Những bước chân động loạn của Cham
Trái: Bố trí đội múa trong
trình diễn Cham (theo Flichner 1933),
Phải: Sơ đồ tổng thể thường
thấy của một mạn-đà-la (theo: mandala)
|
Vòng tròn của mandala có
ý nghĩa là sự toàn vẹn. Các vòng ngoại vi bao bọc cho vòng tròn tâm điểm. Tinh
túy nằm ở tâm, càng gần tâm sức mạnh càng lớn, vì thế vị trí múa của mỗi vị thần
sẽ càng gần tâm hơn nếu vị thần đó có nhiều quyền năng quan trọng hơn. Thông
thường mandala của Cham có ba vòng, các vũ công Mũ Đen
(black hat/ shanag) sẽ múa ở vòng ngoài, đây giống như là lớp chuyển
tiếp trung gian giữa người xem, vũ công không đeo mặt nạ và thần linh ngự ở các
vòng bên trong.
Những vũ công Mũ Đen
Những vũ công Mũ
Đen (Shanag) có nguồn gốc là các thầy phù thủy trong đạo Bon, nhưng lại
đóng vai trò rất quan trọng trong múa Cham do bởi câu chuyện liên
quan đến đại sư Pelgyi Dorje, ông cải trang thành phù thủy mũ
đen hành thích vua Lang Darma để cứu Phật giáo Tây tạng khỏi diệt
vong**. Các shanag có nhiệm vụ mở đàn tràng, tẩy uế đất đai,
xua đuổi quỷ dữ để xây dựng mandala cho buổi lễ. Họ dậm mạnh chân lên
đất trong điệu múa có tên là Sấm Sét (thunderbolt) để chiếm giữ đất
đai và áp đặt dấu ấn về sức mạnh của mình trên đó.
"Cấu trúc của đàn
tràng Cham phản chiếu cấu trúc hình thức của một mandala. Các vũ công nhập vào
không gian của đàn tràng và đi xung quanh theo chiều kim đồng hồ, họ tạo ra
hình thức của một mandala thiêng, họ niêm phong các ranh giới để tránh những lực
lượng hắc ám và gia cường cho các không gian ngoại tiếp. Vị trí của vũ công
trong không gian tái tạo lại vị trí của các vị thần trong một sơ đồ mandala
truyền thống... họ ra khỏi đàn tràng bằng những bước chân có chủ định, lần lượt
từng người một hoặc từng đôi một đi qua không gian thiêng liêng cho đến khi nó
trống rỗng". (Karen Greenspan, The Mandala of Dance)
Cấu trúc mandala của đàn tràng Cham, vòng ngoài là vũ công Mũ Đen,
vòng giữa là các thần hộ pháp, trong cùng là trung tâm
"Tham gia vào các quy
luật của vũ trụ là mục tiêu của rất nhiều nền văn hóa kể từ thời cổ đại. Tái tạo
lại cấu trúc vũ trụ có thể tạo nên quyền lực và duy trì ổn định quyền lực này.
Khiêu vũ như là giai điệu của sự chuyển động, là một biểu hiện văn hóa đặc biệt
để tái tạo lại các vũ trụ có cấu trúc đó" (Barbara Rappenglück, Comic
Dance, correlation between dance and cosmos - Related ideas across ancient
cultures). Cham có lẽ không nằm ngoài quy luật phổ quát này.
Cham - Hình thức và tư tưởng
Không như với các nghệ sĩ
bình thường, các điệu múa thiêng được đào luyện và phóng chiếu ra từ tâm trí của
những người đã giác ngộ, nên chúng được coi là một trong những phương tiện mạnh
mẽ và thiện xảo nhất nhằm giải thoát vũ công, khán giả, thậm chí cả các loài
côn trùng nhỏ bé có mặt tại đàn tràng. Có rất nhiều điệu múa thiêng được thực
hiện trong thế giới Kim Cương thừa tại các sự kiện đặc biệt hoặc ở những thời
điểm tốt lành khác.
Các điệu múa có thể chia
thành ba loại chính: (1) các điệu dẫn lối là những điệu múa tâm linh như vũ điệu
của các hoàng tử và công chúa, điệu nhảy của hươu đực và những con chó săn, vũ
điệu phán xét của sự chết; (2) điệu múa thanh lọc và bảo vệ đàn tràng khỏi những
linh hồn ma quỷ như vũ điệu của Thầy trong đài hỏa táng, những điệu nhảy của
stags, những điệu nhảy của các vị thần phẫn nộ, những điệu nhảy của những vũ
công mũ đen, những điệu nhảy của các ging và tsholing, các điệu múa của các
ging với gậy và ging với gươm; và (3) những điệu nhảy nhằm loan báo chiến thắng
của Phật giáo và sự vinh hiển của Guru Rinpoche là tất cả các điệu múa với
trống, điệu nhảy của các anh hùng, các vũ điệu của thiên nhân, những điệu nhảy
trong tám hình tướng của Guru Rinpoche.
Điệu nhảy của hươu đực và những con chó săn
(nguồn: bhutanese mask dances in bumthang)
Mỗi điệu múa kể lại một câu chuyện của lịch sử hay của tưởng tượng. Điệu múa có tên "Điệu nhảy của hươu đực và những con chó săn" kể câu chuyện đại sư Milarepa chuyển hóa người thợ săn, con chó của mình và con hưu thành Phật. |
Điệu nhày của trống từ Drametsi (nguồn: bhutanese mask dances in bumthang)
"Điệu nhảy của trống từ Drametsi" đại diện cho đoàn tùy tùng của Guru Rinpoche là những vị thánh bảo trợ của Bhutan. Họ ăn mừng sự chiến thắng của tôn giáo.
Cham kể những câu chuyện theo một cách khác thường: kể bằng quán tưởng. Kể bằng cách hành thiền. Bằng cách chuyển hoá mình thành những bổn tôn trong điệu múa, các vũ công đã dùng sức mạnh của bổn tôn để tịnh hóa chúng sinh, tịnh hóa mọi thứ ở những vùng được nhuốm trong hào quang của niềm quán tưởng. Người Buhtan tin rằng họ phải nhìn thấy những điệu nhảy ít nhất một lần trong đời để có thể nhận ra những vị thần trong lúc lâm chung, lúc này tất cả các vị thần xuất hiện trong vũ điệu sẽ có mặt để dẫn người quá cố đến cảnh giới cao hơn. Kinh sách nói rằng, chỉ bằng cách xem điệu nhảy này, mọi người có thể được giải thoát khỏi sự tái sinh hoặc tránh sự tái sinh trong những cõi thấp.
Những
mặt nạ Cham được triển lãn tại The Robin Museum (nguồn: cham dances ritual spectacle and beauty)
|
Cham; những chuyển động linh thiêng của cơ thể; bao hàm trong nó ba ý nghĩa đặc biệt của những biểu hiện nội giới, ngoại giới và mật giới. Ngoại giới liên quan đến sự biến đổi của chuyển động cơ thể bình thường thành chánh niệm thông qua những động tác hình thể được sử dụng trong các điệu nhảy. Đây như một phép du già giúp cơ thể tẩy sạch các ý tưởng tiêu cực và giúp thanh lọc các hình thức khác của sự yếu đuối. Nội giới liên quan đến những nỗ lực chuyển hóa cơ thể bình thường của người biểu diễn thành một dạng thần thông qua việc đeo mặt nạ và trang phục thần có khuôn mặt cụ thể. Thông qua hoạt động này người biểu diễn điệu nhảy và khán giả liên kết với nhau trong một không gian chung nhằm hướng tới việc chế ngự ma quỷ và loại bỏ các chướng ngại vật của tâm. Mật giới nhằm mục đích biến đổi biểu hiện bình thường của thân, khẩu và ý vào thế giới của Tự Khởi Tánh Giác Nguyên Thủy (Self-arising Primordial Awareness) bởi mỗi con người tự thân đã là Phật chưa thành. (Khenpo Phuntsok Tashi (2011) The Sacred Dance of Peling Ging Sum, Journal of Bhutan Studies, 24 (Summer 2011), pp.55-68. )
Cham và mặt nạ Cham
Mặt nạ Cham là thế giới của thần linh và động vật. Không phải ngẫu nhiên mà thế giới này lại sinh động và đa dạng đến vậy. Do sự kế thừa những hình thức hóa trang của dân bản địa từ thời nguyên thủy đến lễ nghi của Bái Vật giáo (totem) trong tín ngưỡng cổ xưa là đạo Bon, mặt nạ Cham của vùng Hymalaya có một nền tảng vững chắc để phát triển rực rỡ dưới ảnh hưởng của Phật Giáo sau này.
Mặt nạ người cũng xuất hiện trong Cham nhưng không mang tính chất thiêng mà chỉ như những màng diễn đệm có tính chất dẫn dắt câu chuyện, làm dịu không khí căng thẳng và đôi khi làm nhiệm vụ quyên góp tiền cho tu viện.
Những kiểu mặt nạ người của Cham
Dharmapalas - những bổn tôn phẫn nộ (Wrathful Deities) là điều làm cho Cham linh thiêng và trở nên có sức cuốn hút mãnh liệt. Đó là những vị hộ pháp (chos kyong) có nguồn gốc từ Phật giáo Ấn Độ kết hợp với các thần thánh của đạo Bon và những thần linh bản địa nguyên thủy. Phức hợp tín ngưỡng này tạo ra những thần linh mang trong mình một sứ mạng cực điểm mâu thuẫn: dùng bạo lực để mưu cầu một thế giới bình an.
Yama (Choe jia) - Dạ Ma, thần
chết có vị trí đặc biệt quan trọng trong Cham. Nguồn gốc phẫn nộ của bổn
tôn này đến từ niềm uất hận do thành tựu bất thành chỉ trong giây lát. Công lao
của gần 50 năm nhập định sắp đạt giác ngộ, phút chốc bị phá tan tành bởi hai
tên trộm hèn mạt, chúng giết ông chỉ vì sợ việc trộm trâu bị bại lộ mặc cho ông
van xin chúng cho được sống thêm một vài giây.
Ngay sau khi bị chém mất đầu,
ông lập tức biến thành Yama đội cái đầu trâu vào cái xác không đầu của
mình. Yama giết chết hai tên cướp và uống cạn máu của chúng bằng cái
chén được làm bằng sọ của bọn cướp này. Trong cơn điên cuồng chém giết báo
thù, Yama đe doạ tiêu diệt hết tất cả dân Tây Tạng.
Người dân Tây Tạng nguyện cầu
đức Văn Thù Sư Lợi , ông liền vận dụng thần thông hoá thân
thành Yamantaka (Hàng phục dạ ma), ngài đánh bại Yama,để cứu
giúp dân chúng, đồng thời ngài khiến Yama trở thành một trong những hộ
pháp của Phật giáo. Cái mặt nạ Yama có màu xanh đen và mang hình đầu
trâu là bởi truyền thuyết rùng rợn này.
Yamantaka (Yam yan) -
Hàng phục dạ ma là hoá thân phức tạp và phẫn nộ khủng khiếp nhất
trong tất cả các hoá thân phẫn nộ của Phật giáo.
Theo truyền thuyết, Văn Thù
Sư Lợi đi khắp tất các nơi trong địa ngục để tìm kiếm Yama. Cuối cùng ngài đã
tìm ra được nơi trú ngụ của Yama và các thuộc hạ của mình tại một thành phố sắt
ở địa ngục. Để hàng phục Yama, Văn Thù Sư Lợi sử dụng hình dạng
thân người đầu trâu như của Yama, nhưng thêm vào đó tám đầu và nhân lên
nhiều tay, nhiều chân, mỗi cánh tay đều cầm những thứ vũ khí đáng sợ. Hơn nữa,
vây xung quanh ngài là một số lượng lớn những chúng sanh đang tột cùng kinh
hãi. Để đối đầu với cái chết, ngài hiện thân như chính bản thân của thần chết
nhưng ở qui mô gấp vạn lần. Thấy được thực tế rằng sự khủng khiếp tàn khốc hơn
chính cả bản thân mình khiến Thần chết Yama thức tỉnh và quy thuận.
Bằng cách quán tưởng hình tượng yamantaka,
các nhà sư vũ công sẽ phát triển được định lực đủ mạnh để đối diện với cái chết,
cũng như trấn an các nỗi sợ hãi về cái chết.
Mỗi cái đầu, mỗi cánh tay, mỗi
bàn chân cho đến từng động tác, từng món trang sức của Yamantaka đều là những biểu
tượng giác ngộ tối cần thiết cho việc đối diện và hóa giải cái chết cho
chính mình và người xem.
Mahakala (Gonpo) - Hắc Đại
Thiên là vị thần trung tâm và là bổn tôn phẫn nộ quan trọng nhất của Cham.
Ông còn được biết đến dưới cái tên Gonpo nagpo được hiểu như
là phẫn nộ chánh giác (enlightened righteous wrath).
Mahakala có nguồn gốc từ
Ấn Độ, nhanh chóng được yêu quý và hấp thu vào Phật Giáo vùng Hymalaya một cách
rất tự nhiên do ngài là vị thần của du mục và lều trại.
Mahakala là
hóa thân khốc liệt nhất của Quán Thế Âm bồ tát, bởi niềm phẫn uất của hạnh
nguyện cứu nhân độ thế không thành. Thất vọng và nhụt chí, Quán Thế
Âm bồ tát tự đập đầu vỡ tan thành ngàn mảnh, Phật A Di Đà cứu lại cuộc sống
bằng cách nhặt những mảnh vỡ và ghép lại thành 11 đầu, cùng lời dạy Quán
Thế Âm bồ tát cố giữ chánh nguyện kiên định hơn. Từ đó vị bồ tát này có 11
đầu, trong đó có mười đầu hiền hoà và một đầu phẫn nộ chính là đại diện
cho Mahakala.
Sitamahakala (White
Mahakala) - Hộ pháp trắng là hình tướng phẫn nộ của vị hộ pháp chủ về sức
khỏe và tài lộc. Khuôn mặt có màu trắng là màu của bình an và lòng nhân từ. Ông
đặc biệt phổ biến ở Mông Cổ và là thần hộ pháp chính của nước này.
Khi quán tưởng Sitamahakala, đầu
tiên chúng ta xóa bỏ không gian chướng ngại và tắc nghẽn cùng những suy nghĩ
tiêu cực ảnh hưởng đến sức khỏe. Sau đó, chúng ta thỉnh cầu thần theo mười
phương vũ trụ và khẩn nguyện thần mở cánh cửa của trí huệ tích cực. Kế tiếp,
tài lộc (những năng lượng tích cực) theo mọi hướng xuyên qua không gian: đầu
tiên cho tài nguyên trái đất và những vật chất vi tế, sau đó trải ra cho mọi
tri giác của chúng sinh.
Mặt nạ Mahakala trắng có biểu
tượng vương miện năm đầu lâu như hình ảnh chung của bổn tôn phẫn nộ. Ngài có một
miệng mở với hàm răng sắc nhọn và cũng có con mắt thứ ba ở giữa trán.
Hình ảnh này trái ngược với
một hóa thân hiền hòa, rất phổ biến trong múa Cham tại vùng Tây Tạng của bổn
tôn này, được gọi là Kubera hay Namse hay Vaishravana.
Mặt nạ Kubera
Kubera (Vaisravana) -Tài Bảo
Thiên Vương theo thần thoại Hindu, Kubera là con trai của một
nhà hiền triết gọi là Visravas, vì vậy ngài được đặt theo tên cha mình
là Vairavana. Truyền thuyết nói rằng do có căn tu cộng thêm hàng ngàn năm
khổ luyện, nên Kubera được Đại Phạm Thiên (Brahma) ban cho
sự trường sinh bất tử, cho trông coi kho báu của thế gian và cũng là vị thần bảo
hộ của phương Bắc. Tài bảo thiên vương quản lý sự chuyển hóa công đức và
báo phúc ở nhân gian, phân phát tài sản cho mọi người, duy trì Phật pháp, loại
bỏ ma chướng, báo phúc cho người tu hành.
Quán tưởng hình tượng của Tài
Bảo Thiên Vương là quán tưởng về sự giàu có bởi bôn tôn này là người giàu
nhất trong thế giới thần linh. Năng lượng quán tưởng này ban lại lợi lạc
cho tất cả chúng sinh. Do nhờ đại lực gia trì của Tài Bảo Thiên
Vương nên các chướng nạn nguy ách bị đẩy xa lìa, lại chẳng bị cản trở bởi
ma chướng, mau mắn đạt các thắng nguyện và tăng trưởng phước đức thọ mệnh.
Sự giàu có của Tài Bảo Thiên
Vương trong ý nghĩa tinh thần chính là việc người tu hành giữ được viên ngọc
quý Phật pháp mà không gì sánh được .
Mặt nạ Hayagriva
Hayagriva (tam drin) - Mã Đầu
Minh Vương là hóa thân phẫn nộ của Quán Thế Âm bồ tát vào cõi
súc sinh nhằm hóa độ cõi này. Tôn này do nhân Đại Bi nên không trú ở Niết
Bàn và do nhân Đại Từ mà trụ trong cảnh giới Vô minh để đoạn tận các nẻo ác.
Quán Thế Âm hiện thân Mã Đầu là để tượng trưng cho sức tinh tiến của các vị Bồ
Tát không bao giờ ngưng nghỉ ở bất cứ chỗ nào.
Mã Đầu Quán Âm có liên quan
mật thiết với thần Hayagrīva là một hoá thân mình người đầu ngựa của Viṣhṇu
trong Ân Độ Giáo. Ngài tượng trưng cho sự chiến thắng của kiến thức thuần khiết
đối với các lực lượng Ma Quỷ thuộc dục vọng và bóng tối.
Palden Lhamo (Ban Đạp Lạp Mỗ
) - Cát Tường Thiên Mẫu là vị nữ hộ pháp duy nhất của Phật Giáo. Ngài
là nữ hộ pháp của đức Đạt Lai Lạt Ma, nhà nước Tây Tạng và thủ phủ Lhasa. Đồng
thời ngài cũng là nữ hộ pháp cho đất nước Trung Quốc từ triều đại nhà Nguyên,
thế kỉ 13, cho tới những ngày cuối cùng của triều đại nhà Thanh đầu thế kỉ 20.
(Theo: batdai ho phap)
Hình tướng phẫn nộ của Palden
Lhamo khởi nguyên từ truyền thuyết về cuộc hôn nhân của chính mình. Chồng
ngài là vua Shenji, một vị vua khát máu và là một chiến binh bạo tàn, ông ta từ
chối tất cả những lời khẩn cầu dừng việc giết hại dân chúng vô tội của Palden
Lhamo. Cuối cùng ngài đành đưa ra một tối hậu thư: Nếu không dừng giết hại, bà
sẽ giết đứa con trai của họ, để ông có thể trải nghiệm nỗi đau người thân bị giết
hại mà ông ta gây ra cho những người khác. Shenji vẫn không dừng, thế
là ngài thực hiện lời đe doạ của mình. Trước cái chết của con trai, ông vua tàn
bạo đã buộc phải thức tỉnh.(Theo: bat dai ho phap)
Ngài hay được thấy mang theo
xác của con trai mình trên lưng con la đi khắp nơi. Đây là biểu tượng cho quyết
tâm không dừng lại trước bất cứ điều gì để đem lại sự an bình cho tất cả. Sự phẫn
nộ bởi chính bản thân không giải quyết được câu chuyện của chính mình là sự phẫn
nộ của bi kịch. Bi kịch của một hạnh nguyện lớn tạo ra một lực cảm hóa lớn.
Begtse - Thần chiến
tranh là vị hộ pháp gia nhập cuối cùng vào 8 vị hộ pháp của Phật Giáo vào
thế kỷ 16. Bổn tôn này không có nguồn gốc từ Ấn Độ mà lại liên quan tới vị thần
chiến tranh ở Trung Á trong những tôn giáo có trước Phật Giáo Mông Cổ.
Câu chuyện của Begtse mang
âm hưởng của lịch sử Phật giáo, đó là câu chuyện chiến thắng của đạo Phật. Theo
truyền thuyết, Begtse lãnh đạo một đội quân động vật, xuất hiện để cản
trở Dalai Lama khi ngài được vua của Mông Cổ lúc bấy giờ
là Atlan Khan (con cháu của Thành Cát Tư Hãn) mời từ Tây Tạng tới
Mông Cổ nhằm chuyển đổi Phật giáo thành quốc giáo của nước này. Tận mắt chứng
kiến những bước chân của Dalai Lama tạo ra câu thần chú Om Mani
Padme Hum, Begtse liền tin tưởng ngay vào tính ưu việt, sự vượt trội của
Phật giáo nên tự động quy phục và chuyển đạo thành Phật giáo.
Mặt nạ của Begtse có màu đỏ
sậm rất dữ dội. Màu sắc này dùng để tượng trưng cho sức mạnh, một sức mạnh của
quyền năng buộc người ta phải quỳ xuống khi đối diện. Một tay ông nắm giữ một
thanh kiếm để tiêu diệt cái ác và "nhổ tận gốc" sự thiếu hiểu biết,
trong khi ở bên kia ông cầm một trái tim người hoặc một viên ngọc quý để có thể
nhận lấy bất kì điều ước nào của thế gian.
Cuộc sống săn bắt và chăn thả
đã hình thành một mối quan hệ gần gũi với động vật như ngựa, bò Tây Tạng, cừu,
hổ, sư tử và khỉ. Do ảnh hưởng của những động vật lên cuộc sống đã làm nảy sinh
tình yêu của họ dành cho chúng, vì vậy người Tây Tạng tín ngưỡng động vật theo
một lẽ rất tự nhiên. Những hình thức động vật này xuất hiện khá nhiều trong mặt
nạ Cham, có khi là một đầu con vật hoàn chỉnh như mặt nạ Đầu nai (stag), có khi
là một dạng động vật huyền thoại như mặt nạ chisun.
Con nai (stag) là sứ giả của Yama.
Mặt nạ nai trong Cham được giữ y như trong tự nhiên với cặp sừng dài và những đốm
tròn đen và nâu trên da. Nó có lẽ là một trong những mặt nạ nghi lễ cổ xưa
nhất với nguồn gốc có thể xuất hiện ở thời tiền sử. Vào lúc bắt đầu của nền văn
minh, mặt nạ của nai và bò là loại mặt nạ được sử dụng để đánh dấu các ngày hạ
chí, khi một chu kỳ sống mới bắt đầu với sự trở lại của ánh sáng rưc rỡ trên bầu
trời. Trong nhiều tôn giáo của Bắc bán cầu con nai vẫn còn là một biểu tượng thức
tỉnh của sự sống và ánh sáng. Tại Mông Cổ con nai là biểu tượng của sự sinh sản,
gạc nai được sử dụng bởi các pháp sư trong các nghi lễ nhằm bảo đảm cho sự
sinh sản lành mạnh của cả đàn. Điệu múa với mặt nạ nai của Cham là một điệu múa
hoang dã và điên cuồng trong không khí thần trí hôn mê như đồng thiếp
(theo http://www.wtmongolia.com/).
Cũng xuất hiện trong một điệu nhảy nhanh không kém nai, là điệu nhảy của bò và
hổ, chúng là những người hầu của Yama. Mặt nạ bò được thể hiện với cặp sừng
cong ma mị của Yama trong khi mặt nạ hổ là một kiểu đe dọa đã
trở thành nỗi sợ hãi thường trực của cư dân châu Á đối với con vật này.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét