Thứ Ba, 14 tháng 1, 2020

18. Mặt nạ Sri Lanka


18. Mặt nạ Sri Lanka - Những vọng âm từ linh hồn của quỷ


Sri Lanka - Huyền thoại về một đất nước bị đánh cắp

Số phận như một trò đùa trớ trêu đã đem đất nước thuộc sở hữu của vị thần giàu có nhất thế gian Vaisravana/ Kubera đặt vào tay ông vua quỷ Ravana bởi một cuộc đánh cắp*.

Trò chơi của thần linh thường mang dục vọng của con người: cha ghét con, anh em đố kỵ lẫn nhau, người lớn phải giải quyết bằng một giải pháp dung hòa, kết quả trở thành hậu quả. Những thế hệ sau buộc phải mang trên vai một di sản nặng nề của quá khứ được gọi là nghiệp chướng.


Một diễn viên kịch Ramila (Ấn Độ) mang trang phục và mặt nạ Ravana (nguồn: wiki)

Ravana là kết quả của cuộc hôn nhân giữa một nhà hiền triết và một con quỷ La Sát. Cái ác trong hình thái tinh khôn đủ sức biến Ravana thành vua của quỷ với đồ đệ là các La Sát (Raksha) và Dạ Xoa (Yaksha) hiện diện nhung nhúc tại vùng đất thấp thuộc phía đông nam Srilanka ngay từ buổi hồng hoang của lịch sử **.

Cái bóng quá lớn của sử thi Ramayan Ấn độ đã đổ dài xuống đất nước Sri Lanka và định danh cho đất nước tươi đẹp này là vùng đất của quỷ. Quỷ và những gì liên quan tựa như một ám ảnh tới tâm linh dân tộc. Không nơi đâu trên trái đất, quỷ lại hiện diện nhiều như ở mảnh đất này. Như một ám ảnh tối tăm cần phải được đối diện, người Srilanka chọn mặt nạ quỷ làm phương tiện để chữa bệnh  như là cách hàn gắn tâm linh và hòa giải với quỷ thần. 


Mặt nạ Raksha, những thần dân La Sát của vua quỷ Ravana

"Trong thế giới của sử thi Ramayana và Mahabharata, Raksha là một loài siêu nhiên đông đúc có hình dáng, tính cách con người. Đó là những con quỷ, Raksha được coi như là những chiến binh, chiến đấu bên cạnh quân lính của cả quỷ và thần. Chúng là những chiến binh hùng mạnh và là một phù thủy bậc thầy có khả năng biến hóa khôn lường.

Như một kẻ biến hình, Raksha mang những dạng khác nhau, không thể xác định được hình thể thực sự hay tự nhiên của chúng. Như những nhà ảo thuật, Raksha có năng lực hiện hình thực sự khi người ta tin vào chúng hay biến hình khi bị xua đuổi. Một vài Raksha được cho là những kẻ ăn thịt người; chúng hân hoan, vui sướng khi là kẻ tàn sát trên chiến trường. Đó là những Raksha xấu xa, tồi tệ nhất. Đôi khi, chúng phụng sự như là những chiến binh bề tôi cho các vị chủ tướng này hay chủ tướng khác" (xem thêm: Lasát). Những hình thức khác nhau của quỷ La Sát này được tái hiện lại trên nhiều loại mặt nạ trong điệu Raksha của Kolam Maduwa, một dạng múa nghi lễ rất phổ biến của cư dân vùng trũng thuộc ven biển phía đông Sri Lanka. Có tất cả 24 hình thức Raksha nhưng chỉ một số ít được thể hiện trong múa Kolam. Hai mặt nạ nổi tiếng nhất thể hiện hai con quỷ vốn là kẻ thù của nhau: mặt nạ rắn hổ mang, Naga Raksha (Cobra Mask) và  mặt nạ con chim huyền thoại Gurulu Raksha (Mask of the Bird).


Mặt nạ Naga Raksha, trưng bày tại triển lãm Masks for Life and Death
thuộc UiO: Museum of Culture History (chi tiêt: www.khm.uio.no

Tất cả các mặt nạ Raksha đều được thể hiện cùng với rắn nhưng mặt nạ Naga Raksha hay Quỷ Rắn phải có ít nhất sáu rắn hổ mang bao gồm cả hai con chui ra khỏi miệng hay mũi của nó. Những con rắn khác được làm tai và kết thành vương miện đeo trên đầu. Mặt nạ này được dùng nhằm áp đặt nỗi sợ hãi vào tâm trí khán giả bởi nó đại diện cho bản chất độc địa của loài rắn, một trong những hóa thân của La Sát trong huyền thoại Srilanca.

Garuda trong thần thoại Hindu được thể hiện thành Gurulu trong múa Kolam của Srilanka (xem clip: Dieu mua Raksha). Cho dù được gọi bằng tên khác, cốt lõi của mối hận thù giữa hai anh em cùng cha khác mẹ này vẫn được duy trì. (xem chi tiết: Huyenthoai Garuda)


Mặt nạ Gurulu thuộc sưu tập của Michael Blackman Ltd.

Con rắn Naga luôn được thể hiện trên mặt của mặt nạ Gurulu Raksha trong tư thế bị mỏ chim kẹp chặt. Đây là biểu tượng cho chiến thắng tuyệt đối của Gurulu trước Naga, một cuộc chiến có ý nghĩa biểu tượng về sự bảo vệ của thánh thần. Người Srilanka treo mặt nạ Gurulu trước nhà để cầu mong may mắn và sự bảo vệ.

Loại La Sát đáng sợ nhất là một loại ác quỷ ăn thịt người, thường hay lui tới các bãi tha ma lúc đêm tối. Chúng sống nơi ven biển và là nỗi lo sợ kinh hoàng của những người đi biển bị đắm tàu. Hình ảnh này được tái hiện trong mặt nạ Maru Raksha, con quỷ chết chóc (demond of death). Mặt nạ này là biểu tượng của sự chết, chỉ nhìn mặt nạ này thôi người ta cũng đủ chết khiếp rồi.


Mặt nạ Maru Raksha, trưng bày tại triển lãm Masks for Life and Death
thuộc UiO: Museum of Culture History (chi tiêt: www.khm.uio.no)

Trái với ý nghĩa của Maru Raksha, Mặt nạ hình chim công Mayura Raksha lại là biểu tượng của hòa bình và hòa hợp. Cái mặt nạ này có màu sắc sáng sủa do sự phối hợp giữa màu trắng và màu xanh dương. Con chim công được cho là biểu tượng của hòa giải và hòa hợp vì vậy nó cũng có năng lực xua đuổi ma quỷ.


Mặt nạ Maruya Raksha, sưu tập của John Willis (nguồn: John Willis)

Cũng có tác dụng xua đuổi tà ma là mặt nạ Ginidella Raksha, Quỷ Lửa. Mặt nạ này miêu tả cảm xúc giận dữ vì vậy các sắc đỏ, cam và vàng được sử dụng chủ đạo. Người Srilanka tin vào tầm quan trọng của sự phối hợp hài hòa giữa màu sắc và hoa văn trong tác dụng xua đuổi tà mà của mặt nạ này.


Mặt nạ Ginidella Raksha thuộc sưu tập của Kandyan Art Association

Mặt nạ Raksha có kích thước lớn với nhiều chi tiết và hoa văn phức tạp. Những chi tiết như mắt, tai và nanh luôn được cường điệu lên để nhấn mạnh vào vẻ hung dữ của La Sát, mắt luôn lồi, lưỡi thè ra và răng nanh sắc nhọn.

Sợ hãi và chế ngự nỗi sợ hãi là hai trạng thái đối lập trong tâm thức của con người, sùng kính quỷ nhằm tìm kiếm một sức mạnh để vượt qua ám ảnh của quỷ được thể hiện bằng quỷ và phản quỷ trong quan niệm của người Sri Lanka. Thế giới của những Raksha La Sát là thế giới của những cuộc chiến giành giật ánh sáng trong trạng thái hỗn mang của tâm thức lẫn không gian ở thời mông muội cùa dân tộc này. La Sát và Dạ Xoa, hai chủng quỷ điển hình vẫn còn để lại những vọng âm lưu dấu trên mặt nạ Srilanka cho tới tận ngày nay.


Mặt nạ Yakka, những chủng tử Dạ Xoa của hoàng hậu Kuveni

Lịch sử thành văn ghi nhận vị vua đầu tiên của Sri Lanka là Vijaya (khoảng thế kỷ 5-6 trước Công nguyên). Khi hoàng tử Vijaya lần đầu đến đảo Lanka từ miền bắc Ấn Độ, người của ông đã bị Kuveni, nữ hoàng của gia tộc Yaksha - quỷ Dạ Xoa, giam cầm (xem thêm: quy da xoa). Vijaya đi tìm kiếm người của mình, ông tìm thấy Kuveni và đe dọa sẽ giết cô. Kuveni hóa thành một người con gái xinh đẹp, cầu xin cho cô được sống. Đổi lại cô hứa sẽ giải phóng người của Vijaya, nhường vương quốc, và trở thành vợ của hoàng tử. Sử dụng sức mạnh ma thuật của mình, Kuveni phản bội đồng loại, giúp Vijaya tiêu diệt các Yakshas để Vijaya làm vua và cai trị Lanka. 


Mặt nạ Riki Yakka của Jasson Schnoover
(nguồn: 
museum of anthropology)

Hai vợ chồng sống với nhau trong nhiều năm, mặc dù Kuveni sinh hạ cho vua hai đứa con, một trai và một gái, Vijaya cuối cùng cũng loại bỏ cô khỏi cuộc đời: "Giờ đây, người thân yêu, hãy đi đi và để hai con ở lại, con người không thể sống với siêu nhiên cùng nỗi sợ hãi của mình". Những lời cầu xin ở lại của Kuveni không được chấp thuận. Cô rời khỏi cung điện cùng hai con và một trái tim tan vỡ. Kuveni sau đó đã bị loài quỷ Dạ Xoa cắt lưỡi và giết chết để báo thù, máu chảy ra từ lưỡi của cô đã sinh ra Riki Yakka, một chủng tử hận thù, chủ những bệnh tật liên quan tới sự tuần hoàn máu của con người. Cô còn để lại lời nguyền sẽ làm cho vua và hậu duệ không có con, đây là nguyên nhân của những vũ điệu ma thuật liên quan tới Yakka được ra đời để loại bỏ lời nguyền này.

Mặt nạ Riki Yakka có liên quan mật thiết với mặt nạ Maru Sanniya sẽ được đề cập bên dưới. Riki Yakka là một hình tướng khác của Maru Sanniya, cả hai đều liên quan tới máu và chết chóc, chúng đều được dùng trong nghi lễ Sanni Yakuma nhưng trên hai sân khấu khác nhau. Maru Sanniya được múa trên sân khấu chính để cầu nguyện quỷ Sanni trong khi Riki Yakka được múa trên sân khấu phụ để cầu nguyện quỷ Yakka.

Maru Sanni, con quỷ của cái chết liên quan đến điên loạn và mê sảng, thường được xem như một con gấu, hoặc trong hình dạng có râu ria xồm xoàm. Riri Yaka là một con khỉ với khát máu vô độ. Nó là hiện thân của bệnh tật do bị mất máu. Cả hai con  quỷ này luôn ám bên giường của người chết.


Mặt nạ Maha Sohona của Jasson Schnoover
(nguồn: 
museum of anthropology)

Luôn trong hình dạng của con gấu và mang hình ảnh đầy chết chóc là mặt nạ Maha Sohona. Maha Sohona là "Đại Quỷ của Nghĩa trang" nó ở trong nghĩa địa chờ đợi những linh hồn non nớt mới được chôn cất và những người đi chôn chúng. Nó ám luôn các tảng đá lớn và những ngọn đồi quanh nghĩa địa đồng thời luôn chờ chực ở các ngả ba đường. Maha Sohona giết người vào ban đêm bằng cách đánh vào giữa hai vai. Dấu bàn tay sẽ còn hằn lên trên da thịt của cơ thể người chết vì bị con quỷ này giết. Ngoài giết chết, nó cũng có thể nhảy vào để ám con người.

Thức ăn ưa thích của con quỷ này là lòng người cùng thịt thối rữa và máu. Đây là một trong những con quỷ đáng sợ nhất, nguy hiểm nhất, nổi tiếng nhất và cũng quan trọng nhất của Sri Lanka.

Huyền thoại về con quỷ này kể rằng, Jayasena đã bị một chiến binh ngoan cường của vua Dutugemunu đã cắt đầu trong một cuộc chiến, vị thần Senasura của trái đất thấy vậy liền lấy đầu của một con gấu đặt lên cơ thể của chiến binh này để cứu mạng.


Jayasena chết đi hóa thành quỷ với mình người đầu gấu, thống lĩnh một đội quân quỷ lên đến bảy vạn con và gây ra một loạt các chứng bệnh khác nhau lên con người, đặc biệt là các bệnh liên quan tới đường ruột như dịch tả, kiết lị.

Ngoài hai con quỷ nổi tiếng trên, thế giới của Yakka còn có thêm một vài con quỷ được người Sri Lanca cho là tạo ra các bệnh tật khác cho con người: Suniyam Yakka được tin là nguyên nhân gây tê liệt và liên quan tới phù thủy, Kalu Yakka được cho là nguyên nhân gây ra các bệnh của phụ nữ và trẻ sơ sinh, Ahimana Yakka thường đe dọa người dân và gây ra các bệnh tâm thần.

Trong nghi lễ Sanni Yakuma, các thầy cúng thể hiện điệu múa của Yakka ở một sân khấu phụ cùng lúc với sân khấu chính đang thể hiện điệu múa của quỷ Sanni. Các Yakkadura thầy cúng (hay Kattadiya) tiết lộ nguyên nhân đau đớn của bệnh nhân ngồi trước mặt mình. 


Các bệnh nhân ở giai đoạn này sẽ cầu khẩn và cúng tế cho các quỷ. Các quỷ sau khi nhận được lời khẩn cầu và đồ tế lễ sẽ hứa rời khỏi người bệnh. Trong suốt quá trình chữa trị, rất nhiều câu thơ được đọc lên cho quỷ nghe còn không gian lặng thinh của toàn bộ khu vực chỉ được phá vỡ bởi những âm thanh chói tai phát ra từ tiếng động của nhịp đập trống, suốt từ chiều đến tối mịt (theo: maskdance).


Mặt nạ Paliya, những con quỷ nhân từ

Ata Paliya là sân khấu cho các vũ điệu được các con quỷ Paliya thực hiện, nó bao gồm tám điệu nhảy ở giai đoạn đầu tiên của nghi lễ Sanni Yakuma. Trước khi những điệu nhảy bắt đầu, các Yakadura chuẩn bị một số lễ vật do bệnh nhân cúng tế để trao cho ma quỷ. Những con quỷ Paliya được quan niệm như người ban phước lành cho bệnh nhân, chúng lần lượt xuất hiện và đi vòng quanh đàn tràng, xõa bột nổ, rắc nước dừa để tẩy uế vùng đất ở nhà người bệnh, nơi đã bị ám bởi quỷ.

Mười hai mặt nạ Paliya, tên theo thứ tự trái qua phải và trên xuống dưới:
Pandam Paliya, Anguru Dummala Paliya, Kadu Paliya, Kalas Paliya,Salu Paliya, Dalumura Paliya, Tambili Paliya, Muguru Paliya, Kukulu Paliya, Athu Paliya, Dunu Paliya, Kendi Paliya. Từ sưu tập của Jasson Schnoover .
(nguồn: museum of anthropology) và ArtSrilanca (nguồn: artsrilanka)

Pandam Paliya mang ngọn đuốc cháy, Anguru Dummala Paliya mang bột nhựa và than, Kadu Paliya mang một thanh kiếm, Kalas Paliya mang một cái bình hoa, Salu Paliya mang trầu, Dalumura Paliya mang trầu, Tambili Paliya mang một quả dừa vua, Muguru Paliya mang một cây gậy, Kukulu Paliya mang một con gà trống, Athu Paliya mang cành cây, Dunu Paliya mang một cây cung và mũi tên và Kendi Paliya mang một chậu nước thánh.


Mặt nạ Sanni và những nguồn căn của bệnh tật 

Câu chuyện về các con quỷ Sanni có nguồn gốc ngược trở về từ thời kỳ của Phật Thích Ca (khoảng giữa thế kỷ 3 trước Công nguyên). Chuyện kể rằng vua Licchavi của Vaishali nghi ngờ hoàng hậu của mình phạm tội ngoại tình nên đã giết bà ta. Tuy nhiên, bà đã sinh hạ một đứa con khi bị hành quyết, con của bà đã trở thành Kola Sanni, người lớn lên nhờ "ăn xác chết của mẹ mình". Kola Sanni hủy diệt thành phố, tìm cách báo thù cha mình. Ông đã tạo ra mười tám cái bứu độc và bỏ bùa chúng để biến chúng thành quỷ nhằm làm người trợ giúp ông trong việc phá hủy thành phố. Chúng đã giết nhà vua và tiếp tục tàn phá thành phố, giết chết và ăn hàng ngàn người mỗi ngày. Sự báo thù tàn ác này chỉ được dừng lại cho đến khi lũ quỷ được thuần hóa bởi Đức Phật và đồng ý ngừng làm tổn hại đến con người.

Trong ngôn ngữ Sinhalese, Sanni có nghĩa là nuôi cho ăn hay bệnh tật. Mỗi một con quỷ được cho là ảnh hưởng đến con người trong một hình thức của bệnh tật và các nghi lễ Sanni Yakuma được thực hiện nhằm triệu hồi những con quỷ đồng thời ngăn chúng trở lại với thế giới ma quỷ sau khi kiểm soát được chúng. Mặc dù thời điểm xuất hiện nghi lễ này vẫn chưa rõ ràng nhưng nó đã được thực hiện ở phần phía nam và phía tây của nước này kể từ thời cổ đại (nguồn: 
SanniYakuma)

Maha-Kola-Sanni là một con quỷ Sanni toàn năng bao hàm trong nó 18 Sanni khác nhau. Mặt nạ mô tả toàn thân của con quỷ này với hai chân cao cùng "đôi cánh", mỗi bên cánh hiển thị chín khuôn mặt quỷ nhỏ. Mỗi mặt quỷ nhỏ này có những dấu hiệu cung cấp manh mối về loại bệnh mà chúng gây ra. Ví dụ, một mặt nạ nhỏ nhắn có đôi mắt mù loà (Kana Sanni) ám chỉ tới bệnh mù, trong khi mặt nạ khác có miệng mở và lưỡi thè ra, miêu tả sự nôn mửa (Gulma Sanni).



Mặt nạ Maha Kola Sanni tại UiO: Museum of Culture History (chi tiêt: www.khm.uio.no)


Lần lượt dưới đây là 18 mặt nạ quỷ cùng với những chứng bệnh liên quan tới chúng.


Mặt nạ Amukku Sanniya, Bihiri Sanniya và Butha Sanniya tại UiO: Museum of Culture History (chi tiêt: www.khm.uio.no)

Amukku Sanniya gây bệnh ói mửa và dạ dày, Bihiri Sanniya gây bệnh điếc còn Butha Sanniya  là nguyên nhân của chứng khùng điên.



Mặt nạ Deva Sanniya, Gedi Sanniya và Gini Jala Sanniya tại UiO: Museum of Culture History (chi tiêt: www.khm.uio.no)

Deva Sanniya tạo ra bệnh dịch, Gedi Sanniya gây ung nhọt và bệnh ngoài da, trong khi Gini Jala Sanniya gây sốt rét và các loại sốt cao khác.



Mặt nạ Golu Sanniya, Gulma Sanniya và Jala Sanniya tại UiO: Museum of Culture History (chi tiêt: www.khm.uio.no)

Golu Sanniya gây bệnh ngu đần, Gulma Sanniya tạo ra bệnh giun sán và các bệnh dạ dày ký sinh còn Jala Sanniya gây ra bệnh tả và ớn lạnh.



Mặt nạ Kana Sanniya, Kora Sanniya và Maru Sanniya tại UiO: Museum of Culture History (chi tiêt: www.khm.uio.no)


Kana Sanniya gây bệnh đui mù, Kora Sanniya gây què quặt và tê liệt trong khi Maru Sanniya gây mê sảng và chết chóc.



Mặt nạ Naga Sanniya, Pitha Sanniya và Kola Sanniya tại UiO: Museum of Culture History (chi tiêt: www.khm.uio.no)

Naga Sanniya gây bệnh nhiễm độc và bỏng, Pitha Sanniya gây những chứng bệnh liên quan tới máu trong khi Kola Sanniya gây bệnh viêm phổi.



Mặt nạ Slesma Sanniya, Vatha Sanniya và Kapala Sanniya tại UiO: Museum of Culture History (chi tiêt: www.khm.uio.no)

Slesma Sanniya gây lãnh đạm và bệnh động kinh, Vatha Sanniya gây đầy hơi và bệnh thấp khớp còn Kapala Sanniya gây chứng nhức đầu.

Theo những lời dạy của luận Phạn cổ điển Susruta Samhita và Charaka Samhita về Ayurveda (một hệ thống y học Hindu truyền thống), sự mất cân bằng của ba Doshas (Thể) là Vata (Khí), Kapha (Hàn) và Pitha (Hỏa) được cho là nguyên nhân gốc rễ của tất cả các bệnh tật của con người. Quỷ là một trong những nguyên nhân có thể tác động tới sự cân bằng này.



Một Sanni Yakuma được tổ chức tại đại học Jayewardenepura, Sri Lanka (nguồn: daha ata sanniya)

Sanni Yakuma là nghi lễ trừ tà để chữa bệnh quan trọng nhất liên quan tới 18 con quỷ Sanni. Đây là một sự kết hợp của tín ngưỡng truyền thống với Phật giáo.Trước khi thực hiện các nghi lễ chữa bệnh, pháp sư được gọi là yakkadura xác định xem bệnh nhân bị ảnh hưởng bởi con quỷ nào và chọn ngày tốt để tiến hành nghi lễ. Những con quỷ liên quan tới căn bệnh của bệnh nhân sẽ được triệu tập vào một sân khấu dành riêng cho chúng gọi là Daha Ata Sanniya, chúng xuất hiện trong một điệu nhảy điên cuồng cùng hình ảnh dị thường một cách đáng sợ. Các vũ công ăn mặc trang phục đầy màu sắc và đeo mặt nạ của con quỷ liên quan, những đối thoại cộc cằn và đôi khi có hơi hướng khiêu dâm sẽ xảy ra giữa con quỷ và người đánh trống, nhằm mục đích hạ nhục con quỷ này. Cuối cùng con quỷ Maha Kola Sanni xuất hiện. Nó được sự cho phép của Đức Phật để chấp nhận lời khẩn cầu từ con người và đồng ý ngừng gây phiền hà cho họ. Cuối buổi lễ, các pháp sư vũ công xuất hiện trước bệnh nhân sau khi gỡ bỏ mặt nạ quỷ mà mình đã nhập vai.


Yakkadura và những điệu múa nghi lễ nhằm hàn gắn thế giới khiếm khuyết.

Tín niệm của người Sri lanka tin rằng toàn bộ trật tự vũ trụ này luôn đặt dưới sự chỉ huy của Đức Phật. Khi ma quỷ tấn công con người, chúng vượt qua ranh giới mặc định của mình. Vì thế cuộc tấn công của chúng cũng là một cuộc tấn công vào trật tự của vũ trụ. Để khôi phục lại nguyên trạng, các nghi thức đúng đắn cần phải được tiến hành để chỉnh đốn hành vi của những con quỷ. Quyền năng này thuộc về các chuyên gia đến từ sự chỉ định của Đức Phật. Bằng cách thuyết phục loài quỷ rút đi, việc chữa trị sẽ giúp duy trì trật tự của vũ trụ này.

Các natima yakun***, hay Tovil - múa Quỷ (devil dance) là một nghi lễ nghiêm cẩn với một lịch sử dài dòng kể từ thời tiền Phật giáo Sri Lanka. Nó kết hợp các khái niệm Ayurvedic cổ đại về quan niệm nhân quả gây nên bệnh tật với các thao tác tâm lý khéo léo, trong đó bệnh và căn nguyên của bệnh được cho là do ma quỷ gây ra. Các con quỷ có thể được triệu tập và bị xua đuổi trong những điệu múa nghi lễ với mặt nạ của chính chúng. Một nghi lễ sẽ kéo dài đến mười hai giờ, từ hoàng hôn tới bình minh, nó pha trộn sự hài hước với nỗi sợ hãi sâu xa để tạo ra khả năng thanh tẩy bệnh tật cho cả bệnh nhân và cộng đồng.


Lửa là một yếu tố quan trọng trong Tovil

Trong nghi lễ múa Quỷ, pháp sư đeo mặt nạ đóng vai trò trung tâm, họ thu hẹp khoảng cách giữa tự nhiên và các thế lực siêu nhiên vốn luôn hiện diện khắp nơi. Qua các hình thức chuyển hóa khác nhau, pháp sư làm mờ những ranh giới nhận thức, an ủi cộng đồng của mình, biến đổi tác động của quỷ và thực hiện việc chữa trị. Thông qua một sự pha trộn phức tạp và tinh vi của kỹ thuật trình diễn và nội dung có tính kịch, bao gồm cả cách phục sức đặc biệt, pháp sư mô phỏng những cảm giác gần với cái chết, tạo ra một không gian nơi mà trong tâm trí của mình và trong tâm trí của người dân, ông "trở thành" một cái gì đó khác biệt, một con quỷ đã được nhân cách hóa đang tương tác với cộng đồng.

Vật dụng quan trọng nhất trong tác dụng chuyển hóa theo cả hai cách trực quan và tâm lý là cái mặt nạ diệu kỳ được đeo trong các nghi lễ. Đại diện cho một con quỷ cụ thể và các chứng bệnh do nó gây ra cho con người, mặt nạ cho phép pháp sư thể hiện, ít nhất là tạm thời, con quỷ mà thường chỉ tồn tại trong một hình thức siêu nhiên. Sự nhân cách hóa này cho phép xảy ra một cuộc đối thoại, nó cung cấp một cơ hội để thảo luận (với quỷ) về những khó khăn mà các cá nhân và cộng đồng phải đối mặt. Pháp sư mang vào mình sức mạnh và nét mặt của con quỷ, tạo ra một liên kết có thể nhìn thấy giữa tự nhiên và siêu nhiên. Là hiện thân của con quỷ gây bệnh, pháp sư cho cộng đồng biết nguyên nhân, thảo luận về những mối quan ngại của cộng đồng, và sau khi nhận một món quà, con quỷ hứa hẹn sẽ ra khỏi người bệnh: nivarani tindui ("đã được thực hiện").

Với người Sinhalese, những mặt nạ chạm khắc gỗ, có đôi mắt lồi, mũi nhô ra, miệng há hốc, khuôn mặt méo mó và hình dung khốc liệt là đại diện cho cả nguyên nhân gây bệnh và cách chữa bệnh.

Mặt nạ Sri Lanka - Những vọng âm từ linh hồn của quỷ

Sức mạnh của niềm tin là một cái gì đó thấy được. Ở Tovil sức mạnh lớn nhất được tạo ra từ âm thanh của những chú ngữ hay chân ngôn. Chân ngôn (mantra) được các yakkadura dùng làm phương tiện trấn áp quỷ thần. Trong Phật giáo, người ta cho rằng chân ngôn chứa đựng sức mạnh đặc biệt của vũ trụ bởi năng lượng được phát ra từ những sóng âm khi trì tụng. Chú ngữ là âm thanh của tinh thần (spirit language), "những mẫu tự chủng của chân ngôn, khi tụng đọc lên theo một phương pháp đặc biệt, có thể làm cho bên trong nội tạng của thân thể rúng động, rung lên, có tác dụng đã thông kinh mạch và phóng phát một nội lực nào đó của cơ thể, hoặc có thể gây tác dụng tạo một sự tác động đến âm ba bên ngoài mà làm tan vỡ hay tiêu diệt một chướng ngại vật nào đó." (theo: 
bi mat cua chu ngu).

Sự kết hợp giữa chú ngữ, sáo, trống và những câu thơ là cách mà Tovil cộng hưởng sức mạnh của âm thanh. Chú ngữ dùng để gọi quỷ nhằm yêu cầu chúng chú tâm đến người bệnh, âm thanh của sáo và trống đi lang thang nơi quỷ sống nhằm thu hút sự chú ý của chúng. Quá trình chữa trị là một cuộc đối thoại, rất nhiều câu thơ được đọc lên cho quỷ nghe còn không gian lặng thinh của toàn bộ khu vực chỉ được phá vỡ bởi những âm thanh chói tai phát ra từ tiếng động của nhịp đập trống. Âm thanh là vật dẫn truyền niềm tin của hầu hết mọi tôn giáo trên thế giới ****, quá trình chữa trị của Tovil là quá trình mà niềm tin tôn giáo được dẫn truyền.

Thẳm sâu trong tâm hồn Srilanka là niềm kính ngưỡng đối với quỷ, quỷ tồn tại trong đời sống như một mặc định. Những cái mặt nạ quỷ vẫn tồn tại và sống trong đời sống Srilanca hôm nay như là sự hiện diện của bức xạ nền vẫn còn lan tỏa kể từ lúc khởi phát. Vọng âm từ những linh hồn quỷ, cho dẫu có vô hình, vẫn tồn tại để dẫn dắt phần hồn của dân tộc này từ ngàn xưa cho đến bây giờ và luôn mãi mãi.

Ghi chú:

Sử thi Ramayana (và cả Mahabharata) cho rằng cha của Vaisravana là Pulastya, một nhà hiền triết được sinh ra từ ý tưởng của thần Brahman. Thế nhưng, Vaisravana rất gắn bó, dành trọn tình thương và tôn kính cho ông nội. Brahman luôn khen ngợi Vaisravana và đã ban cho đứa cháu cưng đặc ân bất tử, cắt cử Vaisravana làm chúa tể tất cả các kho báu của cải quý giá trong thế gian và bổ nhiệm cho Vaisravana làm vua xứ Lanka. Giận dữ tột cùng vì niềm đố kỵ, Pulastya tự phân thân mình sinh ra đứa con thứ hai là Vaisravas – một đứa em căm ghét anh mình không thua kém người cha. Để làm vui lòng cha, Vaisravana đã dâng cho cha ba cô La Sát nữ (Rakshasi) xinh đẹp. 

Một cô sinh ra Ravana và Kumbhakarna; một cô khác sinh ra Vibhishana; và cô thứ ba sinh ra Rapa, Khara và Surpanakha. Những người con này của Pulastya cũng rất đố kỵ với sự giàu có của người anh Vaisravana. Do vậy, họ kiên trì thực hành việc khổ hạnh và nhận được đặc ân thần thánh của ông nội Brahman. Với sức mạnh có được từ đặc ân thần thánh này, họ chống lại VaisravanaRavana tấn công Vaisravana và trục xuất Vaisravana ra khỏi Lanka (Xem R. S. Gupte, Iconography of the Hindus, Buddhists and Jains. D. B. Taraporevala sons & Co; Bombay, tr.51-52).

** Một số văn bản bán huyền thoại, bán chân thực mô tả vùng đất này, giai đoạn đầu là nơi sinh sống của người nguyên thủy. Tên thông dụng thường để gọi cho nhóm người này là Dạ xoa, thường được gọi quỷ Dạ xoa, từ này thường dùng để chỉ loại người thuộc nhóm văn hóa thấp kém. Sự hiện diện của họ như là mang đến bạo lực và kinh tởm. Các tên như Đạm tinh quỷ (Pisāca) và La sát (Rakkhasa) được dùng để chỉ cho cư dân thời kỳ đầu ở vùng đất này. Trong khi đó theo Đảo sử, thời gian này ở Sri Lanka là thời kỳ đồ đá săn bắn, con người sống chủ yếu hoang dã. Người ở đây được gọi là Dạ xoa - Yakkhas, một loại phi nhân thậm chí không biết tạo ra lửa và vì thế, họ ăn thịt sống, đầy máu. Chứng tích này hiện vẫn còn lưu giữ trong những hang động cổ ở Sri Lanka, như ở vùng Balangoda, có di tích về việc dân cư trước đây sinh sống. (xem thêm: ton-giao-da-tao-nen-mot-dat-nuoc-sri-lanka). Lại có sách cho rằng La Sát chính là một loại thổ dân man dã ở Ấn Độ. Chúng được mô tả có dáng bộ và mặt mày dễ sợ, da đen, tóc đỏ, mắt xanh. Có thể xem như là một loại chúng sinh, không phải loài người, sách phật thường gọi chúng là phi nhân.

*** Trong suy nghĩ của người Sinhalese, nguyên nhân của bệnh tật hoặc là do tự nhiên hoặc là do siêu nhiên gây ra. Trong trường hợp bệnh do tự nhiên, họ chọn cách chữa trị theo Ayurvedic hoặc theo y học cổ truyền. Trong trường hợp bệnh do siêu nhiên, họ có truyền thống quay sang các pháp sư nhờ sự chữa trị trợ thông qua các nghi lễ như natima yakun.

**** Ấn độ giáo thường được biết đến với biểu tượng thần Krisna đang thổi sáo. Chương Khải huyền (Revelation, Apocalype) của Tân Ước kể về mặc khải của Đức Jesus với bảy thiên thần thổi bảy cây kèn Trumpet. Đại thừa Phật giáo trong Kinh Diệu pháp liên hoa, phẩm Phổ môn có đề cập tới Diệu âm, Phạm âm, Hải triều âm, Quán thế âm, Thắng bỉ thế gian âm.  Rất nhiều tôn giáo` và giáo phái có đề cập đến âm thanh bên trong với những từ khác nhau như: Naad, Akash Bani, Sruti (trong Vedanta) hoặc Nada, Udgit (trong Upanisad) hoặc Kalma (trong kinh Qur’an) hoặc Music of the sphere (Pythagoras). (theo: 
am thanh va anh sang)

Posted by HoangThong

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét