Đất của con người
VÕ PHIẾN
Nguyễn Ngu Í có lần thuật chuyện một đêm ở làng Hòa Hảo ([1]). Hoàng hôn vừa buông xuống thì giọng ngâm sấm vãng bắt đầu dâng lên khắp tư bề. Cách một quãng đường có một ngôi nhà gạch vuông hai tầng: tầng trên, tượng Giáo chủ; tầng dưới, một phụ nữ mặc áo dài, tay cầm cuón kinh sấm, miệng ngâm nga trước máy vi âm. Khách đi đến đâu tiếng ngâm theo đến đó, khách thức đến đâu tiếng ngâm cũng lại theo đến đó, đến khuya lắc khuya lơ… Rồi hôm sau, mới sớm tinh sương, trời còn tờ mờ, khách vừa tỉnh giấc, tiếng ngâm đã vang lên tự bao giờ!
Không khí u huyền. Khách bất giác rùng mình.
Nguyễn Ngu Í sanh ra sát miền Nam, sống ở miền Nam lâu đến thế mà anh còn rùng mình. Người xa lạ với sinh hoạt miền Nam hơn thì chẳng cần đến tận thánh địa mới tìm được sự xúc động vì cuộc sống tâm linh của miền Nam. Một hôm, trên chuyến xe sớm từ cầu bắc Cần Thơ đi Mỹ Thuận, tôi đã ngỡ ngàng trước cảnh xóm làng bên đường. Dọc hai bên đường, trong bóng đêm trước giờ hừng đông, qua những tàn cây rậm rạp, ánh đèn lố nhố nhấp nha nhấp nháy. Cảnh tượng hàng nghìn ngọn đèn con lao xao giữa trời trong sương sớm như thế thật lạ lùng đối với một người từ các miền ngoài vào; ngoài đó đâu có bàn thờ ông Thiên trước sân?
Ở trong này nhìn đâu cũng thấy biểu hiện của tín ngưỡng. Ngoài sân thờ ông Thiên, trong nhà thờ ông Địa, và khắp cùng nơi nơi dong chơi các ông Đạo! Đất đai miền Nam cơ hồ thuộc về các đấng thần linh.
***
Thế mà lạ: Không ở đâu con người được đề cao bằng ở đây. Đây mới chính thị là đất của con người.
Xuống chơi Cà Mau mấy hôm, nghe tên sông, tên rạch, tên ấp, tên thôn, mới hay làm sao: xóm Ông Đồ, ấp Ông Khâm, ấp Bà Năm, ấp Trùm Thuật, ấp Ông Muôn, ấp Ông Nhơn, sông Ông Đốc, ngọn Ông Trang, rạch Biện Nhan, rạch Ông Quyên, rạch Bà Quang, rạch Ông Búp, rạch Bà Khuê, rạch Ông Nô, rạch Bà Hương, mũi Ông Trang v.v…
Thân mật, ấm cúng không biết chừng nào: ông nọ bà kia, người với rạch, với sông, với xóm làng, đất đai, cùng nhau quấn quít, chan hòa làm một. Đất đai sông rạch gắn liền với con người, nhưng là hạng người nào? Cái doi đất nhô ra ở gần cửa sông Bảy Háp đó, nó mang tên vĩ nhân nào vậy? Một đấng anh hùng dân tộc; một đại đế nào đó chăng? - Đừng có nhảm! Ấy là mũi Bà Quang: Không có vĩ nhân nào xen vô đó hết. Bà Quang? Có lẽ không còn ai nhớ rõ Bà Quang sống ở thời nào, thọ bao nhiêu tuổi, gia thế ra sao, thậm chí cái họ của bà chắc cũng mai một: chỉ còn vỏn vẹn một chữ tên. Tuy nhiên, có điều chắc chắn đó là một người đàn bà đã cùng bà con chòm xóm lặn lội sình lầy, góp một tay vào công cuộc khai hoang phần đất mới mẻ này. Tức một con người rất gần gũi, một con người trong đám dân gian. Bà Quang, bà Hương, ông Quyên, ông Muôn v.v…, đều thế cả.
Từ Cà Mau nghĩ đến cả miền Nam: nào cù lao ông Chưởng, nào tỉnh cũ Bà Rịa, nào kênh ông Hội đồng Quới, kênh ông Bác Vật Lang, nào kênh ông Hội đồng Chà, kênh ông Huyện Chơn v.v… Không còn là người của quần chúng hay thật gần với quần chúng nữa; nhưng cũng không phải là nhân vật quá xa cách, không có một vua chúa nào cả, chắc chắn đây vẫn là những con người đã trực tiếp tham dự vào các công trình xây dựng mở mang tại địa phương.
Những người có góp công trực tiếp ấy, đôi khi chính nhà vua lấy tên mà đặt cho sông núi, như Thoại Sơn, Vĩnh Tế Hà, để cho tên tuổi được “cùng trời đất không ma diệt”([2]). Nhưng trong những trường hợp của các bà Năm, ông Búp v.v… không vua nào ban cho danh dự thì anh Bảy, chị Ba, ông Kèo, bà Cột v.v…, thì đám dân chúng vô danh trong vùng tự động suy tôn, và rốt cuộc cũng lại vẫn “cùng trời đất không ma diệt”.
Ở đất Bắc, nơi núi sông đã lẫy lừng từ nghìn xưa, thì con người nép vào uy danh của bản quán, nương cậy ở khí thiêng của sông núi: thi sĩ Tản Đà, văn sĩ Hồng Nhân([3]), cụ Tiên Điền, Hồng Sơn Lạp hộ, Uy Viễn tướng công, ông Tú Vị Xuyên v.v…
Ở miền Nam, đất mới chưa kịp có tên, thì xây dựng đến đâu, con người cho non sông mượn tên của mình đến đó, trước bạ tên tuổi của mình vào đất đai đến đó.
Cái sự khác biệt của một miền người lấy tên đất với một miền đất lấy tên người, dẫu sao cũng chưa cụ thể. Đi về Hậu Giang, ngồi trên máy bay nhìn xuống, có thể thấy rành rành sự can thiệp giữa bàn tay người trên cuộc diện đất đai: Những con kinh thẳng tắp như lằn gạch phân chia cả một vùng đồng bằng mênh mông thành từng ô từng ô đều đặn… Cảm tưởng đại khái như khi nhìn vào bản đồ kỳ dị của những đường phố ở các đô thị Cựu Kim Sơn, Hoa Thịnh Đốn, Chicago, Vancouver…, bản đồ mà như thể trang giấy gạch ca-rô!
***
Tại sao ở miền Nam, nơi mà vai trò của con người hiển hiện nổi bật lên như thế, con người lại dành cho thần thánh vai trò lớn lao chừng ấy? Tín ngưỡng lại thịnh hành, đạo lại nảy sinh nhiều lan tràn rộng chừng ấy?
Có lối giải thích bảo rằng các ông đạo ra đời cũng chỉ là để… làm ăn mà thôi: “Đa số các ông đều nhắm mục đích duy nhất: khẩn đất núi, tạo lập vườn tược. Các ông tự tiên chiếm hữu một khoảnh đất bên sườn núi bấy giờ hãy còn hoang vu ít kẻ tranh giành, lấy lý do tu hành để hy vọng được miễn thuế. Và bao nhiêu tín đồ đến làm công quả là bấy nhiêu nhơn công tình nguyện”([4]).
Có lối giải thích nữa bảo rằng các ông đạo ra đời là vì việc nước: mỗi ông đạo là một hội kín hoạt động chống Pháp([5]). Lá cờ khởi nghĩa của nhóm Thiên địa hội Phan Xích Long có bốn chữ Bửu Sơn Kỳ Hương; phá đạo đốt chùa của hệ phái Tứ ân hiếu nghĩa tại núi Tượng là Palasme de Champeaux với Trần Bá Lộc; đạo Cao Đài, đạo Hòa Hảo v.v… đều có thái độ chính trị.
Lại có lối giải thích bảo rằng cái không khí tôn giáo tràn ngập miền Nam, đồng bào ta thừa hưởng từ những dân tộc lâu dời sống trong vòng ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ, quê hương các đạo Bà La Môn, đạo Phật v.v…
Như vậy đã có lối giải thích bằng lý do kinh tế, có lối giải thích bằng lý do chính trị, có lối giải thích bằng lý do văn hóa. Miền Nam là đất mới, các vấn đề của miền Nam đều mới, chưa có gì dứt khoát, cố định; vậy có thể nối điều thêm một lối giải thích nữa.
Bình Nguyên Lộc nhiều lần nói đến chuyện “chợ đen sắc thần” ở Bến Nghé, Đồng Nai. Dân đã mở đất xong, lập làng xong, nhưng thần làng thì xin mãi chưa được triều điènh xa xôi sắc phong cho: bèn có vụ sắc thần của làng nầy bị đánh cắp bán cho làng nọ.
Sự việc ấy nói lên tình cảnh thiếu thốn trong một phương diện sinh hoạt của đám lưu dân một thời. Từ các miền ngoài vào đây, trước lo khai phá đất hoang; nhưng một khi cái ăn, cái sống vật chất đã tạm xong, thì phải tính sang các nhu cầu tinh thần chứ. Không có, nó bơ vơ, tội nghiệp làm sao! Hãy nghe Sơn Nam kể khổ: “Trong khi chưa lập được đình chùa, thì miếu thờ cọp giữ một vai trò quan trọng về đường tinh thần. Ngày giặc Pháp tấn công, dân chúng vùng Tân Hưng bỏ nhà, chạy vào rừng. Nhưng hàng đêm, họ trở về miễu cọp, ngồi xúm xít, nhìn nhau, nhìn khói hương mà rơi nước mắt”([6]).
Khát khao tín ngưỡng cũng là nỗi khát khao khẩn thiết. Ai là kẻ đứng ra đáp ứng? Chắc chắn không có mấy nhà trí thức ôm sách vở, mấy vị hòa thượng khệ nệ kinh kệ chuông mõ theo những đoàn di dân đầu tiên vào Bến Nghé, U Minh v.v… Lúc nhận thấy có sự đòi hỏi gắt gao về tín ngưỡng, nhìn quanh quất không tìm đâu ra vị lãnh đạo hay nhà dìu dắt chuyên nghiệp nào về tinh thần, các thầy Đoàn Minh Huyên, ông cử Đa, ông Bảy Do v.v… đành ra tay sáng chế tại chỗ để cung ứng nhu cầu. Phong trào ra đời của các tôn giáo, các ông đạo, nó chứng tỏ tài xoay xở của lớp người đến vùng đất mới, mọi việc đều phải tự cấp tự túc. Nó là một lối tự liệu lý (self-service) về việc tinh thần.
Tự đặt ra đạo để tin, chuyện có ngộ nghĩnh một chút, nhưng không trái với óc tháo vát của thế hệ người Việt vào Nam mở đất. Chiếc nóp để ngủ, điệu ca vọng cổ để tiêu sầu, tuồng hát cải lương để giải trí v.v…, mỗi thứ trong lãnh vực riêng của nó đều là những sáng chế tại chỗ trong hoàn cảnh thiếu thốn của địa phương, xa lìa đất tổ.
Vậy những ông đạo đầu tiên bất đắc dĩ phải ra đời. Nhưng có điều một ông đạo đã ra đời trót lọt, thành công, thì sau đó các ông đạo cứ tiếp tục ra đời mãi. Thành ra có sự lạm phát ông đạo. Thành ra có sự chậm trễ, lỗi thời: Đến cái thời đại Bắc Trung Nam không còn cách trở, giao thông nhanh chóng, các tôn giáo lớn đã có cơ sở hoạt động khắp nơi trong Nam, các giáo lý cao thâm được các giáo sĩ xuất sắc truyền bá rộng rãi, mà các ông đạo vẫn cứ tiếp tục xuất hiện rao giảng những điều thô sơ…
Dẫu sao, như thế các ông đạo không còn chứng tỏ sự thống trị của thần linh ở miền Nam mà lại chứng tỏ tài hoạt động xoay xở của con người. Thần linh ở đây xúm nhau đề cao vai trò con người!
***
So sánh đặc điểm tín ngưỡng ở Nhật Bản và Ấn Độ, bác sĩ H. Nakamura nhận thấy công trình kiến trúc tôn giáo nổi bật ở Ấn Độ, tức những ngôi tháp stupa, là dành chôn hài cốt, dành cho cái chết, còn công trình điêu khắc xuất sắc ở Nhật, pho tượng Đại Phật, thì lại dành cho người sống chiêm bái.
Tại miền Nam ta, không biết cảnh tượng tín đồ kéo đến làm công quả cho các ông đạo khẩn hoang vỡ đất mà Sơn Nam nói vào thời trước nó tấp nập ra sao; chỉ biết cảnh tượng nhưng lăng Ông miễu Bà vào những ngày hội, ngày vía bây giờ thì náo nhiệt hết cỡ: bây giờ khách thập phương đến để xin xăm, cầu tài, vay của Bà một món tiền về buôn bán làm ăn v.v… Dù là nơi phát rẫy làm công quả, dù là nơi vay tiền Bà, những nơi đó cũng không có bao nhiêu tính cách thần bí siêu linh, mà tựa hồ những trung tâm hoạt động náo nhiệt, liên quan mật thiết đến cuộc sống của xã hội. Những nơi đó không chút gì tịch liêu lạnh lẽo, mà vô cùng sinh động, mà hừng hực hơi nóng của sinh hoạt, của sự sống.
Ở đây, quả nhiên con người lồ lộ khắp nơi.
8-1972.
Nguồn: Đất nước quê hương. Tùy bút của Võ Phiến. Lửa Thiêng xuất bản, Sài Gòn, 1973. Bản điện tử của www.trieuxuan.info
([1]) Bách Khoa số 173, ngày 15-3-1964.
([2]) Bia núi Sập (dịch).
([3]) Tức Phạm Quỳnh (ở Thượng Hồng).
([4]) Sơn Nam, Tìm hiểu đất Hậu Giang, Phù Sa 1959, trang 114.
([5]) G. Coulet, Les sociétés secrètes en tetre d’Annam, Ardin, Saigon, 1926.
([6]) Tìm hiểu đất Hậu Giang, trang 88.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét