Thứ Hai, 24 tháng 6, 2019

Tượng Hoàng Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc

Tượng Hoàng Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc

Trong hệ thống di tích lịch sử văn hóa ở Việt Nam, tượng chân dung hậu Phật là nguồn tư liệu không nhỏ trong nghiên cứu lịch sử, văn hóa, mỹ thuật…. Thờ hậu Phật là một tín ngưỡng truyền thống trong Phật giáo đồng bằng Bắc Bộ, ghi lại những phong tục tập quán, phản ánh sâu sắc sinh hoạt trong xã hội đương thời. Tượng chân dung Hoàng Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc là một trong những pho tượng chân dung hậu Phật được các nhà nghiên cứu mỹ thuật đánh giá là đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc tượng chân dung người Việt thế kỷ 17. Pho tượng được công nhận là Bảo vật quốc gia năm 2013.
Hoàng Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (1595 - 1660) là con gái Thanh đô vương Trịnh Tráng. Năm 1630, Vua Lê Thần Tông bị ép lấy con gái của Trịnh Tráng là Trịnh Thị Ngọc Trúc làm Hoàng hậu, bà là một trong sáu bà vợ của Vua Lê Thần Tông được tạc tượng thờ ở chùa Mật. Theo sách Đại Nam nhất thống chí - Thanh Hóa thì chùa Mật được dựng vào thời Vua Lê Thánh Tông (1460- 1497), sách Đại Nam nhất thống chí do Viện Sử học phiên dịch và chú giải lại cho biết Vua Lê Thần Tông (1619-1643, 1649-1662) mới là người cho dựng chùa và tô tượng. Căn cứ tư liệu thác bản văn bia Mật Sơn Đại Bi tự (AB. 633 Viện Nghiên cứu Hán Nôm), chùa Mật do Vua Lê Huyền Tông (1663-1671) cho dựng để thờ vua cha cùng Thánh mẫu và các phi tần của cha. Qua các tư liệu trên chúng ta có thể xác định chùa Mật Sơn (thường gọi chùa Mật) tên chữ là Đại Bi tự nay thuộc phường Ngọc Trạo, thành phố Thanh Hóa. Về thời gian dựng chùa, thác bản văn bia Mật Sơ Đại Bi tự cho biết: “Chùa do Vua Lê Huyền Tông (1663-1671) dựng ra để thờ vua cha cùng Thánh mẫu và các phi tần....”. Một trong các pho tượng đó là Hoàng Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc được chuyển về Viện Viễn Đông Bắc Cổ, nay được trưng bày trang trọng tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam. Pho tượng có kích thước: cao 111cm, khuôn mặt 19cm, ngang vai 43cm, ngang hai đầu gối 67cm, dày thân tượng 45 cm, tượng được tạc bằng gỗ mít phủ sơn son thếp vàng, hoa văn trang trí cầu kỳ, tinh xảo và rõ nét.



Tượng được tạc ở tư thế ngồi thiền trên bệ vạt bốn góc. Tay phải giơ ngang ngực kết ấn vô úy, bàn tay biểu tượng trí tuệ của Phật pháp, một lòng kiên trì khai sáng, rộng lòng từ bi. Thế tay này tượng trưng cho sự phổ độ chúng sinh, đồng thời thể hiện tâm Phật của nhân vật được tạc. Tay trái đặt trong lòng đùi kết ấn cam lồ, biểu tượng sự kiên định của Phật pháp, cầu mong ban phát cho chúng sinh cuộc sống ấm no, hạnh phúc, cùng tận hưởng niềm giải thoát.
Đầu tượng đội vương miện, có dải tóc kẹp thả sau lưng, vương miện được chạm khắc tỷ mỷ với nhiều lớp khác nhau: Vành dưới ôm sát đầu chạm vân xoắn. Vành thứ hai chạm các cụm sen nổi cao. Vành trên cùng chạm thủng hình hoa sen và vân lửa rất đặc trưng cho trang trí điêu khắc thế kỷ 17. Phía trước, đỉnh của vành mũ được chạm hình vòng cung, trong có tượng Adida ngồi tọa thiền trên đài sen. Đây cũng là biểu tượng thường thấy trên các pho tượng Bồ Tát Quan Thế Âm và là dấu hiệu đặc trưng cho việc bà là người qui y Phật pháp. Phía trên các vành mũ chạm kiểu tóc vấn cao trên đỉnh đầu và một tấm che tóc cũng được nghệ nhân chạm thủng rất cầu kì. Từ vành dưới mũ là hai dải mũ được chạm vắt mềm mại ra phía trước vai.
Trang phục của pho tượng cũng rất cầu kỳ và tinh xảo so với hầu hết các tác phẩm điêu khắc tượng chân dung thế kỷ 17 mà tác giả đã gặp. Trang phục quý tộc, ba lớp áo trong và một áo vân kiên khoác ngoài. Riêng tấm áo choàng vân kiên này được đánh giá là một trong những tấm áo được chạm đẹp nhất với mô típ lưỡng long chầu phượng trước ngực. Áo phía dưới có ba lớp đính ngọc châu tỷ mỷ, tinh tế. Cổ đeo chuỗi hạt rủ mềm xuống lòng đùi. Điểm nhấn đặc sắc nhất của pho tượng chính là gương mặt tươi sáng rạng rỡ, phúc hậu, chân thực với dái tai dài, cổ cao ba ngấn. Về sắc đẹp và sự thông minh, tài hoa của bà, linh mục Alexandre de Rodes khi ở Việt Nam cũng từng viết như sau: Bà rất thông chữ Hán, giỏi về thơ, chúng tôi gọi bà là Ca-tê-ri-na vì bà giống Thánh nữ về nhiệt tâm cũng như đạo hạnh, về những đức tính tinh thần cũng như sang trọng về dòng họ. Nhìn tổng thể, pho tượng mang vẻ đẹp quý phái, thông tuệ, nét mặt hiền đôn hậu, trang phục lộng lẫy lộ vẻ cao sang, quyền quý. Dáng thanh thoát, nét chạm kênh bong cẩn trọng. Ngôn ngữ điêu khắc gợi ý tưởng tôn sùng hài hòa triết lý Phật pháp và nội lực tự tâm của bà.
Hoàng Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc còn là tác giả của bộ từ điển “Chỉ Nam ngọc Âm giải nghĩa” bằng chữ Hán Nôm (đã được NXB KHXH ấn hành năm 1985), với dung lượng 40 chương, dài trên 3.000 câu, tổng số cả Hán lẫn Nôm là 24.000 chữ, đã đề cập đến nhiều lĩnh vực, chứa đựng nhiều tri thức về xã hội, thiên nhiên như: Nông canh, hôn nhân, nhân luân, thiên văn, nhạc khí…. Bộ từ điển của bà là một kho báu về tư liệu ngôn ngữ để các thế hệ sau có điều kiện nghiên cứu lịch sử tiếng Việt. Hoàng Thái Hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc là người đàn bà có tâm, có đức lại thông minh tài giỏi, những công việc bà đã làm được đã làm vẻ vang truyền thống phụ nữ Việt Nam.
Tượng Hoàng Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc là tác phẩm được rất nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa, mỹ thuật đánh giá là tác phẩm là điêu khắc nguyên gốc, độc bản có niên đại thế kỷ 17, là tượng chân dung tả thực hiếm có về một nhân vật lừng lẫy cả nhân đức và học thức uyên thâm trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Pho tượng là đại diện xuất sắc cho phong cách nghệ thuật điêu khắc tượng chân dung hậu Phật Việt Nam
Nguyễn Văn Nghi
-------------------

Ly tán giữa vàng son


Hồi mới vào đại học, tôi từng gặp được bà. Ở sảnh trưng bày mỹ thuật cổ Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam có pho tượng quý được đặt trong lồng kính. Đó là hình ảnh hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc (ngày xưa đặt ở chùa Mật, Thanh Hóa). Bà hoàng phục sức lộng lẫy, thần thái sống động như vẫn còn hơi thở. Nhưng trông bà xa cách và cô độc.



Còn ở đây, trong phủ thờ chùa Bút Tháp, hoàng hậu Ngọc Trúc là một người khác hẳn, chỉ mặc tấm áo kép đơn giản, tóc buông thả xuống lưng. Trên người bà không có chút gì vướng bận danh phận của một người có địa vị cao nhất trong xã hội Lê - Trịnh lúc bấy giờ. Cạnh bên bà là con gái ruột - công chúa Lê Thị Ngọc Duyên. Khung cảnh tình thân ấy lại đặt để giữa chốn Phật môn có điều gì đó khiến chúng tôi phải chạnh lòng.


Tượng chân dung bà Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc. Thế kỷ 17, chùa Bút Tháp. Gỗ phủ sơn, thếp vàng, tô màu áo xanh ngọc. Ảnh tư liệu từ cuốn Chùa Bút tháp. Kiến trúc và Điêu khắc, Trung tâm tu bổ Di tích Trung ương, 1993.

Khám và tượng thờ Hoàng Thái hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc
cũng bị cháy sém một phần bệ tượng 

(vụ cháy chùa Bút Tháp,  21-8- 2015. án gian bị cháy đặt tại gian giữa nhà Phủ thờ có mã hiệu CBT.PT.04 trong bản thống kê tài liệu, hiện vật di tích quốc gia đặc biệt chùa Bút Tháp (lưu tại hồ sơ khoa học di tích) đã bị cháy hoàn toàn. Hương án gỗ trước khi bị cháy có dạng hình chữ nhật (dài 194 cm, rộng 140 cm, cao 134 cm) kiểu chân quỳ dạ cá, chạm khắc tinh xảo, tỉ mỉ với đề tài “tứ linh, tứ quý”. Đây được đánh giá là cổ vật đẹp, tiêu biểu và điển hình của nghệ thuật chạm khắc thế kỷ XVII. Trên Hương án được bài trí một bát hương và đôi lọ hoa nhỏ bằng gốm men, các hiện vật này đều đã bị vỡ và lẫn vào trong than tro của đám cháy.)

Sử sách nói rằng năm 1630, chúa Trịnh Tráng đem con gái Trịnh Thị Ngọc Trúc gả cho vua Lê Thần Tông. Điều đau lòng trong câu chuyện này là bà Ngọc Trúc chính là vợ góa của Cường quận công Lê Trụ (chú họ vua Thần Tông), là người đàn bà đã có bốn con. Dưới sự sắp đặt kỳ quặc (và tàn nhẫn?) của cha, bà phải tái hôn, lên ngôi hoàng hậu. Bà hoàng khi ấy không chỉ có vai vế là trưởng bối mà còn hơn vua Thần Tông đến mười hai tuổi. Còn Lê Thần Tông khi lấy bà Ngọc Trúc, cả triều đình đều can, nói: “Đã trót rồi, lấy gượng vậy. Từ đó trời mưa dầm không ngớt”. (Theo Đại Việt sử ký toàn thư) Bỏ qua hết những lý giải chính trị và thời cuộc, đây là một câu chuyện gia đình thật sự buồn.

Bà Ngọc Trúc lên ngôi hoàng hậu không được bao lâu thì bỏ cung lên chùa làm người tu hành thật sự, mang theo con gái Ngọc Duyên (là con của bà và Lê Trụ). Tôi có ý tìm nhưng không thấy sử sách ghi gì về ba người con còn lại của bà (với Lê Trụ), cũng không có ghi chép bà có đứa con nào với vua Thần Tông. Hai cuộc hôn nhân đến với cuộc đời một người đàn bà. Cuối cùng là một kết cục buồn thương với chia ly và mất mát. Cũng như những câu chuyện gia đình ly tán khác, mỗi người trong cuộc đều nhận lấy một số phận có quá nhiều điều chưa thỏa nguyện.


Các bức tượng Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc, công chúa Ngọc Duyên; 
tượng Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Cơ.

Trong buổi chiều vắng lạnh, khói hương thắp lên cứ quẩn một chỗ không tan ra được. Không biết các bạn tôi nghĩ gì? Riêng tôi chạnh lòng nghĩ tới công chúa Ngọc Duyên. Một thân phận cành vàng lá ngọc như nàng, dẫu đã cách chúng tôi hằng mấy trăm năm, vẫn có khác bao nhiêu. Ngồi bên cạnh mẹ mình đã bao thế kỷ trong phủ thờ heo hút của một ngôi chùa, nàng có bao giờ mong ngóng gặp lại cha mình, có bao giờ luyến nhớ những giây phút gia đình đầm ấm hay buồn thương thời thanh xuân đã trôi qua phí hoài trong câu chuyện đau buồn của người lớn?


Công chúa Lê Thị Ngọc Duyên

Bạn tôi thắc mắc: vậy còn vua Lê Thần Tông trong câu chuyện này đâu phải là người ngoài cuộc? Cuộc hôn nhân của ông và bà Ngọc Trúc vốn từ lúc khởi đầu đã không thể tìm thấy điều gì có thể làm nên một câu chuyện gia đình bền chặt. Cho nên mấy trăm năm qua dù hình ảnh ông và hình ảnh bà Ngọc Trúc vẫn còn (trong khá nhiều di tích cổ), nhưng ông và bà không thể cùng ngồi lại bên nhau. Tuy ở chùa Mật ngày xưa vua Thần Tông ngồi giữa sáu bà hoàng của mình (các bà này được coi như là hoàng hậu, trong đó bà Ngọc Trúc là chính cung hoàng hậu) nhưng rồi khi chùa Mật không còn, người hậu thế đã đem bà Ngọc Trúc rời hẳn khỏi ông.

Người ta dời tượng bà về đặt vào lồng kính ở Bảo tàng Mỹ thuật, trong khi năm bà vợ kia vẫn còn ngồi lại bên ông, được phối thờ cùng ông ở đền Vua Lê. Người nào đã làm công việc di dời tượng bà Ngọc Trúc hẳn ngoài mục đích thực thi nghiệp vụ bảo tồn còn gửi chút lòng cảm khái cá nhân của mình vào đó. Vì trong bộ sáu pho tượng nguyên bản của sáu bà hoàng tượng nào cũng tuyệt đẹp và đặc sắc, sao lại chỉ muốn dời mỗi tượng bà Trịnh Thị Ngọc Trúc?

Có lẽ lòng người thời nào cũng vậy, trân trọng những mối quan hệ thực chất. Còn những gì không thật, những con người không dành cho nhau dẫu có phải gán ghép lại vì những mục đích hay nỗi niềm nào đó thì cuối cùng cũng phải chia lìa. Trong câu chuyện gia đình xưa cũ, đầy bi thương của hoàng tộc Lê - Trịnh ấy, ai cũng ngẫm nghĩ được vài điều gì đó cho riêng mình. Vậy mà trong những câu chuyện hằng ngày thời hiện đại, bọn trẻ tụi tôi (và cả những người nhiều tuổi hơn chúng tôi nữa) thỉnh thoảng vẫn cứ thung dung bước vào những sai lầm. Chuyện xưa và chuyện bây giờ nào có khác gì đâu.


NGUYỄN THỊ NHƯ KHANH ( TTCT)

------------------

Vẻ đẹp Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc
 qua bức tượng 300 tuổi

Các nhà nghiên cứu đánh giá, tượng hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc là tác phẩm đẹp nhất, đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc tượng chân dung người Việt thế kỷ 17.


Được lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, tượng Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc có niên đại từ thế kỷ 17, là một bảo vật quốc gia với những giá trị mỹ thuật đặc sắc của Việt Nam.



Tượng có nguồn gốc từ chùa chùa Mật Sơn (Bố Vệ, Đông Sơn, Thanh Hóa), tái hiện chân dung bà Trịnh Thị Ngọc Trúc (1595 - 1660), hoàng hậu thời vua Lê Thần Tông.



Tượng được tạc bằng gỗ nguyên khối, có chiều cao 111cm, tạo hình trong tư thế chân xếp bằng kiểu Kiết già toàn phần, một tay ngửa ra đặt trong lòng đùi, tay kia giơ ngang ngực kết ấn Vô Úy.


Thế tay này tượng trưng cho sự phổ độ chúng sinh, đồng thời thể hiện tâm Phật của Hoàng hậu Trịnh.




Trang phục của tượng Hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc là loại triều phục với ba lớp áo trong và một áo vân kiên khoác ngoài. So với hầu hết các tác phẩm điêu khắc tượng từ thế kỷ 17 trở về sau, đây là bức tượng có trang phục cầu kỳ nhất.


Riêng tấm áo choàng vân kiên của tượng được đánh giá là đỉnh cao của nghệ thuật chạm khắc gỗ Việt Nam với mô típ lưỡng long triều phụng (đôi rồng chầu phượng) trước ngực.



Điểm lôi cuốn nhất của pho tượng chính là gương mặt tươi sáng rạng rỡ, phúc hậu, chân thực với dái tai dài, cổ cao ba ngấn.


Chiếc vương miện được chạm khắc tỉ mỉ với nhiều lớp khác nhau, phía trước có tạc tượng A Di Đà ngồi tọa thiền. Đây là biểu tượng thường thấy trên các pho tượng Quan Âm, thể hiện sự kính ngưỡng của dân gian dành cho hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc.


Cổ hoàng hậu đeo chuỗi hạt rủ mềm xuống lòng đùi.


Các nhà nghiên cứu mỹ thuật đánh giá, pho tượng hoàng hậu Trịnh Thị Ngọc Trúc là tác phẩm đẹp nhất, đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc tượng chân dung người Việt thế kỷ 17.



Sau hơn 300 năm tồn tại, pho tượng vẫn còn nguyên vẹn với màu sắc và nước sơn nguyên bản từ khi mới được tạo tác.




Ngược dòng lịch sử, Trịnh Thị Ngọc Trúc nổi tiếng là một Hoàng hậu sùng đạo Phật và có học vấn uyên thâm. Bà là người biên soạn cuốn từ điển Hán - Nôm Chí Nam Ngọc Âm giải nghĩa - bộ bách khoa thư đầu tiên của Việt Nam.


Sau khi mất, bà được nhiều nơi tạc tượng thờ nhưng pho tượng ở chùa Mật là pho tượng đặc sắc nhất còn được lưu giữ đến nay. (Bài có tham khảo tư liệu của Cục Di sản văn hóa).

Quốc Lê

1 nhận xét: