Có một ca khúc, ngay khi lần đầu được nghe, lập tức, ca khúc đó trở thành nỗi ám ảnh với tôi, bởi những cung bậc quá da diết. Nhưng còn bởi nó có một số phận riêng.
Nhà báo Trần Đình Chính |
Lần
ấy, kết thúc một kỳ thi tốt nghiệp phổ thông, cánh nhà báo được mời đi ăn (có
cả hát karaoke). Thú thật, trong mối quan hệ giữa báo chí với các quan chức
giáo dục, tôi luôn giữ khoảng cách vừa đủ gần, vừa đủ xa, lịch lãm và tôn
trọng.
Giữa
cuộc vui, một giọng hát cất lên: Có một không gian nào/ Đo chiều dài
nỗi nhớ/ Có khoảng mênh mông nào/ Sâu thẳm hơn tình thương/ Ở đầu này nỗi nhớ/
Anh mơ về bên em/ Ngôi sao như xuống thấp/ Cho ta gần nhau hơn/ Đêm nghe tiếng
mưa rơi/ Đếm mấy triệu hạt rồi/ Mà không vơi nỗi nhớ…Cả không gian như lặng đi. Giọng hát của một vị quan chức. Sâu lắng, chân thành. Những luyến láy của ca từ vừa đủ độ, vừa ngọt ngào, truyền cảm như một nghệ sĩ thực thụ, lại như kẻ …đang yêu. Ông dường như đang sống những giây phút thật nhất của con người mình. Không có vẻ mặt đạo mạo, thậm chí cau có cáu kỉnh. Không có cái động tác bút phê, vừa nghiêm cẩn, vừa lạnh lùng.
Cánh nhà báo ngạc
nhiên, tấm tắc. Nghe ông hát, bỗng thấy cảm thông với ông, và thấy ông…dễ
thương hơn.
Thế rồi, Ở hai đầu nỗi
nhớ (nhạc Phan Huỳnh Điểu) từ đó trở thành một trong những bài hát tôi yêu
thích. Nhất là những đêm đông, nằm nghe mưa rơi…
Tiếng mưa lắc rắc trên
mái hiên lành lạnh, trên lá cây buồn buồn, nhè nhẹ, âm thầm. Có lúc bỗng rào
rạo như không ghìm nén nổi: Đêm nghe tiếng mưa rơi/ Đếm mấy triệu hạt
rồi/ Mà không vơi nỗi nhớ….
Tiếng mưa ám ảnh vào
tận trong mộng mị, trong phiêu lãng… Làm sao mà đếm được mấy triệu hạt mưa, mà
đếm được cái vô hạn, vô cùng…
Nhưng bất ngờ nhất, là
khi tôi biết rằng, bài thơ được phổ nhạc, lại là của Trần Hoài Thu, tên thật là
Trần Đình Chính, một nhà báo, đồng nghiệp ở Báo Nhân Dân (cũ).
Trong mắt tôi, Chính
là một người hướng nội, hơi lặng lẽ, khắc khổ, một “tuýp” người không dễ chia
sẻ. Có nói chuyện, Chính cũng diễn đạt khô khan, ngắn gọn.
Tôi có nhóm bạn đồng
nghiệp chơi với nhau khá thân. Nhưng lại không thân với Chính. Cùng cơ quan
đấy, nhưng chúng tôi ít gặp nhau vì ai cũng bận rộn với mảng việc của mình. Có
gặp, hai chị em chỉ mỉm cười, gật đầu. Cái gật đầu thiện cảm, chân thành. Duy
nhất một lần, Chính bảo: Người đàn bà như chị, sao không sinh thêm một đứa con
gái nữa nhỉ. Phí ghê!
Hai chị em cười giòn
giã, sau câu trêu đùa…
Kim Dung và bè bạn. |
Chính cười khục khục
khi kể tôi nghe vậy. Đôi mắt hơi xếch nghịch ngợm, tinh quái, khác hẳn lúc bình
thường trầm tư, khi nào cũng như đang nghĩ ngợi một việc gì.
Những vần vũ của cuộc
đời đã xô đẩy cha của Chính, một người từng có lúc làm Chủ tịch UBND xã Ngọc
Lũ, những năm CMT8, trôi dạt lên Hà Nội mưu sinh, đẻ một lũ sáu đứa con mà
Chính là đứa con thứ hai, nhưng là con trai trưởng.
Những ngày tháng của
tuổi thơ trèo me, trèo sấu, bắt chim, bắt cá vụng dại, lêu lổng mọi ngóc ngách
Hà Nội, ăn roi, ăn vọt của cha, rồi cũng qua. Chính trở thành anh lính Hà Nội
vào tháng 9/1973, khi mới học lớp 10 (cũ) của Trường cấp 3 Trần Phú được mấy
hôm. Bắt đầu cuộc đời mới.
Những trải nghiệm gian
truân nhất của đời lính, là khi tháng 3/1974, Chính cùng đồng đội vào chiến
trường… Cái khắc nghiệt và khốc liệt của chiến tranh, trước chỉ đọc trong trang
sách học trò, trong các tác phẩm văn học, giờ nếm trải đến gan ruột trong trang
đời. Sống cùng nó, ăn ngủ cùng nó …
Hỏi, kỷ niệm Chính nhớ
nhất những năm tháng đời lính là gì? Chính bảo, đó là cái thời khắc gần cái
chết nhất, trước ngày 30/4/1975. Buổi chiều 27/4 ấy, được bên trên thông báo có
một đoàn xe phía đối phương đang chuẩn bị chạy qua đoạn Vĩnh Long và Cần Thơ.
Chính và đồng đội phải chốt chặn tại quốc lộ 4, nằm trong đơn vị cối, đơn vị
hỏa lực C12.
Loạt cối đầu tiên vừa
bắn ra, lính bên kia nháo nhào nhảy xuống hai bên đường.
Hai bên vừa nhìn thấy
nhau, bỗng Chính nghe thấy “cộc” một tiếng, tiếng nổ đầu nòng của một loại súng
cối. Linh cảm và kinh nghiệm trận mạc cho biết nó sẽ nổ rất gần mình, Chính chỉ
kịp nhào vào phía trong công sự thì đạn nổ.
Đất đá mù mịt, anh em
ai cũng tưởng Chính “dính” rồi. Chiến tranh là vậy, cái sống cái chết đều mong
manh, như sương khói. Đôi khi, Chính chỉ nhớ tới cái tiếng “cộc” lạnh tanh, khô
khốc, và cả cái cảm giác rợn gáy.
Hai năm sau, chàng
lính trẻ Hà Nội xuất ngũ. Số phận run rủi, Chính vào làm việc ở báo Nhân Dân.
Thế nào mà anh chàng đang học nghề báo, lại được cơ quan cử trong đoàn cán bộ,
nhân viên sang giúp báo bạn Campuchia.
Chính ở nơi này, tại
Phnôm Pênh, anh gặp mối tình đầu của mình, gặp người con gái nhân vật chính của
bài thơ.
Người thiếu nữ ấy có
cái tên rất lạ, M.Đ- cái tên là sự kết hợp của hai loài hoa đẹp của Sài Gòn và
Hà Nội mỗi khi xuân về. M.Đ. xinh xắn, vẻ xinh xắn của tuổi mới lớn, e lệ và
quyến rũ. Đang là sinh viên Văn khoa SG, bị cuốn vào luồng gió mới, M.Đ. rời
trường ĐH, tham gia hoạt động…
Thủ đô Phnôm Pênh ngày
đó hoang vắng lắm nhưng vẫn giữ được vẻ kiêu sa. Những đường phố lớn đẹp đặc
sắc bởi những ngôi biệt thự kiến trúc cổ Âu-Á đặc sắc, có thần rắn Naga hai
đầu. Có những hồ nước, những rặng cây bằng lăng tím trầm tư, hay rặng cây trâm
anh vàng rực rỡ.
Giữa vẻ mỹ lệ của thủ
đô cổ kính, Chính đã gặp và bị M.Đ… hút hồn. Thanh xuân gặp thanh xuân. Lúc đó,
Chính mới 22 tuổi, còn M.Đ 20. Trai HN, gái SG, cái gì phải đến đã đến.
Tình yêu dù kín đáo
đến dường nào cũng khó giấu được. Nó cứ rờ rỡ như đôi mắt lay láy, như nụ cười
mỉm con gái, bất chợt nhìn, bất chợt e thẹn. Đường phố Phnôm Pênh bỗng như thơ.
Hay trong con mắt kẻ tình si, có gì mà không trở nên lộng lẫy?
Ngày nghỉ nào, Chính
cũng lái chiếc Peugeot 304 đưa M.Đ. đi chơi khắp thành phố, vào chợ. Các bà,
các má Campuchia cứ tấm tắc khen đẹp đôi quá. Tình yêu đầu ngọt ngào và say
đắm. Lần đầu, Chính cảm nhận được thế nào là hạnh phúc. Đồng nghiệp, bạn bè
biết chuyện, ai cũng vun vào cho chàng lính trẻ HN và cô sinh viên Văn khoa SG.
Thế nhưng, giống như
những câu chuyện tình buồn, trong quấn quýt đã có mầm chia xa. Trong nụ cười đã
có ngân ngấn lệ.
Cản ngại lớn nhất lại
đến từ phía gia đình M.Đ. Sau chiến tranh, cả gia đình cô bỏ SG về Sông Bé sinh
sống. Tình yêu đầu non nớt của đôi trẻ, mãnh liệt đấy, nhưng quá mong manh, đã
không đủ sức vượt qua nổi núi cao, sông rộng của sự mặc cảm, định kiến … bên
này, bên kia.
Chiến tranh đã tắt
ngấm, nhưng chuyện hai phía, đắng cay thay, nó lại hiển hiện ở chuyện tình của
đôi trẻ.
Còn Chính, tháng
4/1980, sau một năm rưỡi công tác ở nước bạn, Chính cũng được lệnh trở về HN.
Những gì đẹp đẽ nhất,
êm ái nhất, với Chính lúc đó, dường như đã để lại ở Phnôm Pênh. Con đường trở
về nước, háo hức mà cũng đầy dư vị khổ đau của sự hợp tan.
Những chiều HN, Chính
bảo, ngắm nhìn phố xá, ngắm nhìn con gái HN thấy đẹp quá, nhưng ai ai cũng có
đôi, chỉ riêng Chính một mình. Một mình nhớ, một mình thương, âm thầm, khổ sở…
Những đêm mưa HN sao
dài thế. Không ngủ được, Chính nằm co ro, đếm tiếng mưa rơi, quay quắt với
những kỷ niệm.
Một chiều, tình cờ
Chính nghe tin bộ đội Việt Nam từ Campuchia rút về nước, trong đó có Binh đoàn
Cửu Long. Nỗi nhớ những kỷ niệm chiến trường, nhớ M.Đ ập đến, da diết, tưởng
phát khóc.
Trái tim đau bỗng nở
hoa.
Chính viết liền một mạch.
Bài thơ Ở hai đầu nỗi nhớ ra đời như thế.
Có một không gian nào
Đo
chiều dài nỗi nhớ
Có khoảng mênh mông nào
Sâu thẳm hơn tình thương?
Anh đang
ở Pai Lin
Rừng khộp khô trong nắng
Thương em ngoài ấy lạnh
Muốn gửi chút
nắng rừng.
Chào Phnôm Pênh mến yêu
Sức vươn chàng dũng sĩ
Tạm biệt dòng Bốn Mặt
Sức vươn chàng dũng sĩ
Tạm biệt dòng Bốn Mặt
Sóng đang hát đôi bờ.
Ở đầu này nỗi nhớ
Anh mơ về
bên em
Ngôi sao như xuống thấp
Cho ta gần nhau hơn.
Ở đầu kia nỗi nhớ
Nằm
đếm tiếng mưa rơi
Được mấy triệu hạt rồi
Mà chưa vơi nỗi nhớ.
Ở hai đầu nỗi
nhớ
Yêu và thương sâu hơn
Ở hai đầu nỗi nhớ
Nghĩa tình đằm thắm hơn.
Bài thơ ấy, Chính ký
tên Trần Hoài Thu.
Chính nhớ quá những
mùa thu, mùa thu Phnôm Pênh, mùa thu HN. Mùa thu của nhớ nhung, của dấu yêu,
của tình đầu ngọt ngào, da diết… Sau này, Trần Hoài Thu cũng là tên đứa con gái
đầu của Chính.
Kim Dung và bè bạn. |
Khỏi phải nói, Chính
sung sướng đến thế nào khi bài thơ Ở hai đầu nỗi nhớ mấy ngày sau đăng trang
trọng trên báo. Cũng phải công bằng, bài thơ đăng lên được nhiều người biết, là
khi được nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc.
Có điều khi đó, Chính
chưa biết. Năm 1988, đi công tác SG, vào chợ Bến Thành, qua cửa hàng băng đĩa,
Chính bỗng sững người khi nghe giọng Bảo Yến cất lên, trầm ấm: Có một không
gian nào/ Đo chiều dài nỗi nhớ…. Hóa ra, bài thơ của Chính đã được phổ nhạc tự
lúc nào. Phải một lúc mới trấn tĩnh được…
Chính vào cửa hàng hỏi
mua băng nhạc đó, tập hợp toàn bài hát của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu với tiêu đề
Ở hai đầu nỗi nhớ. Rồi sau này, sau này nữa, Chính còn được nghe nhiều lần ca
khúc ấy trong những hoàn cảnh khác nhau. Mỗi lần, là như sống lại cái cảm giác
rất riêng của những kỷ niệm dấu yêu.
Ở tòa soạn, Chính là
một đồng nghiệp cẩn trọng với nghề, một phẩm cách đáng quý của nghiệp cầm bút,
giữa thời buổi nhiều chen lấn, chụp giật….
Nhưng thú thật, tôi
cũng đã không dám hỏi sâu hơn về đời riêng của Chính, cũng không muốn hỏi kỹ
hơn về M.Đ., người con gái năm xưa. Phận đàn bà, mười hai bến nước, biết bến
nào đục, bến nào trong… Chính cũng đã có bến bờ riêng và gặp nhiều giông bão.
Thoáng chút, thấy đôi
mắt của Chính buồn buồn, mà theo Chính, do quá khác nhau về những quan niệm giá
trị. Sự khác nhau có thể hút nhau. Mà sự khác nhau, tiếc thay, đôi khi làm con
người ta… xa nhau vĩnh viễn.
Chính cũng rất ngay
thẳng khi bảo rằng: Trong chuyện chia tay, thì chắc chắn cả hai người cùng có
lỗi. Chính đã ra khỏi ngôi nhà xây đẹp đẽ ấy, một cách rất đàn ông.
Giờ đây, cuộc đời như
đang an bài với Chính. Anh đã có một gia đình khác, với người vợ trẻ cùng nghề
mà khi đó, Chính bảo tôi: Chẳng bao giờ dám nghĩ tới vì cô ấy còn trẻ quá. Nhưng
tình yêu là chuyện con tim, đâu phải chuyện tuổi tác?
Thơ xưa viết cho một
người, giờ hát cho mọi người. Một nhạc sĩ tài danh đã viết như vậy. Có thể
Chính cũng chỉ là tác giả- nhà thơ của một bài thơ. Nhưng quan trọng, đó chính
là con tim đã cất lên, mà tiếng mưa rơi mới chỉ là khúc dạo đầu…, để rồi có
hàng triệu con tim khác hòa ca.
Quan trọng hơn, Ở hai
đầu nỗi nhớ, đã khiến cho rất nhiều con tim hiểu, rằng điều diệu kỳ nhất của
tình yêu- có những cái tưởng là mất, hóa ra mới là mãi mãi. Phải không Chính?
-----
Bài được đăng trên vnca ngày 17/07/2006
-----
Bài được đăng trên vnca ngày 17/07/2006
Sóng đôi. Ảnh Hiệu Minh |
Ở hai đầu ... mùa Thu. Ảnh Hiệu Minh |
Điều diệu kỳ nhất của tình yêu - có những cái tưởng là mất, hóa ra mới là mãi mãi.
Trả lờiXóaBà Trần Thanh Vân viết:
Xóa.
Có người nói “Già rồi mà vẫn lãng mạn”
Có người cải chính “Già rôi mới hiểu thế nào là lãng mạn”.
.
Với tôi, đó là kỷ niệm của những người cùng thời.
Chúc Hà vui!