Thứ Tư, 14 tháng 11, 2012

Chú Đại Bi


Nam mô đại bi hội thượng Phật Bồ Tát. (3 lần)
        Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni.
              Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da.
       Nam mô a rị da. Bà lô yết đế thước bát ra da. Bồ đề tát đỏa bà da. Ma ha tát đỏa bà da. Ma ha ca lô ni ca da. Án. Tát bàn ra phạt duệ. Số đát na đát tả. Nam mô tất cát lật đỏa y mông a rị da. Bà lô cát đế thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì. Hê rị ma ha bàn đá sa mế. Tát bà a tha đậu du bằng. A thệ dựng. Tát bà tát đá (na ma bà tát đa*) na ma bà dà. Ma phạt đặc đậu. Đát điệt tha. Án a bà lô hê. Lô ca đế.  Ca ra đế. Di hê rị. Ma ha bồ đề tát đỏa. Tát bà tát bà. Ma ra ma ra. Ma hê ma hê rị đà dựng. Câu lô câu lô yết mông. Độ lô độ lô phạt xà da đế. Ma ha phạt xà da đế. Đà ra đà ra. Địa rị ni. Thất Phật ra da. Dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra. Mục đế lệ. Y hê y hê. Thất na thất na. A ra sâm Phật ra xá lợi. Phạt sa phạt sâm. Phật ra xá da. Hô lô hô lô ma ra. Hô lô hô lô hê rị. Ta ra ta ra. Tất rị tất rị. Tô rô tô rô. Bồ đề dạ bồ đề dạ. Bồ đà dạ bồ đà dạ. Di đế lị dạ. Na ra cẩn trì. Địa lị sắt ni na. Ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ, ta bà ha. Ma ha tất đà dạ, ta bà ha. Tất đà du nghệ. Thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khư da, ta bà ha. Ta bà ma ha a tất đà dạ, ta bà ha. Giả cát ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lợi thắng yết ra dạ, ta bà ha.
     Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da. Nam mô a lị da. Bà lô cát đế. Thước bàn ra dạ, ta bà ha.
     “Án, tất điện đô. Mạn đa ra. Bạt đa da, ta bà ha.”. (3 lần)
(Ghi chú: (*) Trong bản Hán văn và hình thứ 16 có năm chữ nầy. Tuy nhiên, không biết lý do nào và vì sao đã mất hẳn sự trì tụng từ lâu qua các bản Việt văn? Chúng tôi cũng ghi ra cho rõ, để quý vị tham khảo và biết sự thiếu sót nầy.)
* * *
Lược Giải Chú Đại Bi
Vô Lượng Thọ Phật
1.  Dẫn nhập.
Chú Đại Bi phát xuất từ  sự xác quyết do kim khẩu của Bồ tát Quán Thế Âm. Thường gọi là Thần chú, Linh chú. Ai tin và thành tâm hành trì thần chú nầy thì bản thân người ấy đã có đủ Đại bi tâm. Thần chú do Bồ tát Quán Thế Âm nói và được chư Phật ấn chứng mà gần nhất là đức Thích Ca Như Lai Từ Phụ nghe và đức Thích Ca cũng ấn chứng.
Thần chú nầy có nhiều tên khác nhau.
Quảng đại Viên mãn, Vô ngại Đại bi, Cứu khổ Đà la ni, Diên thọ Đà la ni, Mãn nguyện Đà la ni, Diệt ác thú Đà la ni, Phá ác nghiệp chướng Đà la ni,  Tối siêu thượng Đà la ni, …
Nguyên Thần chú nầy tên rất dài “Thiên thủ thiên nhãn Quán Thế Âm Bồ tát Quảng đại Viên mãn Vô ngại Đại bi tâm Đà la ni thần chú”. Bài chú gồm có 84 câu.
 Đức Phật đã từng nói với Bồ tát Quán Thế Âm.
 -  Hởi thiện nam tử, ngươi nên bền lòng trì tụng Thần chú nầy, sẽ có tác dụng lớn trong việc tế độ chúng sanh trong những ác nghiệp của các kiếp sau ....
Trong kinh điển, lúc ấy Bồ tát Quán Thế Âm sau khi nghe đức Phật hướng dẫn, Ngài liền phát nguyện trì tụng liên tục từ cảnh giới Sơ địa đến Bát địa và thẳng lên Bất động địa. Cũng từ đó, ngài phát đại nguyện: Cầu cho kiếp sau của ngài phổ độ cho hết thảy chúng sanh đều được vui thích và mong cho ngài được ngàn cánh tay, ngàn con mắt.
Sau khi phát nguyện xong, phút chốc, toàn thân ngài đã đầy đủ cả ngàn tay, ngàn mắt; tất cả mười phương đều chấn động và mưa hoa cúng dường. Chư Phật cũng phóng hào quang rực rỡ, soi khắp đó đây. Từ đó, Thần chú nầy mới có nhiều danh hiệu như vậy.
Đức Phật bảo ngài An Nan rằng.
- Kết quả có được của Bồ tát Quán Thế Âm là do sự phát đại thệ nguyện vì chúng sanh.
Những ai phát nguyện nhất tâm trì tụng thì sẽ được tiêu trừ tội chướng trong đời nầy và kiếp vị lai. Trong giây phút lâm chung, nếu mình tự niệm hoặc được thiện tín thành tâm hộ niệm thì sẽ được vãng sanh hoặc đến quốc độ mà mình muốn đến. Có đức Phật A Di Đà và chư vị Bồ tát thùy từ tiếp dẫn.
Những ai trong đời nầy, nhất tâm trì tụng Đại bi tâm chú thì sẽ được toại nguyện về 15 loại thiện sanh và trừ được 15 loại ác tử.

 A. Mười lăm loại thiện sanh.
1. Nơi được sanh ra thường gặp năm điều lành. 2. Thường được sanh ở nước lành (thiện quốc). 3. Thường gặp thời hay, vận tốt. 4. Thường gặp được thầy sáng, bạn lành. 5. Thân các căn đều trọn vẹn, đầy đủ (lục căn hoàn cụ). 6. Đạo tâm luôn được thuần hậu, chơn chánh. 7. Không phạm cấm giới. 8. Tình anh em cốt nhục đều được thuận hòa, an lạc. 9. Trọn đời cơm áo đầy đủ, nhàn nhã. 10. Luôn luôn được mọi người kính mến, thương giúp. 11. Tài sản, của cải không bao giờ bị cướp đoạt. 12. Cầu gì đều được toại ý (Sở cầu như ý). 13. Luôn được thiện thần, hộ pháp bảo vệ. 14. Nơi được sinh ra thường được nghe Phật thuyết pháp. 15. Khi nghe được Chánh pháp là hiểu ngay được thâm ý mà trực ngộ lời Phật dạy.
 B. Mười lăm loại về ác tử.
1. Không bị chết khốn khổ về đói khát, loạn lạc. 2. Không bị chết vì giam cầm, đánh đập. 3. Không  bị chết vì thù oán. 4. Không bị chết nơi trận địa. 5. Không bị chết vì thú dữ cắn xé. 6. Không bị chết vì rắn, rết cắn. 7. Không bị chết cháy hay chết đuối. 8. Không bị trúng độc khi ăn uống mà chết. 9. Không bị các loại trùng độc sát hại. 10. Không bị cuồng loạn hay thất vọng mà chết. 11. Không bị cây cối rơi trúng hoặc sa xuống hầm hố mà chết. 12. Không bị người khác trấn ếm, trù ẻo mà chết. 13. Không bị tà thần, ác quỷ làm hại để chết. 14. Không bị chết vì ác bệnh. 15. Không bị chết oan (tự tử, bất đắc kỳ tử, ...).
Vì những điều nêu trên, Chú Đại Bi có thể trừ được tất cả những tai nạn, những khổ nạn và thành tựu được những toại nguyện. Những ai chí thành trì niệm thì được những điều lợi ích như trên và sẽ được xa lánh mọi ưu bi, khổ não cho chính mình và có thể cứu giúp được tha nhân như Đại bi tâm của Bồ tát Quán Thế Âm.

  2.  Giải nghĩa.
Nam mô: Quy y, nương về, nương theo, / Hát ra đát na đá ra dạ da: Tam bảo (Phật, Pháp Tăng), / Nam mô: Quy mạng, cũng có nghĩa là Quy y, / A lị da: Thánh, / Bà lô yết đế: Quán, / Thước bát ra da: tức Tự tại, / Bồ đề tát đỏa bà da: Giác hữu tình, / Ma ha tát đỏa bà da: Đại giác hữu tình, / Ma ha ca lô ni ca da: người có lòng đại bi. (Đại bi tâm giả), / Án: Quy mạng, / Tát bàn ra phạt duệ: Nhất thế tôn, / Số đát na đát tả: Vị cứu hết thảy sự khủng bố, / Nam mô: Quy mạng, / Nam mô tất cát (hay kiết): kẻ ở bên kia (Ư bỉ), / Y mông a lị da: Thánh của chúng ta (Ngã thánh), / Bà lô cát đế, thất Phật ra lăng đà bà: Quán tự tại Hương sơn, / Nam mô: Quy mạng, / Na ra cẩn trì: Uy lực của Thánh Quán tự tại, tên là Thanh cảnh chí tâm chơn ngôn, / Hê rị ma ha bàn đá sa mế: Ta nay tuyên thuyết, / Tát bà a tha đậu du bằng: Vị có hết thảy mọi sự hy vọng viên mãn và có ánh sáng rực rỡ, / A thệ dựng: Không gì có thể so sánh được, / Tát bà tát đá: Hết thảy mọi quỷ thần không thể đánh thắng được. / (* ma bà tát đá) na ma bà dà: Đồng chơn, / Ma phạt đặc đậu: Người có đạo tâm đang ở trong cõi mê khiến sớm cho được thanh tịnh, / Đát điệt tha: Có nghĩa là, / Án: Quy mạng, / A bà lô hê: Bậc có trí tuệ sáng suốt, / Lô ca đế: Quán tự tại, / Ca ra đế: Đấng siêu việt thế gian, / Di hê lị: Vị sư tử vương, / Ma ha bồ đề tát đỏa: Đại Bồ tát, / Tát bà tát bà: Hết thảy hết thảy, / Ma ra ma ra: Ghi nhớ, ghi nhớ, / Ma hê ma hê rị đà dựng: Tâm chơn ngôn, / Câu lô câu lô yết mông: Làm sự nghiệp, / Độ lô độ lô: Bảo trì, bảo trì, / Phạt xà da đế: Người dạo chơi ở trên không (Du không giả), / Ma ha phạt xà da đế: Người oai đức lớn (Ma ha) dạo chơi ở trên không (Đại du không giả), / Đà ra đà ra: Bảo trì, bảo trì, / Địa rị ni: Kẻ trì tụng, / Thất Phật ra da: Vua Tự tại (Đế vương tự tại), / Dá ra dá ra: hành động, / Mạ mạ phạt ma ra: Không bị bụi bám vào (Vô cấu nhiễm), / Mục đế lệ: Thể không nhơ nhớp (Vô cấu thể), / Y hê y hê: Lời giáo dục, dạy dỗ (Giáo ngữ), / Thất na thất na: Lời thề rộng lớn (Đại thệ nguyện), / A ra sâm: vua (Vương), / Phật ra xá lị: sự Giác ngộ kiên cố (Giác kiên cố tử), / Phạt sa phạt sâm: Hoan hỷ, vui vẻ, / Phật ra xá da: Trừ mọi độc hại do tham sân si gây nên, / Hô lô hô lô ma ra: Làm phép không bị nhiễm ô (tác pháp vô cấu nhiễm), / Hô lô hô lô hê rị: mau chóng, mau chóng, tóc đã bạc rồi. / Ta ra ta ra: Kiên cố vậy (kiên cố giả), / Tất rị tất rị: Hoa sen, / Tô rô tô rô: Cọng hoa sen, / Bồ đề dạ bồ đề dạ: tỉnh ngộ, tỉnh ngộ, / Bồ đà dạ bồ đà dạ: Dạy cho được Giác ngộ, / Di đế rị dạ: Người có lòng từ bi, / Na ra cẩn trì: Thanh cảnh, xinh đẹp, / Địa lị săt ni na: Bền chắc và lanh lợi, / Ba dạ ma na: Nghe tên (danh văn), / Ta bà ha: Lòng mong mỏi được gặp thì sẽ được hiển hiện, sanh lòng hoan hỷ, viên mãn tới niết bàn, / Tất đà dạ: Nghĩa, / Ta bà ha: Bậc đã được thành tựu, / Ma ha tất đà dạ: Bậc đại nghĩa, / Ta bà ha: bậc đã được thành tựu lớn lao, đại thành tựu, / Tất đà du nghệ: Vô vi, / Thất bàn ra dạ: Bậc Đại tự tại, / Ta bà ha:  Bậc Tự tại  bởi Tất địa và Du già, / Na ra cẩn trì: Hiền ái, / Ta bà ha: Vì thanh cảnh viên mãn nên được thành tựu, / Ma ra na ra: Như ý tối tôn, / Ta bà ha: được Thành tựu, / Tất ra tăng a mục khư da: Nghĩa thứ nhất của tiếng yêu thương (ái ngữ đệ nhất nghĩa), / Ta bà ha: Tay cầm hoa sen, / Ta bà ma ha: Đại thành tựu, / A tất đà dạ: Không có gì so sánh được (Vô tỷ), / Ta bà ha: Thành tựu, / Giả cát ra a tất đà dạ: Không có gì để so sánh được, /Ta bà ha: Thành tựu, / Ba đà ma yết tất đà dạ: Đại nghĩa, / Ta bà ha: Đấng được khai ngộ vì nghe được tiếng pháp loa, / Na ra cẩn trì bàn đà ra dạ: Bậc hiền thủ thánh tôn, / Ta bà ha: Thành tựu, / Ma bà lợi thắng yết ra dạ: Anh hùng uy đức sanh tánh, / Ta bà ha: Thành tựu, đại thành tựu (sự chinh phục tất cả ma chướng). / Nam mô hát ra đát na đá ra dạ da: Quy mạng Tam bảo (Phật Pháp Tăng), / Nam mô: Quy mạng, quy y, / A lị da: Thánh, / Bà lô cát đếQuán, / Thước bàn ra dạ: Tự tại, / Ta bà ha: Thành tựu, / Án: Quy mạng, quy y, / Tất điện đô: Khiến cho tôi sớm được thành tựu, / Mạn đà ra: Chơn ngôn, / Bạt đà da: Đều (Câu hay cu), / Ta bà ha: Thành tựu, sớm thành tựu.

La Hán đồ
 3. Đại ý của bài Thần chú.
Con kính cẩn cúi đầu trước ngôi Tam bảo Phật Pháp Tăng. Nguyện xin quy y theo đức Thánh Quan Tự Tại. Con nguyện  đem thân mạng mà quy y với đức đại Bồ tát có lòng đại từ đại bi, mà cầu xin sớm được thành tựu sự giác ngộ để cứu độ cho hết thảy chúng sanh do mê muội đang bị khủng bố trên thế gian nầy. Do đó, con đem cả thân mạng mà quy y với đức Đại Bồ Tát có lòng đại từ bi. Một lòng thề nguyện truyền bá rộng rãi lòng từ bi của đức Thánh Quán Tự Tại Bồ Tát; lắng nghe tâm chơn ngôn (tổng trì pháp môn tâm chơn ngôn và Phật nội chứng), vâng theo mệnh của bổn tôn là Đại bi tâm đà la ni nầy mà hết lòng xưng tụng công đức Quán Tự Tại Bồ Tát, tất cả mọi hy vọng đều được viên mãn, làm sáng tỏ tính chất đồng thể đại bi thanh tịnh viên minh và làm cho tất cả quỷ thần đều không thể đánh thắng được uy lực to lớn của Ngài. Với những kẻ có đạo tâm, không bao giờ bị vô minh phiền não mê hoặc, không bao giờ bị đắm chìm trong cảnh mê muội, u tối và được dẫn dắt tới thế giới quang minh của đức Đại Bồ Tát. Trí tuệ quang minh được biểu hiện siêu tuyệt nhất thế gian là đức Bồ Tát có công đức vô cùng vĩ đại. Có đấng quy mạng giống như đức Tự Tại Sư Tử Vương Đại Bồ Tát. Ức niệm nói chung của bản thể tâm chơn ngôn của Bồ tát cũng giống như đi ở trên không trung để thuyết giảng chánh pháp một cách lớn lao và tự tại, hoặc là làm công việc tư duy về một công việc to rộng. Cũng như các bậc vua chúa, bất kể việc gì, đều được đức Bồ tát làm một cách tự do, tự tại. Được hành động bởi một thân thể thanh tịnh, không mảy may dơ bẩn, hoặc để trừ mọi hành vi dơ bẩn của ba cái độc hại là tham, sân và si; cũng như diệt trừ mọi ác ma độc hại ở trên thế gian nầy. Như thế sẽ nhanh chóng có mái tóc đẹp như hoa sen thanh tịnh và cầm lấy được hoa sen của đức Bồ tát. Giáo hóa được nghiệp ngu si của ta và chứng ngộ được lòng yêu thương vô bờ bến. Khiến được sanh lòng hoan hỷ của Bồ tát Quán Tự tại.
Muốn được tới cõi niết bàn (thành tựu viên mãn) sẽ được thấy cõi niết bàn, và cũng tới được cảnh giới Tất địa (nơi ngộ đạo) với Du già (tương ứng hiệp nhập) thì được tự do, vô ngại. Trong đó, cũng có kẻ không phải là loài người (mặt heo cổ xanh, có kẻ mặt sư tử), con nào từ bi thì biểu thị tay cầm hoa sen, để thâu nhiếp chánh pháp trừ ma quỷ phiền não. Nghe tiếng pháp loa vi diệu được chuyển mê khai ngộ, hết thảy đều quy y Tam bảo.
Nam mô Thánh Quan Tự Tại Bồ Tát, khiến cho được tới cõi niết bàn, để trì tụng lời chơn ngôn này ở nơi niết bàn thanh tịnh, trang nghiêm.

3 nhận xét:

  1. Cảm ơn anh! Bài viết cho ta hiểu tường tận, thấu đáo về Thần Chú Đại Bi. "Những ai trong đời nầy, nhất tâm trì tụng Đại bi tâm chú thì sẽ được toại nguyện về 15 loại thiện sanh và trừ được 15 loại ác tử".

    Em chưa thuộc được Chú Đại Bi (mới chỉ thuộc được Án Nam Thần Chú và Vãng Sinh Thần Chú). Niệm chú với em thật khó khăn, khi niệm chú bao nhiêu suy nghĩ cứ vùn vụt trong đầu óc em, không thể nào tập trung được lâu. Em tự biết mình còn nhiều nghiệp chướng, mặc dù trong cái tâm của mình lúc nào cũng chỉ hướng về thiện nghiệp.

    Trả lờiXóa
  2. I would like to thank you for the efforts you have put
    in penning this site. I really hope to see the same high-grade blog posts from you in the future as well.
    In truth, your creative writing abilities has motivated me to get my very own site now ;)

    quotient
    rangefinders receta netherlands culture berman
    http://kirovochepeck.ru/node/42480
    http://www.revivalhub.org/book-page/solutions-and-products-social-media-services-and-marketing
    http://isma.tamu.edu/node/10353
    http://staging.2011.c4yw.org/forum/guidelines-within-social-media-services-and-marketing-strong-beginning
    http://www.napfenyt.hu/node/332359
    mysteries generalmente sicarios sooke sunshines

    My site; application

    Trả lờiXóa