Thứ Bảy, 10 tháng 11, 2012

Những họa tiết khắc trên Huyền đỉnh


Huyền đỉnh - Đỉnh đặt hàng thứ tư bên phải tượng trưng cho sự huyền kỳ

THỐC THU

Thốc Thu, tục danh chim ông già, lại gọi là chim đang sen (47), khoảng đầu triều Minh Mạng lại ban cho nó cái tên là thọ nhi điểu; cũng gọi là chim phù lão, là chim xi lão, nó là một trong những giống chim lớn của loài thủy điểu. Do đặc tính, nó thường sinh sống nhiều ở chỗ đầm hồ rộng, vùng nước có nhiều cây ngập lúp xúp của phương Nam. hình dáng chim thốc thu giống chim hạc mà lớn hơn chim hạc, sắc xanh biếc, cổ dài, mắt đỏ, đầu trọc không có lông, mỏ dẹp mà thẳng, dài hơn một thước. Phàm các giống chim khác cứ đến mùa thu thì đổi lông thành trọc đầu, duy giống chim thốc thu đầu luôn trụi lông trông như ông già, lại trông giống như hình cái đầu gậy của ông già, cho nên người ta mới gọi các tên như thế. Kinh Thi có câu: “Hữu thu tại lương”, nghĩa là có con chim thu ở ngoài đập nước, tức là chim này. Theo các nhà Đông y, thịt của chim thốc thu nếu đem nướng chả làm món ăn rất bổ, nhiều dinh dưỡng, dùng hợp với tất cả các cơ địa, tuổi tác, lại chữa được bệnh hay rụng tóc, chống trắng tóc, lông của chim thốc thu dùng bào chế thuốc có công dụng giải được độc thủy trùng (nhất là các trùng độc ở dưới nước).
Năm Minh Mạng thứ 17, đúc xong Cửu đỉnh, nhà vua cho chạm hình tượng chim ông già vào Huyền đỉnh.
Ngày nay, người ta thấy giống chim thốc thu sinh sống nhiều ở vùng Đồng Tháp Mười, Nam Bộ; vùng chiêm trũng châu thổ Bắc Bộ; thỉnh thoảng người ta cũng thấy tràm chim ở phía bắc phá Tam Giang tỉnh Thừa Thiên Huế cũng có xuất hiện nhưng cá thể ít hơn các nơi khác. Chúng sống đơn lẻ nhiều lắm cũng chỉ vài ba con một bầy. Nhiều người dân ở vùng đầm phá bắt được nó nuôi chơi, buộc một sợi dây vào chân thả cho đi quanh vườn nhà, để nó tự kiếm ăn, trông nó mệt mỏi “như ông già” vậy. Thốc thu cũng là loại chim quí, rất cần được bảo vệ nòi giống.
(47). ĐNTLCB, Hà Nội xb, (1968), phiên hình này là núi Thúc Thu. Cuốn Từ điển Ngôn ngữ Văn hóa Du lịch Huế xưa, Nxb Thuận Hóa (2005) cũng ghi hình này là núi Thúc Thu. Nhưng ở đây là loài chim, thốc thu có nghĩa là chim ông già, có người dịch là chim ông lão cũng thế, nhưng không phải là ngọn núi.

SƠN MÃ
Sơn Mã, con lộc mã, ngựa núi (48), theo hình chạm thì giống ngựa này là con hươu, con hươu núi thân không cao to lắm, nhưng chạy rất nhanh; đi núi dốc rất khỏe. Nó sống hợp với khí hậu tự nhiên ở vùng miền núi Tây Bắc của Việt Nam, sinh sản rất nhanh và hợp thành bầy đàn lên đến vài chục con.
Sừng non, thịt, da, xương sơn mã có thể dùng để bào chế làm thuốc chữa bệnh suy nhược, yếu gân, bổ thận... Da sơn mã dùng cho ngành mỹ nghệ có giá trị rất cao.
(48). ĐNTLCB, Sđd, phiên là con ngựa, ghi đúng là con lộc mã tức con hươu.

THAO HÀ
Thao Hà, tức sông Thao, một khúc trên của sông Hồng, đoạn chảy vào tỉnh Phú Thọ, bắt đầu từ xã Hậu Bổng, huyện Hạ Hòa đến Ngã ba Hạc xưa, nay thuộc Việt Trì, dài khoảng 140 cây số. Sông có độ dốc lớn, dòng chảy quanh co khúc khuỷu, hai bên có nhiều gò bãi và vật cản rất trở ngại cho việc thoát lũ, lại có những đoạn thắt khúc như ghềnh Bà Triệu ở Lâm Thao, Chí Chủ ở Thanh Ba… nên chênh lệch lưu lượng khá lớn, về mực nước cũng như về tổng lượng nước giữa mùa mưa và mùa khô kiệt hàng năm. Sông Thao có lượng phù sa rất cao, đạt tới 7,660kg trong một mét khối. Sông Thao đã đem lại sự trù mật cho vùng đất Việt cổ xưa.

MIÊN

Miên, tục danh cây bông, có tên nữa là mộc khoáng. Cây bông có hai loại, một loại tục gọi cây gòn, lại gọi cây gạo, tức là mộc khoáng về loại mộc. Cây cao chừng 15 mét, có nhiều cây cao hơn thế, cành mọc ngang với những gai hình nón, thân cũng có gai. Cành non dài, không gai, lá sớm rụng, hoa đỏ, mọc nhiều trên những cành nhỏ trước khi ra lá non. Quả hình thoi to như chén rượu, người ta ít hái lấy, tự nó nở bung theo gió bay rớt, chỉ nhặt để độn chăn làm gối thôi. Theo các nhà y dược, trong vỏ cây gạo có chất nhầy, thường được dùng làm thuốc để bó gãy xương, vỏ tươi giã nát bó vào nơi gãy, sao vàng sắc đặc để uống hoặc chế dưới dạng cao lỏng làm thuốc cầm máu tử cung, chữa bệnh lậu, thông tiểu. Một loại được gọi bông tàu, tức là mộc khoáng về loại thảo. Bản thảo gọi tên là cổ chung, là cát bối, đều dùng để dệt vải. Loại cây này ngày trước vốn sinh sản nhiều ở huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa, nay thì nơi nào cũng có trồng, nhiều nhất là ở các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Lâm Đồng. Sách Quần phương phả nói: mộc khoáng mùa xuân trồng hột, hoa vàng như hoa thu quỳ, quả có ba khía, tua tủa như quả đào, khi chín thì quả nở bung vỏ ngoài mà lòi xơ bông ra, dùng độn áo rất nhẹ và ấm. Hột như hạt châu, có thể cho ta sợi để dệt vải, xay nát đánh dầu, bã dầu có thể làm phân bón đồng ruộng. Lõi hột rất cứng, chịu được lửa; lá cây bông cho trâu bò ăn, công dụng rất rộng. Hoa của nó thường nở vào tháng 2 tháng 3 âm lịch. Nhà thuốc Đông y lấy vỏ, rễ của nó sao vàng, ban đêm hạ thổ, rồi phơi khô, dùng làm thuốc điều kinh; là loại thuốc có tác dụng làm co bóp tử cung giống như sự co bóp tự nhiên của người phụ nữ khi đẻ. Trong hột của nó có thể chế biệt dược gây lợi sữa; lại có thể dùng để ép lấy dầu thắp và nấu xà phòng... Hột bông có chứa nhiều sinh tố E, và chất độc nhẹ nhưng rất ít.
Năm Minh Mạng thứ 17, đúc xong Cửu đỉnh, nhà vua cho khắc hình tượng cây bông vào Huyền đỉnh.
Ngày trước, mỗi thôn quê Việt Nam đều thường có trồng vài ba cây bông gạo ở đầu làng, trong các sân đình, hay các bến đò ngang. Năm tháng tuổi thơ nhiều người thường gắn bó sâu nặng với nó, đến lúc xa quê mang theo bao nỗi nhớ, mỗi khi gặp hoa gạo đâu đó nở bay theo gió người ta lại nôn nao nhớ bóng dáng quê nhà. Cây gạo đầu làng mình lại nở hoa!

(hết)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét