Giả Bảo Ngọc sống phong lưu, đào hoa bên cạnh các cô gái đẹp trong phủ. Tranh Tôn Ôn. |
Hồi
550
Chơi
cõi ảo, mười hai thoa chỉ đường mê;
Uống
rượu tiên, mộng lầu hồng diễn thành khúc.
Ngày
xuân uể oải lịm trong chăn,
Như
dắt nàng tiên lánh cõi trần.
Vào
hào hoa tư ai đấy nhỉ,
Phong
lưu gây lấy nợ vào thân.
Việc mẹ con họ Tiết đến ở phủ Vinh hãy tạm ngưng.
Nay nói Lâm Đại Ngọc từ khi đến phủ
Vinh, được Giả mẫu thương yêu muôn phần, ăn ở đi đứng, nhất nhất đều như Bảo Ngọc,
ngay Nghênh Xuân, Thám Xuân, Tích Xuân cũng không bằng.
Bảo Ngọc và Đại Ngọc thì thân nhau hơn
hẳn mọi người; ngày cùng chơi chung, tối cùng ngủ chung, rất là hòa thuận, thân
mật như keo sơn, không hề xích mích nhau điều gì. Nay bất thình lình có Tiết Bảo
Thoa đến, tuy không lớn tuổi hơn mấy, nhưng phẩm cách đứng đắn, phong tư lộng lẫy,
ai cũng cho là hơn Đại Ngọc. Bảo Thoa lại cư xử khoát đạt, tùy phận theo thời;
không giống như Đại Ngọc có tính kiêu kỳ tự phụ, chẳng chịu kém ai, cho nên rất
được lòng người dưới. Ngay bọn a hoàn cũng thích gần Bảo Thoa. Vì thế Đại Ngọc
cũng hơi ấm ức khó chịu, nhưng Bảo Thoa thì thản nhiên như không.
Bảo Ngọc còn trẻ con, tính lại vụng về,
ngang trái, coi anh chị em ai cũng như ai, không hề phân biệt thân sơ xa gần. Bấy
nay Bảo Ngọc, Đại Ngọc ở trong buồng Giả mẫu, quen biết hơn và tất nhiên cũng
thân mật hơn. Đã thân mật hơn thì dễ xảy ra những chuyện hiểu lầm nhau không thể
tránh được. Có một hôm, không biết vì việc gì, hai người trò chuyện không
hợp nhau, Đại Ngọc bực bội vào buồng khóc một mình. Bảo Ngọc hối hận đã nói sỗ
sàng, liền lại làm thân, Đại Ngọc mới dần dần nguôi giận.
Nhân dịp vườn bên phủ Ninh hoa mai nở
rộ, vợ Giả Trân là Vưu thị bày tiệc, rồi sai vợ chồng Giả Dung sang tận nơi mời
Giả mẫu, Hình phu nhân, Vương phu nhân sang thưởng hoa.
Giả mẫu và mọi người ăn cơm sáng xong,
sang vườn Hội Phương ngắm cảnh. Trước còn uống trà, sau mới uống rượu. Đây chỉ
là tiệc rượu riêng trong hai phủ Ninh và phủ Vinh thôi, không có sự gì lạ đáng
chép cả.
Một lúc sau, Bảo Ngọc mệt, muốn về nghỉ
trưa. Giả mẫu định sai người đưa về nghỉ một chốc rồi sẽ đến. Vợ Giả Dung là họ
Tần, vội cười nói:
Ở đây đã dọn một gian buồng để chú Bảo
nghỉ rồi, xin cụ yên lòng, cứ giao chú ấy cho cháu là được.
Rồi bảo vú già và a hoàn của Bảo Ngọc:
“Các bà các chị mời chú Bảo đi theo tôi”.
Giả mẫu biết Tần thị rất chu tất, vì
chị ta là người mềm mỏng, dịu dàng, cư xử lại hòa nhã khéo léo rất được vừa ý
trong đám chắt dâu. Thấy Tần thị dẫn Bảo Ngọc đi nghỉ, Giả mẫu mới yên tâm.
Khi Tần thị dẫn mọi người đến buồng
trong; Bảo Ngọc ngửng đầu trông, thấy trên treo bức vẽ “Nhiên lê đồ”51. Bức vẽ rất đẹp, nhưng không biết của
ai, trong bụng Bảo Ngọc không thích. Lại có một đôi câu đối:
Thế
sự tinh thông đều là học vấn,
Nhân
tình lịch duyệt mới gọi văn chương.
Đọc xong xuôi câu đối, Bảo Ngọc nhìn
nhà cửa rất đẹp, đồ bài trí rất trang hoàng, nhưng nhất định không chịu ở, liền
nói:
Mau ra ngay, mau ra ngay!
Tần thị cười nói: Chỗ này không vừa ý
thì chú đi đâu bây giờ. Nếu không, chú đến nghỉ ở buồng tôi vậy.
Bảo Ngọc gật đầu mỉm cười, một bà già
nói:
Có lẽ nào chú lại đến ngủ ở buồng cháu
dâu? Tần thị cười nói:
Ôi dào! Không sợ chú ấy phật ý. Chú ấy
đã lớn đâu mà phải e dè? Chị không thấy tháng trước em tôi đến đây chơi à? Tuy
nó bằng tuổi chú Bảo, nhưng để hai người đứng với nhau có lẽ nó còn cao hơn
kia.
Bảo Ngọc hỏi: Tại làm sao tôi chưa được
gặp? Đi gọi lại đây tôi xem. Mọi người cười nói:
Ở xa hai ba mươi dặm, gọi ngay thế nào
được. Sau này cũng có ngày gặp nhau.
Đến buồng Tần thị, Bảo Ngọc vừa mới bước
chân vào, đã thoảng có mùi thơm say sưa. Khi ấy mắt Bảo Ngọc dính lại, người nhủn
ra, nói ngay:
Mùi thơm thích nhỉ.
Trong buồng, trên tường treo bức họa
“Hải đường xuân thụy”52 của Đường Bá Hổ vẽ, hai bên có
đôi câu đối của học sĩ Tần Thái Hư đời Tống:
Lờ
mờ giấc mộng hơi xuân lạnh,
Ngào
ngạt mùi hương rượu khá nồng.
Trên án bày một cái gương quý của Võ Tắc
Thiên53 đời Đường. Một bên bày cái mâm
vàng mà Triệu Phi Yến54 đã đứng lên múa, trên mâm để quả
dưa mà An Lộc Sơn55 đã ném vào vú Dương Quý Phi. Đằng
trước kê một cái giường báu của công chúa Thọ Xương56 nằm ở điện Hàm Chương, mắc cái
màn liên châu của Công chúa Đồng Xương57 dệt ra.
Bảo Ngọc thấy vậy cười nói: Ở đây tốt!
Ở đây tốt!
Tần thị cười: Cái buồng của tôi dù thần
tiên cũng có thể ở được.
Nói xong, Tần thị tự tay mở cái khăn lụa
mà chính tay Tây Thi đã giặt, và đặt sẵn cái gối uyên ương của Hồng Nương đã ôm
khi xưa. Thấy Bảo Ngọc ngủ yên, bọn bà già rủ nhau đi ra ngoài, chỉ để Tập
Nhân, Thu Văn, Tình Văn, Xạ Nguyệt, bốn người ở lại túc trực. Tần thị gọi mấy a
hoàn nhỏ ra ngồi ngoài thềm, đừng cho mèo chó đến cắn nhau.
Bảo Ngọc vừa nhắm mắt đã bàng hoàng ngủ
say. Tưởng như Tần thị còn đứng trước mặt mình. Bảo Ngọc lững thững theo Tần thị
đi đến một chỗ lan can sơn đỏ, thềm xây bằng ngọc, cây xanh ngắt, suối trong
veo, không có một tí dấu vết bụi trần. Bảo Ngọc ở trong giấc mộng rất vui sướng,
nghĩ bụng: “Chỗ này thú lắm, ước gì ta được ở đây suốt đời, dù mất cả nhà cũng
vui lòng hơn là bị cha mẹ và thầy học kèm thúc!” Đương lúc nghĩ vơ vẩn, nghe thấy
sau núi có người hát:
Xuân Mộng Ca
Phiên âm
Xuân
mộng tuỳ vân tán,
Phi
hoa trục thuỷ lưu;
Ký
ngôn chúng nhi nữ:
Hà
tất mịch nhàn sầu.
Dịch nghĩa
Mộng
đẹp, mây tan mộng,
Hoa
bay, nước cuốn hoa.
Nhắn
bảo bạn nhi nữ,
Buồn
hão chuốc chi mà
Bảo Ngọc nghe rõ đó là tiếng hát của
người con gái. Tiếng hát chưa dứt đã thấy một mỹ nhân ở đằng xa đi lại, thướt
tha lững thững, không giống người trần tí nào. Có bài phú tả chân sau này:
Cảnh Ảo Tiên Cô Phú
Phiên âm
Phương
ly liễu ổ, xạ xuất hoa phòng.
Đán
hành xứ, điểu kinh đình thụ;
Tương
đáo thì, ảnh độ hồi lang.
Tiên
duệ xạ phiêu hề, văn xạ lan chi phức uất;
Hà
y dục động hề, thính hoàn bội chi khanh thương.
Yếp
tiếu xuân đào hề, vân kết đôi thuý;
Thần
trán anh khoả hề, lưu xỉ hàm hương.
Miện
tiêm yêu chi sở sở hề, phong hồi tuyết vũ;
Diệu
châu thuý chi đích đích hề, áp lục nga hoàng.
Xuất
một hoa gian hề, nghi sân nghi hỉ;
Bồi
hồi trì thượng hề, nhược phi nhược dương.
Nga
my dục tần hề, tương ngôn nhi vị ngữ;
Liên
bộ xạ di hề, dục chỉ nhi nhưng hành.
Tiện
mỹ nhân chi lương chất hề, băng thanh ngọc nhuận;
Mộ
mỹ nhân chi hoa phục hề, siểm thước văn chương.
Ái
mỹ nhân chi dung mạo hề, hương bồi ngọc triện;
Tỷ
mỹ nhân chi thái độ hề, phượng chứ long tường.
Kỳ
tố nhược hà: xuân mai trán tuyết;
Kỳ
khiết nhược hà: thu huệ phi sương.
Kỳ
tĩnh nhược hà: tùng sinh không cốc;
Kỳ
diễm nhược hà: hà ánh trừng đường.
Kỳ
văn nhược hà: long du khúc chiểu;
Kỳ
thần nhược hà: nguyệt xạ hàn giang.
Viễn
tàm Tây Tử, cận quý Vương Tường.
Sinh
vu thục địa? Giáng tự hà phương?
Nhược
phi yến bãi quy lai, dao trì bất nhị;
Định
ưng xuy tiêu dẫn khứ, tử phủ vô song giả dã.
Dịch nghĩa
Vừa
qua rừng liễu, đã tới buồng hoa,
Chỗ
đang đi, chim trên cành, tiếng kêu xào xạc,
Khi
sắp đến, bước quanh thềm, bóng lượn thướt tha.
Ve
vẩy tay tiên, xạ lan ngào ngạt,
Phất
phơ tà áo, hoàn bội gần xa.
Mặt
hoa đào, làn tóc mây xanh ngắt,
Môi
anh đào, răng hạt lựu hương pha.
Tuyết
múa, gió quay, lưng ong mềm mại,
Mặt
tươi, da bóng, châu thúy chói lòa.
Thấp
thoáng trong hoa, như mừng như giận.
Nhởn
nhơ mặt nước, khi bổng, khi là.
Mày
liễu cau cau, muốn nói mà còn e lệ,
Gót
sen chầm chậm, muốn dừng mà vẫn dạo qua.
Phẩm
chất đáng khen, giá trong ngọc sáng.
Áo
quần rất đẹp, lộng lẫy văn hoa,
Kể
dung mạo, hương lồng ngọc giát,
Ví
phong tư, rồng cuốn, phượng sa.
Trắng
như hoa mai tuyết phủ,
Sạch
như bông huệ sương pha.
Nhàn
tĩnh như cỗi thông mọc trong không cốc,
Diễm
lệ như mây ráng soi dưới trùng ba.
Văn
vẻ như rồng bơi trong đầm uốn khúc,
Quang
thái như trăng dọi trên sông Ngân Hà.
Tây
Thi đáng thẹn, Vương Tường kém xa.
Lạ
thay đến tự phương nào? Sinh ở đâu ta?
Thật
vậy, chốn Dao Trì khó bề sánh kịp, nơi tử phủ dễ kiếm đâu ra.
Hỏi
người nào đấy? Quả bậc tiên nga.
Bảo Ngọc trông thấy đây là một tiên
cô, mừng rỡ vội lại chào, cười nói:
Tiên cô ở đâu đến đây, bây giờ định đi
đâu? Tôi không biết chỗ này là chỗ nào, nhờ tiên cô dẫn tôi đi.
Tiên cô cười nói:
Ta là vị tiên ở Thái Hư Ảo Cảnh58, động Khiển Hương, núi Phóng Xuân59, thuộc trời Ly hận, bể Quán Sầu, phàm
những việc nợ trăng, tình gió, gái giận, trai si ở cõi trần đều thuộc ta cai quản.
Nhân gần đây có bọn phong lưu oan nghiệt tụ tập ở nơi này nên ta đến thăm dò cơ
hội gieo rắc mọi nỗi tương tư. Nay gặp anh cũng không phải là ngẫu nhiên. Chỗ
ta ở cũng gần, không có vật gì, chỉ có chén trà tiên, tự tay hái lấy, hũ rượu
ngon, tự tay nấu lấy, vài cô múa hát, tập rèn đã lâu, và mười hai khúc Hồng Lâu
Mộng mới phổ vào cung đàn. Anh có muốn theo ta đi chơi không?
Bảo Ngọc nghe xong, sung sướng nhảy
lên, quên bẵng Tần thị không biết ở đâu, liền theo ngay tiên cô đến một nơi. Chợt
trông thấy một tòa nhà phía trước, trên biển đề bốn chữ to: “Thái Hư Ảo Cảnh”,
hai bên có đôi câu đối:
Giả
bảo là chân, chân cũng giả,
Không
làm ra có, có rồi không.
5a
Bảo Ngọc gặp Tiên nữ ở Thái Hư Ảo Cảnh. |
Đi qua tòa nhà đến một cửa cung, trên
treo biển có bốn chữ lớn: “Nghiệt hải tình thiên”60 và đôi câu đối:
Đất
rộng, trời cao, khôn gỡ nổi mối tình kim cổ,
Trai
si, gái oán, khó đền xong món nợ gió trăng
Bảo Ngọc xem xong nghĩ bụng: “À ra thế
đấy. Nhưng thế nào là “tình kim cổ” và “nợ gió trăng”? Ta phải hiểu rõ câu này
mới được”. Bảo Ngọc vừa mới nghĩ thế, ngờ đâu con ma tình đã lấn sâu vào tận
cao hoang61. Cậu ta theo tiên cô vào đến cửa thứ
hai, thấy hai tòa bên cạnh đều có hoành phi câu đối, không tài nào xem hết được,
chỉ thấy mấy chỗ đề những chữ: “Si tình ti”, “Kết oán ti”, “Triệu đề ti”, “Dạ
oán ti”, “Xuân cảm ti”, “Thu bi ti”. Bảo Ngọc hỏi tiên cô:
Xin phiền tiên cô dẫn tôi vào xem
trong các ti có được không? Tiên cô nói:
Trong các ti chứa toàn sổ sách của tất
cả con gái trong thiên hạ từ trước và sau này, anh người trần mắt thịt không thể
biết được.
Bảo Ngọc khi nào chịu thôi, cứ khẩn
khoản nài xin mấy lần. Tiên cô mới bảo:
Thôi được, vào đây mà xem.
Bảo Ngọc thích lắm, vừa ngẩng đầu
nhìn, thấy một ti có biển đề ba chữ: “Bạc mệnh ti” hai bên có câu đối:
Xuân
hận, thu sầu mình chuốc lấy,
Mặt
hoa da phấn đẹp vì ai?
Bảo Ngọc xem xong, trong lòng than thở.
Đi vào trong cửa thấy mười mấy cái tủ lớn đều niêm phong cẩn thận, trên tờ niêm
phong đều có đề tên các tỉnh. Bảo Ngọc chỉ chăm chú nhìn xem có tờ niêm phong
nào đề tên tỉnh mình, chứ không để ý đến các tỉnh khác, chợt thấy có một cái tủ
đề: “Kim Lăng thập nhị thoa chính sách”. Bảo Ngọc hỏi:
Sao lại gọi là “Kim Lăng thập nhị thoa
chính sách”?
Tiên cô nói: Tức là quyển sổ ghi mười
hai người con gái đứng đầu trong tỉnh anh, cho nên gọi là chính sách.
Bảo Ngọc nói: Người ta thường nói Kim
Lăng rộng lắm, làm sao chỉ có mười hai người? Ngay trong nhà chúng tôi, trên dưới
cũng đã có hàng mấy trăm người rồi!
Tiên cô mỉm cười nói:
Con gái trong tỉnh anh rất nhiều,
nhưng đây chỉ biên những người nào cần biên thôi. Hai tủ để hai bên là hạng thứ
nhì. Những hạng tầm thường thì không cần biên vào.
Bảo Ngọc lại xem đến cái tủ đề: “Kim
Lăng thập nhị thoa phó sách”, rồi lại có một tủ nữa đề: “Kim Lăng thập nhị thoa
hựu phó sách”. Bảo Ngọc giơ tay mở tủ, rút một quyển trong “hựu phó sách” ra
xem. Vừa mở ra, thấy một bức vẽ, trên bìa không phải là nhân vật, cũng không phải
là sơn thủy, chẳng qua màu mực lờ mờ. Trên giấy đầy những mây đen mù đục mà
thôi. Sau có mấy hàng chữ:
Kim Lăng Thập Nhị Thoa
Phiên âm
Tễ
nguyệt nan phùng, thái vân dị tán.
Tâm
tỷ thiên cao, thân vi hạ tiện.
Phong
lưu linh xảo chiêu nhân oán.
Thọ
yêu đa nhân phỉ báng sinh,
Đa
tình công tử không khiên niệm.
Dịch nghĩa
Trăng
trong khó gặp, mây đẹp dễ tan,
Lòng
sao cao quý, phận lại đê hèn.
Tinh
khôn, đài các tổ người ghen,
Chịu
tiếng ong ve thành tổn thọ,
Đa
tình công tử luống than phiền (chỉ Tình Văn)
Bảo Ngọc xem xong, không hiểu, lại thấy
mặt sau vẽ một khóm hoa tươi, một cái giường trải chiếu rách, có đề mấy câu:
Uổng
tự ôn nhu hoà thuận,
Không
vân tự quế như lan;
Kham
tiện ưu linh hữu phúc,
Thuỳ
tri công tử vô duyên.
Dịch nghĩa
Nhũn
nhặn thuận hòa uổng cả,
Lan
thơm, quế ngát, thừa thôi.
Khen
cho ưu linh62 phúc tốt,
Ngờ
đâu công tử duyên ôi! (chỉ Tập Nhân)
Bảo Ngọc xem xong lại càng không hiểu,
cất quyển sổ ấy vào tủ và mở tủ đựng “phó sách”, lấy một quyển ra xem, thấy
trang đầu có vẽ một cành hoa quế, mé dưới có cái ao, nước cạn, bùn khô, cây sen
héo, ngó sen tàn. Mặt sau có đề thơ:
Căn
tịnh hà hoa nhất hành hương,
Bình
sinh tao tế thực kham thương;
Tự
tòng lưỡng địa sinh cô mộc,
Trí
sử hương hồn phản cố hương.
Dịch nghĩa
Sen
thơm liền gốc nở chùm hoa,
Gặp
gỡ đường đời thật xót xa.
Từ
lúc cây trong hai chỗ đất 63.
Hương
hồn trở lại chốn quê nhà. (chỉ Hương Lăng tức Anh Liên)
Bảo Ngọc xem xong cũng không hiểu. Lại
lấy một quyển ở trong tủ “chính sách” ra xem, thấy trang đầu vẽ hai cây khô,
trên cây treo một cái đai ngọc; dưới đất có một đống tuyết, trong tuyết có cái
trâm vàng. Có bốn câu thơ:
Khả
thán đình cơ đức,
Kham
liên vịnh nhứ tài!
Ngọc
đới lâm trung quải,
Kim
trâm tuyết lý mai.
Dịch nghĩa
Than
ôi có đức dừng thoi,
Thương
ôi cô gái có tài vịnh bông.
Ai
treo đai ngọc giữa rừng 64,
Trâm
vàng ai đã vùi trong tuyết dày? (chỉ Tiết Bảo Thoa và Lâm Đại Ngọc)
Bảo Ngọc vẫn không hiểu, muốn hỏi cho
ra, nhưng biết rằng tiên cô chẳng chịu tiết lộ cơ trời, muốn cất sổ đi, nhưng lại
tiếc, liền giở xem những trang sau, thì thấy vẽ một cái cung, trên cung treo một
quả phật thủ. Có đề bài thơ:
Nhị
thập niên lai biện thị phi,
Lựu
hoa khai xứ chiếu cung vi;
Tam
xuân tranh cập sơ xuân cảnh,
Hổ
thố tương phùng đại mộng quy.
Dịch nghĩa
Sau
tuổi hai mươi đã trải đời,
Kìa
hoa lựu nở cửa cung soi.
Ba
xuân nào được bằng xuân mới,
Thỏ
gặp hùm kia giấc mộng xuôi 65. (chỉ Nguyên Xuân)
Mặt sau lại vẽ hai người thả diều, một
vùng bể lớn, một cái thuyền lớn, trong thuyền có một cô gái bưng mặt khóc. Sau
bức họa có bốn câu:
Tài
tự tinh minh chí tự cao,
Sinh
vu mạt thế vận thiên tiêu;
Thanh
minh di tống giang biên vọng,
Thiên
lý đông phong nhất mộng dao.
Dịch nghĩa
Chí
cao tài giỏi có ai bì,
Gặp
lúc nhà suy, vận cũng suy,
Nhớ
tiếc thanh xuân ra bến khóc.
Gió
đông nghìn dặm mộng xa đi. (chỉ Giả Thám Xuân)
Mặt sau vẽ mấy đám mây bay, một dòng
nước chảy, có đề mấy câu:
Phú
quý hựu hà vi?
Cưỡng
bảo chi gian phụ mẫu vi;
Chuyển
nhãn điếu tà huy,
Tương
giang thuỷ thệ Sở vân phi.
Dịch nghĩa
Giàu
sang cũng thế thôi.
Từ
bé mẹ cha bỏ đi rồi.
Nhìn
bóng chiều ngậm ngùi,
Sông
Tương nước chảy mây Sở trôi. (chỉ Sử Tương Vân)
Mặt sau thấy vẽ một viên ngọc quý, vất
ở đống bùn. Có mấy câu thơ:
Dục
khiết hà tằng khiết,
Vân
không vị tất không;
Khả
liên kim ngọc chất,
Chung
hãm náo nê trung.
Dịch nghĩa
Muốn
sạch mà không sạch.
Rằng
không chửa hẳn không.
Thương
thay mình vàng ngọc,
Bùn
lầy sa vào trong. (chỉ Diệu Ngọc)
Mặt sau lại vẽ một con lang dữ, đuổi bắt
một mỹ nữ, định ăn thịt. Dưới có câu:
Tử
hệ Trung Sơn lang,
Đắc
chí tiện xương cuồng;
Kim
khuê hoa liễu chất,
Nhất
tái phó hoàng lương.
Dịch nghĩa
Rõ
ràng giống sói Trung Sơn,
Gặp
khi đắc ý ngông cuồng lắm thay.
Làm
cho hoa liễu thân này,
Hoàng
lương giấc mộng mới đầy một năm. (chỉ Nghênh Xuân)
Mặt sau lại vẽ một tòa miếu cổ, trong
có một mỹ nhân ngồi xem kinh, có mấy câu phán:
Khám
phá tam xuân cảnh bất trường,
Truy
y đốn cải tích niên trang;
Khả
liên tú hộ hầu môn nữ,
Độc
ngoạ thanh đăng cổ phật bàng.
Dịch nghĩa
Biết
rõ ba xuân cảnh chóng già,
Thời
trang đổi lấy áo cà sa.
Thương
thay con gái nhà khuê các,
Một
ngọn đèn xanh cạnh phật bà. (chỉ Tích Xuân)
Mặt sau vẽ một núi băng, trên có một
con phượng mái. Có mấy câu phán:
Phàm
điểu thiên tòng mạt thế lai,
Đô
tri ái mộ thử sinh tài;
Nhất
tòng nhị lệnh tam nhân mộc,
Khốc
hướng Kim Lăng sự cánh ai.
Dịch nghĩa
Chim
phượng kìa sao đến lỗi thời,
Người
đều yêu mến bực cao tài,
Một
theo hai lệnh, ba thôi cả 66,
Nhìn
lại Kim Lăng luống ngậm ngùi. (chỉ Vương Hy Phượng)
Mặt sau vẽ một cái nhà trong vùng thôn
quê vắng vẻ, có một mỹ nhân dệt cửi. Có mấy câu phán:
Thế
bại hưu vân quý,
Gia
vong mạc luận thân;
Ngẫu
nhân tế thôn phụ,
Xảo
đắc ngộ ân nhân.
Dịch nghĩa
Vận
suy đừng kể rằng sang,
Nhà
suy chớ kể họ hàng gần xa.
Tình
cờ cứu giúp người ta,
Khéo
sao Lưu thị lại là ân nhân.
Sau bài thơ vẽ một chậu lan, bên cạnh
có một mỹ nhân đội mũ phượng, đeo cái khoác vai màu ráng trời, và có mấy câu
phán:
Đào
lý xuân phong kết tử hoàn,
Đáo
đầu thuỳ tự nhất bồn lan?
Như
băng thuỷ hảo không tương đố,
Uổng
dữ tha nhân tác tiếu đàm.
Dịch nghĩa
Gặp
xuân đào lý quả muôn vàn,
Rốt
cuộc sao bằng một chậu lan.
Nước
sạch, băng trong ghen ghét hão,
Tiếng
tăm còn để lại nhân gian.
Lại có một tòa lầu cao, trên có một mỹ
nhân treo cổ tự tử. Có mấy câu phán:
Tình
thiên tình hải ảo tình thân,
Tình
ký tương phùng tất chủ dâm;
Mạn
ngôn bất tiêu giai vinh xuất,
Tạo
hấn khai đoan thực tại "ninh".
Dịch nghĩa
Trời
tình, bể tình là mộng ảo,
Mà
tội dâm kia cũng bởi tình.
Đầu
têu nào phải “Vinh” hư hỏng,
Mở
lối khơi nguồn, thực tại “Ninh”. (chỉ Tần Khả Khanh)
Bảo Ngọc còn muốn xem nữa. Tiên cô biết
Bảo Ngọc tư chất thông minh, tính tình mẫn tuệ, sợ lộ thiên cơ, bèn gấp sổ lại,
cười bảo:
Hãy đi theo ta vào xem phong cảnh, sao
lại ở đây đoán vơ vẩn làm gì?
Bảo Ngọc mơ màng, bất giác buông quyển
sổ ra, theo tiên cô đi về đằng sau. Thấy cột vẽ, xà chạm, rèm châu, màn thêu
hoa tiên, cỏ lạ, hoa thơm ngào ngạt, thực là cảnh tuyệt đẹp, đúng như câu:
Cửa
sổ sáng lay, vàng giải đất,
Sóng
quỳnh tuyết chiếu, ngọc làm nhà.
Bảo Ngọc đương mải miết xem, chợt tiên
cô gọi:
Chị em đâu, đi ra đón quý khách!
Tiếng gọi chưa dứt, đã thấy mấy cô
tiên ở trong buồng, tà sen phất phới, áo lông thướt tha, tươi như hoa xuân, đẹp
như trăng thu, chạy ra. Trông thấy Bảo Ngọc, các nàng tiên đều trách Cảnh Ảo
tiên cô:
Chúng em không biết là “quý khách”
nào, vội vàng ra đón. Chị đã bảo ngày này, giờ này sẽ có linh hồn em Giáng Châu
đến ngoạn cảnh, chúng em chờ mãi, sao bây giờ lại dẫn cái của ô trọc đến đây
làm bẩn cả nơi nữ nhi thanh tịnh này?
Bảo Ngọc nghe nói, giật mình, cảm thấy
mình dơ bẩn đáng thẹn, muốn lùi ra. Tiên cô vội nắm lại và quay về các nàng
tiên nói:
Các em không biết đầu đuôi việc này.
Nguyên hôm nay ta định đến phủ Vinh đón Giáng Châu. Khi đi qua phủ Ninh, gặp
linh hồn hai ông Ninh công, Vinh công nói với ta rằng: “Nhà chúng tôi từ đầu quốc
triều, đời đời công danh phú quý đã trăm năm nay. Bây giờ số vận đã hết, không
thể kéo lại được nữa. Con cháu chúng tôi tuy nhiều, nhưng chẳng có đứa nào nối
nghiệp. Chỉ có cháu đích tôn là Bảo Ngọc, có chút thông minh đĩnh ngộ, may ra
có thể thành đạt được, nhưng vì tính nó ngang trái kỳ quặc, sợ không ai dìu dắt
vào đường chính. May gặp tiên cô đến đây, xin nhờ lấy những việc tình dục thanh
sắc răn bảo bệnh si ngoan của nó, họa chăng nó có thể thoát vòng mê muội, đi
vào đường chính, thì rất may cho anh em chúng tôi”. Vì hai ông ký thác như thế
nên ta có lòng từ bi dắt nó đến đây. Trước hết cho nó xem thật kỹ những quyển sổ
ghi số mệnh chung thân của ba hạng con gái nhà nó, nhưng nó vẫn chưa tỉnh ngộ,
nên ta lại dẫn đến đây để trải hết những cái Ảo Cảnh ăn ngon, hát hay, sắc đẹp,
họa may nó có tỉnh ngộ chăng.
Nói đoạn, tiên cô dắt Bảo Ngọc vào
trong nhà. Một mùi thơm mê hồn không biết là thứ gì. Bảo Ngọc không nhịn được,
phải hỏi. Tiên cô cười nhạt:
Mùi hương này dưới trần không có, anh
làm sao biết được. Đây là tinh hoa của cỏ lạ mới mọc ở những nơi danh sơn thắng
cảnh, lại hợp chế với dầu các cây quý gọi là “Quần hương tủy”67.
Bảo Ngọc nghe rất ham thích. Bấy giờ mọi
người vào chỗ ngồi, tiểu hoàn dâng trà, Bảo Ngọc thấy hương thanh vị thơm,
không phải là trà thường, liền hỏi trà gì, tiên cô nói:
Trà này lấy ở động Khiển Hương núi
Phóng Xuân, pha bằng nước móc đọng ở trên hoa lá cõi tiên, gọi là “Thiên hồng
nhất quật”68.
Nghe xong, Bảo Ngọc gật đầu khen. Nhìn
vào trong buồng thì thấy đàn ngọc, đỉnh báu, tranh cổ, thơ mới, không thiếu thứ
gì. Dưới cửa sổ lại có mấy bản đàn, có hộp nữ trang hoen phấn. Trên vách có
treo câu đối:
Đất
u vi linh tú.
Trời
“vô khả nài hạ”69.
Bảo Ngọc xem xong lại hỏi tên các nàng
tiên, thì một là Si Mộng tiên cô, một là Chung Tình đại sĩ, một là Dẫn Sầu kim
nữ, một là Độ Hận bồ đề, mỗi người một đạo hiệu, không ai giống ai. Một chốc tiểu
hoàn đến dọn bàn đặt ghế bày tiệc. Chính là:
Chén
hổ phách, cốc pha lê,
Bên
này rượu ngọc, bên kia rượu quỳnh.
Bảo Ngọc thấy rượu thơm ngọt khác thường,
lại hỏi. Tiên cô nói:
Rượu này cất bằng nhụy trăm thứ hoa,
nước muôn thứ cây thêm vào tủy con lân, sữa con phượng, vì thế gọi là rượu “Vạn
diễm đồng bôi”70.
Bảo Ngọc tấm tắc khen mãi. Khi uống rượu,
có mười hai vũ nữ lên hỏi diễn khúc gì.
Tiên cô nói:
Diễn mười hai khúc Hồng Lâu Mộng mới đặt
ra.
Vũ nữ vâng lời, liền lần gẩy phím đàn,
nhẹ gõ nhịp phách. Vừa mới hát câu “Mịt mùng khi mới mở toang”, tiên cô bảo Bảo
Ngọc:
Khúc này không phải như khúc dưới trần
thường hát, phải có vai học trò, vai nữ, vai hề, vai lão, lại có chín cung giọng
nam và giọng bắc. Ở đây thì hoặc đề vịnh một người, hoặc cảm hoài một việc, ngẫu
nhiên thành một khúc, phổ vào âm nhạc ngay. Nếu không phải là người trong cuộc
thì không hiểu được cái hay của nó. Khúc hát này chắc anh chưa hiểu rõ lắm. Nếu
không xem vở trước, thì khi nghe cũng là vô vị thôi.
Nói xong, lại bảo tiểu hoàn đưa vở “Hồng
Lâu Mộng” cho Bảo Ngọc. Bảo Ngọc cầm lấy, mắt xem vở, tai nghe hát, có những
bài sau này:
Hồng Lâu Mộng
1. GIÁO ĐẦU HỒNG LÂU MỘNG
Khai
tịch hồng mông, thùy vi tình chủng?
Đô
chỉ vị phong nguyệt tình nùng
Nại
hà thiên, thương hoài nhật,
Tịch
liêu thì, thí khiển ngu trung
Nhân
thử thượng, diễn xuất giá bi kim
điệu
ngọc "Hồng lâu" mộng.
1. HỒNG LÂU MỘNG DẪN TỪ
Mịt
mùng khi mới mở toang,
Giống
tình ai đã chịu mang vào mình.
Chỉ
vì tình lại gặp tình,
Gió
trăng nồng đượm không đành xa nhau.
Khi
vắng vẻ, lúc buồn rầu,
Thua
trời nên dãi nỗi sầu thơ ngây.
Mộng
hồng lâu diễn khúc này.
Thương
vàng tiếc ngọc tỏ bày nỗi riêng.
2. CHUNG THÂN NGỘ
Đô
đạo thị kim ngọc lương nhân
Yêm
chỉ niệm mộc thạch tiền minh
Không
đối trước: sơn trung cao sĩ tinh oánh tuyết
Chung
bất vong: thế ngoại tiên xu tịch mịch lâm
Thán
nhân gian, mỹ trung bất túc kim phương tin
Túng
nhiên thị tề mi cử án, đáo để ư nan bình.
2. LỠ NHAU SUỐT ĐỜI
Ai
rằng vàng ngọc duyên ưa,
Ta
quên cây, đá, thề xưa được nào.
Trơ
trơ người tuyết trên cao,
Ngoài
đời, đường vắng khuây sao được nàng.
Cuộc
đời ngán nỗi tang thương,
Đẹp
không toàn đẹp, lời càng đúng thay.
Dù
cho án đặt ngang mày,
Cuối
cùng vẫn thấy lòng này băn khoăn.
3. UỔNG NGƯNG MI
Nhất
cá thị lãng uyển tiên ba,
Nhất
cá thị mỹ ngọc vô hà.
Nhược
thuyết một kỳ duyên,
Kim
sinh thiên hựu ngộ trước tha;
Nhược
thuyết hữu kỳ duyên,
Như
hà tâm sự chung hư thoại?
Nhất
cá uổng tự ta nha,
Nhất
cá không lao khiên quải.
Nhất
cá thị thuỷ trung nguyệt,
Nhất
cá thị cảnh trung hoa.
Tưởng
nhãn trung năng hữu đa thiểu lệ châu nhi,
Chẩm
cấm đắc thu lưu đáo đông, xuân lưu đáo hạ!
3. HOÀI CÔNG BIẾT NHAU
Một
bên hoa nở vườn tiên,
Một
bên ngọc đẹp không hoen ố màu.
Bảo
rằng chả có duyên đâu,
Thì
sao lại được gặp nhau kiếp này?
Bảo
rằng sẵn có duyên may,
Thì
sao lại đổi thay lời nguyền?
Một
bên ngầm ngấm than phiền,
Một
bên đeo đẳng hão huyền uổng công.
Một
bên trăng dọi trên sông,
Một
bên hoa nở bóng lồng trong gương,
Mắt
này có mấy giọt sương,
Mà
dòng chảy suốt năm trường, được chăng?
Bảo Ngọc nghe xong, thấy liên miên, viễn
vông, chưa có gì hay, nhưng âm điệu réo rắt làm cho hồn phách say mê. Vì vậy chẳng
hỏi đầu đuôi, chẳng cần lai lịch, chỉ nghe để giải buồn thôi. Lại có những
khúc hát tiếp:
4. HẬN VÔ THƯỜNG
Hỉ
vinh hoa chính hảo, hận vô thường hựu đáo.
Nhãn
tĩnh tĩnh, bả vạn sự toàn phao.
Đãng
du du, phương hồn tiêu mao,
Vọng
gia hương, lộ viễn sơn cao.
Cố
hướng đa nương mộng lý tương tầm cáo:
Nhi
mệnh dĩ nhập hoàng tuyền,
Thiên
luân a, tu yếu thoái bộ trừu thân tảo!
4. BỰC TỨC CUỘC ĐỔI THAY
Đương
vui chợt đã buồn ngay,
Trố
nhìn mọi việc thôi rày bỏ qua.
Hồn
thơm dằng dặc bay xa,
Non
cao trời rộng đây là quê hương.
Tìm
nơi báo mộng gia nương,
Suối
vàng con đã lỡ đường thần hôn.
Mau
mau lùi bước là hơn.
5. PHÂN CỐT NHỤC
Nhất
phàm phong vũ lộ tam thiên,
Bả
cốt nhục gia viên, tề lai phao thiểm.
Khủng
khốc tổn tàn niên.
Cáo
đa nương, hưu bả nhi huyền niệm;
Tự
cổ cùng thông giai hữu định,
Ly
hợp khởi vô duyên?
Tòng
kim phân lưỡng địa,
Các
tự bảo bình an.
Nô
khứ dã, mạc khiên liên.
5. CỐT NHỤC PHÂN LY
Đường
xa mưa gió một chèo,
Cửa
nhà, ruột thịt thôi đều bỏ qua.
Con
đành lỗi với mẹ cha,
Khóc
thương chỉ thiệt thân già đấy thôi.
Cùng
thông số đã định rồi,
Hợp
tan âu cũng duyên trời chi đây,
Phân
chia hai ngả từ nay,
Dám
mong giữ được ngày ngày bình yên,
Con
đi xin chớ lo phiền.
6. LẠC TRUNG BI
Cưỡng
bảo trung, phụ mẫu thán song vong.
Tung
cư na ỷ la tùng, thuỳ tri kiều dưỡng?
Hạnh
sinh lai, anh hào khoát đại khoan hoành lượng,
Tòng
vị tướng nhi nữ tư tình, lược oanh tâm thượng.
Hảo
nhất tự, tễ nguyệt quang phong.
Diệu
ngọc đường.
Tư
phối đắc tài mạo tiên lang,
Bác
đắc cá địa cửu thiên trường.
Chuẩn
chiết đắc ấu niên thời khảm khả hình trạng.
Chung
cửu thị vân tán cao đường, thuỷ hạc Tương giang:
Giá
thị trần hoàn trung tiêu trường sổ ưng đương,
Hà
tất uổng bi thương?
6. BUỒN TRONG CẢNH VUI
Mồ
côi từ lúc lọt lòng,
Dù
nơi khuê các, chớ hòng ai thương,
Anh
hào được tính hiên ngang
Tình
riêng nhi nữ chưa vương vít lòng.
Thân
này trăng sáng gió trong,
Chàng
tiên mong được sánh cùng lứa đôi.
Những
mong trời đất lâu dài.
Bõ
khi trẻ dại gặp thời gian nan.
Ngờ
đâu nước cạn mây tan,
Tương
giang71 lạnh ngắt, Cao đường vắng tanh.
Trần
hoàn may rủi đã đành,
Việc
gì khóc quẩn lo quanh bận lòng.
7. THẾ NAN DUNG
Khí
chất mỹ như lan,
Tài
hoa phức tỷ tiên,
Thiên
sinh thành cô tích nhân giai hãn.
Nhĩ
đạo thị đạm nhục thực tinh thiên,
Thị
ỷ la tục yếm;
Khước
bất tri hảo cao nhân dũ đố,
Quá
khiết thế đồng hiềm.
Khả
thán giá, thanh đăng cổ điện nhân tướng lão,
Cô
phụ liễu, hồng phấn chu lâu xuân sắc lan!
Đáo
đầu lai, y cựu thị phong trần khảng tảng vi tâm nguyện;
Hảo
nhất tự, vô hà bạch ngọc tao nê hãm;
Hựu
hà tu, vương tôn công tử thán vô duyên?
7. ĐỜI KHÔNG ƯA
Lan
ví chất, tiên ví tài,
Chỉ
hiềm cô tịch, tình trời bẩm sinh.
Cho
là ăn thịt72 hôi tanh,
Lụa
the, là lượt, coi khinh không thèm.
Biết
đâu cao quá. đời ghen,
Biết
đâu sạch quá, đời khen da mà.
Đàn
xanh, đền cổ, người già,
Uổng
công trang điểm, xuân đà kém xuân.
Ngán
cho cái kiếp phong trần,
Sau
này cũng lại xấu dần mãi đi.
Ngọc
kia bùn trát
8. HỈ OAN GIA
Trung
Sơn lang,
Vô
tình thú.
Toàn
bất niệm đương nhật căn do.
Nhất
vị đích, kiều xa dâm đãng tham hoan cấu.
Thứ
trước na, hầu môn diễm chất đồng bồ liễu;
Tác
tiện đích, công phủ thiên kim tự hạ lưu.
Thán
phương hồn diễm phách,
Nhất
tái đãng du du.
8. GẶP OAN GIA KHÔNG ĐÁNG MỪNG LẠI MỪNG
Người
đâu hung ác lạ lùng,
Khác
nào giống sói ở vùng Trung Sơn.
Bấy
lâu tình ái quên tràn,
Kiêu
dâm chỉ việc mê man tháng ngày,
Cửa
hầu bồ liễu thơ ngây,
Thân
ngàn vàng nỡ đọa đày cho đang,
Một
năm duyên đã bẽ bàng,
Hồn
thơm phách đẹp, suối vàng xa chơi.
9. HƯ HOA NGỘ
Tương
na tam xuân khán phá,
Đào
hồng liễu lục đãi như hà?
Bả
giá thiều hoa đả diệt,
Mịch
na thanh đạm thiên hoà.
Thuyết
thập ma thiên thượng yêu đào thịnh, vân trung hạnh nhị đa?
Đáo
đầu lai,
Thuỳ
kiến bả thu nhai quá?
Tắc
khán na,
Bạch
dương thôn lý nhân ô ế,
Thanh
phong lâm hạ quỷ ngâm nga.
Canh
kiêm trước,
Liên
thiên suy thảo già phần mộ,
Giá
đích thị,
Tạc
bần kim phú nhân lao lựu,
Xuân
vinh thu tạ hoa chiết ma.
Tự
giá bàn,
Sinh
quan tử kiếp thuỳ năng đoá?
Văn
thuyết đạo,
Tây
phương bảo thụ hoán bà sa,
Thượng
kết trước trường sinh quả.
9. BIẾT TUỔI HOA LÀ KHÔNG THẬT
Cảnh
xuân nhìn đã rõ rồi,
Liễu
xanh, đào thắm hãy ngồi xem sao.
Thiều
hoa đuổi sạch đi nào,
Tìm
nơi nhã đạm thanh cao khác đời.
Kể
chi đào nở trên trời,
Kể
chi nhị hạnh lựng mùi trong mây.
Rốt
cùng nào có ai hay,
Tiết
thu đâu đã kéo ngay đến rồi.
Xóm
dương than khóc tiếng người,
Rừng
phong vẳng tiếng ma ngồi ngâm nga.
Lại
còn cảnh khác bày ra,
Ngút
trời cỏ héo che qua nấm mồ.
Đó
là biến đổi lắm trò,
Trước
nghèo, sau có, chăm lo suốt đời.
Dày
vò hoa cũng thế thôi,
Xuân
mời hoa đến, thu mời hoa đi.
Tử
sinh lẽ ấy đem suy,
Dù
ai muốn trốn, trốn chi được mà.
Phương
tây có cõi Bà Sa,
Nghe
đồn có quả tên là Trường Sinh.
10. THÔNG MINH LỤY
Cơ
quan toán tận thái thông minh,
Phản
toán liễu khanh khanh tính mệnh!
Sinh
tiền tâm dĩ toái,
Tử
hậu tính không linh.
Gia
phú nhân ninh;
Chung
hữu cá, gia vong nhân tản các bôn đằng.
Uổng
phí liễu ý huyền huyền bán thế tâm,
Hảo
nhất tự, đãng du du tam canh mộng.
Hốt
lạt lạt tự đại hạ khuynh,
Hôn
thảm thảm tự đăng tương tận.
Nha!
Nhất trường hoan hỉ hốt bi tân.
Thán
nhân thế, chung nan định!
10. MẮC LỤY THÔNG MINH
Việc
đời tính rất thông minh,
Còn
mình, mình tính phận mình vẫn sai,
Sống
lần ruột đã nát rồi,
Chết
mang tiếng hão là người tinh ranh,
Trước
kia giàu có khang ninh,
Đến
sau cơ nghiệp tan tành khắp nơi.
Uổng
công áy náy nửa đời,
Khác
gì một giấc mộng dài thâu canh.
Ầm
ầm như sắp đổ đình,
Chập
chờn như ngọn đèn xanh cạn dầu,
Vừa
vui vẻ đã âu sầu,
Đời
người biến đổi biết đâu mà lường.
11. LƯU DƯ KHÁNH
Lưu
dư khánh, lưu dư khánh, hốt ngộ tức nhân;
Hạnh
nương thân, hạnh nương thân, tích đắc âm công.
Khuyến
nhân sinh, tế khốn phù cùng.
Hưu
tự yêm na ái ngân tiền,
Vong
cốt nhục đích ngoan cữu gian huynh!
Chính
thị thừa trừ gia giảm,
Thượng
hữu thương khung.
11. PHÚC THỪA SÓT LẠI
May
sao gặp được ân nhân,
Là
nhờ dư phúc nương thân đó mà.
Âm
công vun lấy phúc nhà.
Hết
lòng cứu giúp người ta khi nghèo.
Anh
gian, cậu ác chớ theo,
Nhãng
tình máu mủ, chỉ yêu bạc tiền.
Có
trời báo ứng ở trên.
12. VÃN THIỀU HOA
Cảnh
lý ân tình,
Canh
na kham mộng lý công danh!
Na
mỹ thiều hoa khứ chi hà tấn!
Tái
hưu đề tú trướng uyên khâm.
Chỉ
giá đới châu quan,
Phi
phụng áo, dã để bất liễu vô thường tính mệnh.
Tuy
thuyết thị, nhân sinh mạc thụ lão lai bần,
Dã
tu yêu âm chất tích nhi tôn.
Khí
ngang ngang, đầu đới trâm anh,
Quang
xán xán, hung huyền kim ấn,
Uy
hách hách, tước lộc cao đăng,
Hôn
thảm thảm, hoàng tuyền lộ cận!
Vấn
cổ lai tướng tương khả hoàn tồn?
Dã
chỉ thị hư danh nhi hậu nhân khâm kính.
12. CẢNH XUÂN VỀ CUỐI
Còn
gì ân ái trong gương,
Còn
gì giấc mộng trên đường công danh.
Cảnh
thiều hoa đi sao nhanh,
Chăn
uyên màn gấm thôi đành bỏ qua.
Mũ
châu, áo phượng thướt tha,
Chống
làm sao nổi vận nhà bấp bênh.
Già,
nghèo khó chịu đã đành,
Cũng
nên tích đức để dành về sau.
Ngông
nghênh trâm ngọc trên đầu,
Ấn
vàng trước ngực muôn màu sáng trưng.
Uy
quyền lộc vị lẫy lừng,
Suối
vàng buồn thảm
13. HẢO SỰ CHUNG
Hoạ
lương xuân tận lạc hương trần.
Thiện
phong tình, bỉnh nguyệt mạo,
Tiện
thị bại gia đích căn bản.
Cơ
cừu đồi đoạ giai dĩ kính,
Gia
sự tiêu vong thủ tội ninh.
Túc
nghiệt tổng nhân tình!
13. VIỆC HAY ĐẾN LÚC HẾT
Xuân
đi hương vẫn còn rơi,
Nguyệt
hoa gây vạ suy đồi vì ai?
Nhà
suy bởi tại Kính rồi,
Nhà
tan trước hết tội thời tại Ninh.
Gây
nên oan trái vì tình.
14. PHI ĐIỂU CÁC ĐẦU LÂM
Vi
quan đích, gia nghiệp điêu linh;
Phú
quý đích, kim ngân tán tận;
Hữu
ân đích, tử lý đào sinh;
Vô
tình đích, phân minh báo ứng;
Khiếm
mệnh đích, mệnh dĩ hoàn;
Khiếm
lệ đích, lệ dĩ tận:
Oan
oan tương báo tự phi khinh,
Phân
ly tụ hiệp giai tiền định.
Dục
tri mệnh đoản vấn tiền sinh,
Lão
lai phú quý dã chân nghiêu hạnh.
Khán
phá đích, độn nhập không môn;
Si
mê đích, uổng tống liễu tính mệnh.
Hảo
nhất tự thực tận điểu đầu lâm,
Lạc
liễu phiến bạch mang mang đại địa chân càn tịnh!
14. CHIM MỎI BAY VỀ RỪNG
Quan
thì cơ nghiệp suy tàn,
Giàu
thì vàng bạc cũng tan hết rồi.
Có
ơn chết để trốn đời,
Rành
rành báo ứng những ai phụ lòng.
Mạng
đền mạng, đã trả xong,
Lệ
đền lệ, đã ròng ròng tuôn rơi.
Oan
oan đừng lấy làm chơi.
Hợp
tan đã trốn được trời hay chưa?
Gian
nan là bởi kiếp xưa,
Giá
mà phú quý là nhờ vận may,
Khôn
thì vào cửa “Không” này,
Dại
thì tính mệnh có ngày mất toi.
Như
chim khi đã hết mồi,
Bay
về rừng thẳm đậu nơi yên lành.
Hát xong, tiên nữ lại hát những bài phụ,
Thấy Bảo Ngọc không lấy làm thích lắm, tiên cô thở dài: Anh ngốc này vẫn
chưa tỉnh ngộ.
Bảo Ngọc thấy mình bàng hoàng hoảng hốt,
vội bảo ca nữ đừng hát nữa, và kêu say, xin đi nằm. Tiên cô truyền bảo dọn bàn
tiệc đi, đưa Bảo Ngọc vào một buồng thêu thơm tho. Trong đó trang hoàng nhiều đồ
xưa nay chưa từng thấy. Lại có một nàng tiên ngồi đấy, tươi đẹp nhu mì giống hệt
Bảo Thoa, dịu dàng phong lưu lại như Đại Ngọc. Bảo Ngọc chưa biết thế nào, chợt
nghe tiên cô nói:
Dưới trần bao nhiêu nhà phú quý, những
nơi gió trăng trước cửa sổ, khói mây trong buồng thêu, đều bị bọn trai hư gái hỏng
làm nhơ bẩn. Đáng giận hơn nữa là xưa nay những bọn con nhà khinh bạc hay biện
bạch rằng “hiếu sắc mà không dâm”, lại bảo “tình mà không dâm”, đó chỉ là những
lời để che lấp thói xấu mà thôi. Biết đâu “hiếu sắc tức là dâm”, “biết tình lại
càng dâm”. Vì thế, cuộc gặp gỡ ở Vu Sơn, chuyện vui thú về mây mưa, đều do chuộng
sắc ham tình mà gây nên. Ta ưa anh, vì anh là một người dâm nhất thiên hạ xưa
nay.
Bảo Ngọc nghe xong, sợ hãi, vội vàng
nói:
Tiên cô lầm rồi. Tôi vì lười học, cha
mẹ thường mắng luôn, đâu còn dám phạm đến chữ “dâm”. Vả tôi còn bé, chẳng biết
“dâm” là thế nào?
Tiên cô nói:
Không phải thế đâu. Dâm dù một lẽ,
nhưng ý thì khác nhau. Những kẻ hiếu dâm trên đời chẳng qua là ưa sắc đẹp,
thích múa hát, đùa bỡn không chán, “mây mưa” bừa bãi không chừng, chỉ sợ thiên
hạ không đủ mỹ nữ để cung thú vui chốc lát cho mình, đó là những hạng ngu xuẩn,
chỉ biết thú vui bề ngoài thôi. Như anh, khi mới sinh ra đã mang một mối si
tình, chúng ta gọi thế là “ý dâm”. Hai chữ “ý dâm” chỉ có thể hiểu ngầm trong
lòng, chứ không thể nói ra miệng được. Riêng anh thì xứng với hai chữ này. Ở
trong khuê các, anh có thể là bạn tốt đấy, nhưng khi ra đời thì vẫn mang tiếng
là người vớ vẩn, quái gở sẽ bị trăm miệng cười giễu, muôn mắt lườm nguýt. Nay
ta đã gặp hai cụ Ninh công, Vinh công nhà anh tha thiết ký thác, ta không nỡ để
cho anh là người làm vẻ vang cho bọn khuê các mà lại bị đời ruồng bỏ. Vì thế,
ta dắt anh đến đây, cho uống rượu ngon, thưởng trà tiên, nghe hát hay, lại gả
cho anh một cô gái tên là Kiêm Mỹ, tên chữ là Khả Khanh. Đêm nay được giờ tốt,
nên thành thân ngay. Chẳng qua để cho anh nhận biết Ảo Cảnh cõi tiên còn thế,
huống chi là dưới trần. Từ giờ trở đi, chú ý vào đạo Khổng, Mạnh, dấn mình vào
con đường giúp đời, giúp nước mới được.
Cảnh 'mây mưa' trên Ảo Cảnh cõi tiên. |
Nói xong tiên cô tham dạy cách “mây mưa”, rồi đẩy Bảo Ngọc vào buồng, khép cửa lại.
Bảo Ngọc mơ mơ màng màng, theo lời
tiên cô dạy, làm những việc như vợ chồng ân ái với nhau. Đến hôm sau thì ân
tình đằm thắm, trò chuyện nỉ non, cùng Khả Khanh bịn rịn không rời nhau một bước.
Nhân lúc hai người dắt tay đi chơi, đến một chỗ gai góc đầy đường, hùm sói
hàng đàn, trước mặt lại có một cái suối nước đen, không có cầu sang. Đương lúc
dùng dằng, chợt thấy Cảnh Ảo tiên cô từ phía sau gọi:
Đừng đi nữa, quay về ngay. Bảo Ngọc vội
đứng lại hỏi:
Đây là chỗ nào? Tiên cô nói:
Đây là bến Mê, sâu hàng vạn trượng, rộng
hàng muôn dặm, không có thuyền đi qua, chỉ có một cái mảng gỗ, Mộc Cư Sĩ bẻ
lái, Hôi Thị Giả đẩy sào, chở không lấy tiền, ai có đạo duyên mới sang được.
Nay anh ngẫu nhiên đến đây, nếu không may ngã xuống đó thì thực phụ những lời dặn
bảo ân cần của ta!
Nói chưa dứt lời thì nghe thấy ở trong
bến Mê có tiếng ầm ầm như sấm, có nhiều quỷ dạ xoa dưới bể nhô lên định lôi Bảo
Ngọc, làm Bảo Ngọc sợ hãi, mồ hôi toát ra như mưa, kêu thất thanh: “Khả Khanh,
cứu tôi với!” Bọn Tập Nhân và a hoàn vội vàng chạy đến ôm Bảo Ngọc và nói:
Cậu Bảo đừng sợ, chúng tôi ở đây cả.
Tần thị đương ở ngoài buồng dặn dò đám
a hoàn nhỏ coi giữ đừng cho mèo chó cắn nhau; chợt nghe Bảo Ngọc nằm mê gọi tên
tục mình, trong bụng đâm buồn bực: “Ở đây chẳng ai biết tên mình cả, sao trong
chiêm bao, Bảo Ngọc lại biết mà gọi ra”. Thực là:
Một
hồi mộng kín chờ ai đấy?
Nghìn
thuở tình ngây một tớ thôi.
Chú
thích.
[←50]
Hồi
này có hai điểm nên chú ý:
a)Tổng
quát tất cả những nhân vật và những sự việc quan hệ mật thiết tới Bảo Ngọc và
gia đình họ Giả. Kim Lăng thập nhị thoa chính sách, phó sách, hựu phó sách và
mười hai bài ca Hồng Lâu Mộng, có thể gọi là những câu sấm hoặc là lá số tiền định.
Theo những việc ở các hồi sau chúng ta có thể đoán: thí dụ bài một: Tình Văn bị
đuổi về nhà rồi chết; bài hai: Tập Nhân về sau lấy Tưởng Ngọc Hàm là một chàng
hát tuồng; bài ba: Hương Lăng tức Anh Liên con Chân Sĩ Ẩn lấy Tiết Bàn đẻ con rồi
chết; bài tư: Bảo Ngọc yêu Đại Ngọc, Bảo Thoa lại lấy Bảo Ngọc, rồi Bảo Ngọc bỏ
Bảo Thoa đi tu; bài năm: Nguyên Xuân lấy vua, không được lâu rồi chết. Còn những
bài khác hoặc nói về Đại Ngọc chết non hoặc nói về Diệu Ngọc bị kẻ cướp bắt đi,
hoặc nói về Nghênh Xuân lấy phải chồng bất lương, hoặc nói về Tích Xuân chán đời
đi tu… Đọc các hồi sau sẽ đoán ra được, kể ra cũng hoang đường thật. Tác giả cố
ý bài trí dàn ra một cảnh mộng để xây dựng nội dung cuốn truyện đó mà thôi.
b)
Nói nhiều về tình như Triệu đề, Mộ khốc, Xuân cảm, Thu bi… Lại nói đến cả chữ
“dâm”, có thể ngờ là “dâm thư”, nhưng suy nghĩ hai chữ “Cảnh Ảo” (cảnh là cảnh
tỉnh, ảo là mộng ảo) tác giả có ngụ ý khuyên răn, không nên lấy từ hại ý mà chê
là tục.
[←51]
Bức
tranh vẽ người đốt gậy cỏ lê. Lưu Hướng đời Tây Hán đến đọc sách ở gác Thạch Cừ,
có một vị tiên chống gậy cỏ lê đến đốt đầu gậy làm đèn cho Lưu Hướng đọc. Về
sau dùng điển này chỉ người chăm học, đọc sách cả đêm.
[←52]
Hải
đường ngủ đêm xuân.
[←53]
Vợ
Đường Cao Tông. Khi Cao Tông chết, bà ta tự xưng là Tắc Thiên hoàng đế.
[←54]
Vợ
Hán Thánh Đế, người rất nhẹ, có thể đứng trên cái mâm mà múa.
[←55]
An
Lộc Sơn, người đời Đường, tư thông với Dương Quý Phi.
[←56]
Cũng
gọi là Thọ Dương Công Chúa, con gái vua Tống Vũ Đế.
[←57]
Chưa
tường.
[←58]
Thái
Hư: hư không, không có thật, Ảo Cảnh: cõi huyền ảo.
[←59]
Phóng
xuân: thả cho mùa xuân được tự do.
[←60]
Nghiệt
hải: bể oan nghiệt, tình thiên: trời ái tình.
[←61]
Cao
hoang: hai cái huyệt ở trong người, châm cứu không hết, thường dùng để chỉ cái
bệnh không chữa được.
[←62]
Con
hát.
[←63]
Đây
là kiểu đố chữ. Cây tức là mộc, đất tức là thổ. Mộc ở bên hai chữ thổ là chữ
quê.
[←64]
Ngọc
tức là Bảo Ngọc. Rừng tức Lâm Đại Ngọc.
[←65]
Thỏ
tức là Mão, hùm tức là Dần. Theo chuyện, Nguyên Xuân chết vào cuối năm Dần, đầu
năm Mão.
[←66]
Đây
là một câu sấm ngữ theo tức chữ tòng. “Lệnh” tức chữ lệnh. “Thôi” tức chữ hưu.
Ý nói: Lúc đầu nói gì cũng nghe, sau sai khiến được người, cuối cùng bị người bỏ.
[←67]
Tinh
túy của các thứ hoa thơm.
[←68]
Một
cái hang, chứa hàng nghìn màu hoa đỏ.
[←69]
Một
thành ngữ có ý nói: đành chịu với định mệnh.
[←70]
Muôn
sắc đẹp cùng chuốc chén.
[←71]
Tên
một con sông ở Hồ Nam, chỗ Nga Hoàng và Nữ Anh ngồi khóc vua Thuấn. Về sau dùng
điển này tả nỗi trai gái tương tư.
[←72]
Chỉ
những người làm quan ăn lương.
Thật kỳ công khi Anh viết lại Hồng Lâu Mộng!
Trả lờiXóaĐọc lại thấy hiểu cuộc sống khác đi, bạn Mai à.
Xóa