GIỚI THIỆU SÁCH “TÂY VỰC KÝ”
Sách Tây Vực
Ký, Huyền Trang Pháp sư thuật. Thích Như Điển và Nguyễn Minh
Tiến Việt dịch & chú giải. Tuệ Sỹ giới thiệu. Hội Đồng Hoằng
Pháp xuất bản quý I/2022 nhân dịp Tết Nguyên đán Nhâm Dần
qua mạng toàn cầu Amazon. Hương Tích Phật Việt sẽ xuất bản tại Việt
Nam.
“… [Pháp sư Huyền
Trang] hướng tâm cõi tịnh, cất bước Tây du, vượt hiểm nguy đường xa vạn dặm,
chống gậy trúc một mình thẳng tiến. Sớm đầy trời tuyết đổ, chẳng thấy
đường đi; chiều gió cát mịt mù, trời không biết hướng. Núi tiếp núi chập chùng
muôn dặm, khoát mây trời dấn bước tiến lên; rét căm căm lại nóng nung
người, đạp gió đội mưa thẳng về phía trước. Lòng chí thành, gian lao xem
nhẹ; nguyện thâm sâu, chí đạt mong cầu; mười bảy năm liền trời Tây dạo khắp;
nghiên tầm Chánh giáo, các nước đều qua…”
Đường Thái Tông
(trích Lời tựa Tam
Tạng Thánh Giáo)
TUỆ SỸ
GIỚI THIỆU SÁCH
“TÂY VỰC KÝ”
I.
Pháp sư họ Trần 陳, tục danh Y
hoặc Huy 禕.
Từ Hán 禕, theo Từ điển Khang
Hy, phát âm theo Đường vận, đọc là Huy 【 唐 韻
】 許 歸 切; phát âm theo
Tập vận, đọc là Y 【集韻】【韻會】吁韋切.
Tập vận, từ điển phát âm được biên soạn dưới thời Tống Nhân
Tông niên hiệu Cảnh hựu thứ 4 (1039). Đường vận được biên soạn thời
nhà Đường, khoảng sau năm 733 hay 751TL. Pháp sư sinh vào thời nhà
Đường, vậy tục danh của Pháp sư đọc là Trần Huy.
Sau khi xuất gia, Pháp
danh của ngài là Huyền Trang, hay Huyền Tráng 玄 奘. Ta quen đọc
là Huyền Trang, nhưng theo phiên âm Bắc kinh hiện tại, đọc là Xuán
Zàng (âm trắc), phát âm đúng là Huyền Tráng.
Cho đến triều
Thanh, do kỵ húy vua Khang Hy, 玄奘 được
viết thay bằng 元奘.
Như Bát-nhã-ba-la-mật-đa tâm kinh sự quán giải được viết bởi
Sa-môn Tục Pháp 沙門續法 dưới
triều Khang Hy. Nhiều tên khác như Vương Huyền Sách 王玄策 được viết thay bằng
Vương Nguyên Sách 王元策,
Phòng Huyền Linh 房玄齡
bằng Phòng Nguyên Linh 房元齡.
Các học giả phương
Tây đầu tiên nghiên cứu và phiên dịch Đại Đường Tây vực ký (Thomas
Watters, On Yuan Chwang, 1904) cho rằng hai từ 玄 hay 元 có thể phát âm như nhau vào thời nhà Đường. Ý
kiến này khả dĩ có lý, nếu theo cách phát âm của người Nhật, như
玄 奘 Huyền Tráng phát
âm là げんじょう(genjō),
玄昉 Huyền Phưởng phát
âm là げんぼう (genbō),
道元 Đạo Nguyên đọc
là どうげん (dōgen), 隱元 Ẩn Nguyên đọc là いんげん (ingen).
W. F. Mayers (Chinese
Readers’ Manual, 1910) cho rằng 玄奘 nguyên viết là 元奘 nhưng vì kỵ húy mà đổi thành; do đó trong mục từ 962 ông
phiên âm Yüan Chwang, đọc theo âm Hán Việt là Nguyên Tráng thay vì Huyền Tráng.
T. W. Rhys Davis, người sáng
lập Pāḷi Text Society và cũng là dịch giả nhiều Thánh điển Pāli
sang tiếng Anh, cùng với S. W. Bushell biên tập và cho ấn hành tác
phẩm On Yuan Chwang (1904) của Thomas Watters (1840-1901), đã dẫn ra ít
nhất có 6 phiên âm La-tinh khác nhau về từ 玄奘 của những nhà nghiên cứu phương
Tây đầu tiên:
1. M. Stanislas
Julien |
Hiouen Tshang. |
2. Mr. Mayers |
Huan Chwang. |
3. Mr. Wylie |
Yuén Chwàng. |
4. Mr. Beal |
Hiuen Tsiang. |
Chúng ta chỉ biết
những phiên âm La-tinh này trên giấy nên không rõ thực tế phát âm như
thế nào.
Để giải thích rõ
những phiên âm khác nhau này, Rhys Davids dẫn lời của Thomas Francis Wade
(1818-1895), nhà ngoại giáo và Hán học. T. F. Wade cùng với Herbert
Giles biên soạn hệ thống La-tinh hóa cho phát âm quan
thoại gọi là hệ thống phiên âm la-tinh Wade-Giles được Giles hoàn
thành với quyển từ điển Chinese-English Dictionary (1892).
Theo giải thích của
Thomas Wade, danh hiệu của Huyền Tráng được viết dưới hai dạng (1) 玄奘 và (2) 元奘. Phát âm theo
giọng Bắc kinh đương thời, ông phiên âm (1) hsüan chuang và (2) yüan chuang, và
phiên âm này cũng được Dr. Legge chấp nhận. James Legge (k. 1815-1897) được
xem là nhà Hán học lớn và nổi tiếng với sự phiên dịch chú
giải văn học cổ điển Trung hoa, do rất có thẩm quyền về lãnh
vực này nên được dẫn chứng ở đây. Hai dạng nêu trên người Pháp
phiên âm (1) hiouen thsang, (2) youan thsang, theo hệ phiên âm của đoàn Truyền
giáo La-mã (Romish Missionaries). Rhys Davids có vẻ tán thành lối phiên âm
của Stanislas Julien vì bản dịch tiếng Pháp Đại Đường Tây vực ký của
ông (Mesmoires sur Les Contrées Occidentales, par Hiouen-Thsang, 1857) rất nổi
tiếng và có uy tín. Âm H trong phiên âm của Julien trong tiếng Pháp
thực tiễn là âm câm, do đó Hiouen đọc như là Iouen, và có thể được viết là
Yuan theo hệ phiên âm khoa học được chấp nhận trong tất cả các hệ ngôn
ngữ phương Đông.
Thêm nữa, Watters (On
Yuan Chwang, p.6, n.2) nói rằng trong các bản văn Tạng ngữ 玄奘 được phiên âm là
T’ang Ssen-tsang hay T’ang Sin (hay Sang). Đây có lẽ là phiên âm la-tinh từ ཐང་ཟན་ཙང་ (Wylie: thang zan
tsang), từ được tìm thấy trong 蔵漢大辭典 (bod rgya tshig mdzod chen mo, 1978). Ông
cho rằng Ssen-ts’ang là lối phát âm hay phiên âm Tạng ngữ tương đương
phiên âm la-tinh Hsüan-ts’ang.
Mặc dù các học
giả phương Tây theo phát âm bản địa của mình mà có những
phiên âm khác nhau, nhưng ngày nay theo tiêu chuẩn phiên âm Bắc
kinh, danh hiệu của Pháp sư được ghi là Xuan Zang. Âm Hán
Việt của người Việt từ trước vẫn đọc là Huyền Trang, có khi đọc là Huyền
Tráng.
Tiểu truyện Pháp sư
được ghi chép đầy đủ, được ấn hành trong Đại chánh tạng với tiêu
đề 大唐大慈恩寺三藏法師傳
– 沙門慧立本釋彥悰箋 Đại Đường Đại Từ
ân tự Tam tạng Pháp sư truyện, bản gốc bởi Huệ Lập, bổ sung bởi Ngạn
Tông.
Chi tiết về cuộc
đời của Ngạn Tông được ghi chép trong Tống Cao tăng truyện,
quyển 4, rất vắn tắt: Không rõ quê quán, cuối niên hiệu Trinh quán, khoảng
những năm trước 649, lên Kinh, cầu Pháp làm môn nhân của Tam tạng
Pháp sư, tài không bằng Phổ Quang, Bảo Thái, nhưng kiến thức rộng rãi, thông
suốt Huyền học, Nho học. Phần tiếp theo, chỉ phỏng theo bài tựa của
chính Ngạn Tông viết cho Đại Đường Đại Từ ân tự Tam tạng Pháp sư
truyện, mà bản gốc viết bởi Huệ Lập, và Ngạn Tông là người bổ
sung.
Ngạn Tông sinh
vào cuối thời Trinh quán, trong khoảng 627- 649, nhưng ít tuổi
hơn Huệ Lập (sinh khoảng 615). Tống Cao tăng truyện, quyển 4,
chép: Thích Ngạn Tông, không rõ quê quán, sinh khoảng cuối thời Trinh quán
(trước 649). Có lẽ đây là khoảng thời gian mà, vào năm Trinh Quán 19
(645) Huệ Lập được vua chọn trong số 9 người hỗ trợ Huyền Trang bắt
đầu sự nghiệp phiên dịch từ chùa Hoằng phước. Tống Cao tăng
truyện, quyển 17, chép khá đầy đủ về Huệ Lập, nhân cách cũng như tài
năng. Nguyên tên 子立
Tử Lập, vua Cao Tông đổi lại là Huệ Lập, chữ Hán viết là 慧, cũng viết là 惠. Cả hai từ này,
Khang hy phát âm giống nhau: 【唐韻】【集韻】【正韻】胡桂切,音 惠 , phiên âm chuẩn Bắc kinh là hui. Bẩm tính thông minh,
năm 15 tuổi (Trinh quán thứ 3, 629) xuất gia tại chùa Chiêu nhân, Bân
châu 豳州昭仁寺. Học thông cả Nho lẫn
Thích. Vua sắc phong “Đại Từ ân tự phiên kinh Đại đức”. Cao Tông
nhiều lần triệu vào Đại nội, cùng đối luận với các đạo sĩ, rất hợp ý
chỉ của vua. Lúc bấy giờ, Thượng y phụng ngự Lữ Tài, quan chức tối
cao trong Thượng dược cục, tức Thái y lệnh, chức trách trị bệnh cho các
quan, viết Nhân minh đồ chú, 3 quyển, giải thích sai quấy về nhân
minh, tức luận lý học Phật giáo do Huyền Trang truyền, bài
xích chính nghĩa của các sư, Huệ Lập bèn viết sách chỉ
trích khiến Lữ Tài câm nín.
Huệ Lập ngưỡng mộ hành
nghi của Tam tạng Huyền Trang do đó viết truyện, tức Đại
Từ ân tự Tam tạng truyện, 5 quyển. Chi tiết về biên tập và lưu
hành bản truyện này được Ngạn Tông tường thuật trong bài tựa.
Năm Trinh quán 19 (645), Pháp sư về đến Kinh đô Trường An, đạo
tục đều nghinh đón thật là một thời náo nức. Sau đó, yết kiến Thiên
tử, vua ân cần hỏi han, rồi chiếu lệnh các quan chọn người tài
năng hỗ trợ Pháp sư phiên dịch. Trăm người đều thờ kính, thật
khó nói hết lời. Cho đến như hàng thị tộc trâm anh cũng từ
giã gia thân mà nhập đạo, bước theo con đường diệu vợi, trong
ngoài đều tán dương, biểu thị ngưng nghỉ Hóa thân mà trở
về với Chân thân, cũng như hết củi thì lửa tắt; những chuyện như vậy
có đầy đủ trong truyện này.
Truyện gốc có 5 quyển,
soạn thuật bởi Sa-môn Huệ Lập, Ngụy quốc Tây tự. Chùa này trước kia vốn
có tên là 長安太原寺 Trường
An Thái Nguyên tự. Huệ Lập được Ngạn Tông mô tả là con
người cứng cỏi, không sợ uy nghiêm, xuống nước, vào lửa, không gì làm
cho nhụt chí. Ngưỡng mộ sở học và sở hành cũng như hình nghi của Tam tạng,
vẻ như càng dùi mài càng cứng rắn, càng trông lên càng cao xa, nhân đó mà soạn sự
tích để làm gương lâu đời. Sau khi soạn xong cảo bản, dè chừng
còn thiếu sót những điều hay do đó chôn giấu kỹ dưới đất, người
đời không ai nghe đến. Cho đến khi bệnh nặng biết chừng không qua khỏi
mới khiến môn đồ đào lên mà công bố rồi mới chết. Môn nhân
buồn thương kêu khóc nghẹn ngào, mà truyện này lại lưu ly phân tán
nhiều nơi, qua nhiều năm tìm tòi, gần đây mới trọn đủ.
Bài tựa của Ngạn
Tông được viết vào niên hiệu Thùy Củng thứ tư (688), không nói rõ
năm Huệ Lập mất. Trong thư danh soạn giả, nói rằng 沙門慧立本釋彥悰箋 – Sa-môn Huệ Lập bản,
Thích Ngạn Tông tiên, có thể được hiểu theo hai trường hợp. Hoặc
5 quyển đầu do Huệ Lập viết và 5 quyển sau do Ngạn Tông diễn
giải thêm chi tiết. Nhưng cũng có thể hiểu từ bản gốc 5 quyển viết
do Huệ Lập soạn, sau đó Ngạn Tông diễn giải thêm chi
tiết thành 10 quyển, nghĩa là không phân biệt 5 quyển đầu và 5
quyển cuối là hai người viết riêng biệt. Thế nhưng, cuối quyển 10 ghi một đoản
văn Nghị Luận của Huệ Lập 釋慧立論曰 và một bài Kệ Tán 贊 曰, luận về con
người, công hạnh và sự nghiệp của Pháp sư, và tán
dương sở hành, sở học của Pháp sư. Luận và Tán này ở cuối cuối quyển
10 có thể chứng minh rằng, thoạt tiên bản truyện Huệ Lập viết thủy
chung 5 quyển, nhưng sau đó theo yêu cầu Ngạn Tông bổ
sung chi tiết thành 10 quyển. Nghĩa là, không phải Huệ Lập chỉ
soạn 5 quyển đầu, và Ngạn Tông tiếp nối thêm 5 quyển sau.
Trong 10 quyển, quyển
1 ghi chép tiểu sử Pháp sư từ xuất sinh, xuất gia, thọ
giới, tham học cho đến năm Trinh Quán thứ 3 (629) xuất phát từ Trường
An, qua Ngọc Môn quan, vượt sa-mạc Mạc-hạ-diên, đi về phía tây cho đến nước Cao
Xương. Quyển 2 cho đến quyển 5, chép cuộc hành trình từ nước
A-kì-ni (Agni) cho đến cuối cùng trở về bản quốc. Đây cũng
chỉ là bản tóm tắt cuộc hành trình nhập Trúc cầu pháp được
ghi chép chi tiết trong Đại Đường Tây vực ký.
Quyển 6 trở đi, bắt đầu
từ năm Trinh Quán 19 (645), Pháp sư về đến Trường An. Cho đến quyển
10, chép từ năm Hiển Khánh thứ 3 (658) rời Lạc Dương về Trường
An, trú tại chùa Tây Minh. Năm sau dời vào cung Ngọc Hoa.
Giáo nghĩa mà
Trung hoa tiếp nhận đầu tiên là Không Tính luận (śūnyavāda)
vốn là yếu nghĩa hàm chứa trong các kinh Bát-nhã như Đại phẩm và Tiểu
phẩm mà trước đó Cưu-ma-la-thập (Kumārajīva) đã dịch. Đây chỉ
là một phần của toàn bộ kinh điển Đại Bát-nhã, tương đương với
Pañcaviṃśatisāhasrikā (Nhị vạn ngũ thiên tụng) và Aṣṭasāhasrikā (Bát
thiên tụng) trong khi Śatasāhasrikā Prajñāpāramitā Sūtra (Bách vạn tụng) và nhiều
Kinh thuộc hệ Kinh Bát-nhã chưa hề được biết đến. Do đó, khi được biết số lượng
đồ sộ của Đại Bát-nhã, đại chúng yêu cầu Pháp sư phiên dịch. Pháp
sư cho rằng dịch trường trong chùa Từ ân là chốn kinh
thành ồn ào mà mệnh người lại vô thường khó có thể hoàn
tất bộ Kinh lớn này, tỏ ý được dời vào cung Ngọc Hoa.
Vua Cao Tông tức thì chấp thuận.
Cung Ngọc Hoa vốn
là nơi nghỉ mát, tĩnh dưỡng được xây dựng vào năm Trinh
Quán thứ 2 (628). Đến năm Vĩnh Huy thứ 2 (651) Đường Cao Tông Lý Trị đổi thành
chùa Ngọc Hoa. Năm Hiển Khánh thứ 4 (659), Pháp sư dời vào
cung Ngọc Hoa, bấy giờ đổi thành chùa Ngọc Hoa, và đến năm sau (660)
khởi sự phiên dịch. Cho đến niên hiệu Long Sóc thứ 3 (663)
thì hoàn tất toàn bộ Đại Bát-nhã ba-la- mật-đa kinh, gồm 600 quyển,
16 hội.
Pháp sư khởi
hành năm Trinh Quán thứ 3 (629), bất chấp lệnh cấm xuất quan, mạo hiểm Tây
Trúc cầu pháp, trải qua 17 năm, kinh lịch 138 nước, Tây Vực và Ấn
Độ. Năm Trinh Quán 19 (645), Pháp sư trở về nước, mang theo 657
Phạn bản; trong đó:
Đại thừa kinh:
224 bộ
Đại thừa luận:
192 –
Thượng tọa bộ (Sthavira): 14 –
Đại chúng bộ (Mahāsaṅghika): 15 –
Hóa địa bộ (Mahīśāśka,
Di-sa-tắc): 22 –
Chính lượng bộ (Sammitiya,
Tam-di-để): 15 –
Ẩm quang bộ (Kāapiya,
Ca-diếp-tí-da): 17 –
Pháp tạng bộ (Dharmagupta, Pháp
mật bộ): 42 –
Nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivāda): 67 –
Nhân luận
(Hetuśāstra): 36 –
Thanh luận (Śabdika-śāstra): 13 bộ.
Cũng năm đó, Trinh
Quán 19 (645), ngày 6 tháng 6, vâng sắc chỉ Hoàng đế, tại chùa Hoằng
Pháp, Pháp sư khởi sự phiên dịch các Phạn bản đã mang về, cho
đến năm Long Sóc 3 (663), sự nghiệp phiên dịch hoàn tất với
bộ Đại Bát-nhã 600 quyển.
Năm sau, Lân Đức thứ
nhất (664), tháng Giêng, Pháp sư khiến Gia Thượng Pháp sư tổng
kết Kinh Luận đã được phiên dịch, tính được 74 bộ (合七十四部, Julien hiểu là 740
bộ), 1338 quyển.
Ngày 7 tháng 12 (âm lịch)
năm đó (664), sau khi hoàn tất phiên dịch Đại Bát-nhã, Pháp
sư cảm thấy thân thể suy kiệt, bảo môn nhân: “Ta dời vào Ngọc
Hoa vốn do nhân duyên Bát-nhã, nay phiên dịch đã hoàn
tất, mệnh sống của ta cũng đến lúc cạn hết. Sau khi vô thường đến
với ta, các người phải nghe di chúc của ta mà giản đơn kiệm ước, hãy dùng chiếu
lác bó thây, chọn nơi khe núi vắng vẻ mà chôn, chớ để gần chùa cung (chùa Ngọc
Hoa). Thân bất tịnh cần phải chôn nơi xa cách.”
Niên hiệu Lân Đức thứ
nhất (664), tháng hai, ngày 5, nửa đêm, các đệ tử hỏi: “Hòa thượng
có nhất định được sinh lên nội viện của Đức Di-lặc
không?” Pháp sư đáp: “Được.” Rồi hơi thở yếu dần, và phút
chốc thâu thần, nhưng người hầu không biết, chỉ khi chạm đến y phục mới
hay.
Huệ Lập 慧立 (hay Tuệ Lập 慧立), sinh năm
615, xuất gia năm 15 tuổi (Trinh Quán 3, 629), không rõ năm mất.
Sau khi viết Đại Đường Đại
Từ Ân tự Tam tạng Pháp sư truyện cảm thấy còn thiếu sót nên
chôn giấu, trước khi chết khiến môn nhân tìm kiếm, nhưng cốt truyện lưu
lạc trong nhân gian, qua một thời gian dài mới tìm thấy 5
quyển, năm 688 Ngạn Tông bổ sung thêm chi tiết thành 10 quyển. Huyền
Trang mất năm Lân Đức thứ nhất (664), như vậy truyện nguyên cảo Huệ Lập viết
và Ngạn Tông tiên thích và lưu hành sau khi Pháp sư tịch
trên 20 năm.
Huệ Lập và Ngạn
Tông đều là nhân vật đồng thời Pháp sư nên truyện ký tất
nhiên được nghe chính Pháp sư kể. Thực tế, Pháp sư truyện
10 quyển do Huệ Lập và Ngạn Tông được thấy rõ là bản tóm
tắt của Tây vực ký được chính Pháp sư thuật và Biện
Cơ biên tập, 12 quyển, hoàn tất năm Trinh Quán 20 (646).
Huệ Lập, Ngạn
Tông, Biện Cơ, Phổ Quang, Đạo Tuyên, v.v… là những vị trong số
chín Đại đức được tuyển chọn làm Chuyết văn (chuốt văn) Đại đức hỗ
trợ Huyền Trang phiên dịch. Đạo Tuyên mất năm 687, trước
khi Ngạn Tông tiếp tục biên tập Pháp sư truyện
và lưu hành.
Niên hiệu Lân Đức thứ
nhất (664), dưới triều Đường Cao Tông Lý Trị, Đạo Tuyên hoàn thành Đại
Đường Nội điển lục, sao lục sự nghiệp dịch kinh từ Đông Hán
(25-220) với 220 dịch giả, kinh điển 2487 bộ, 8476 quyển, trong đó
ghi chép số lượng kinh điển do Pháp sư dịch và soạn tính đến
năm Lân Đức 1 (644) có hơn 60 bộ trên 1344 quyển. Ước tính này có sai
khác với kiểm lục mà Huyền Trang đích thân khiến Gia Thượng Pháp
sư như đã thấy trên.
Đạo Tuyên cũng
viết Tục Cao tăng truyện, sao lục các Cao tăng phiên dịch kinh
điển từ buổi đầu nhà Lương cho đến niên hiệu Trinh Quán 19
(645), đó là năm Pháp sư khởi sự phiên dịch tại chùa Hoằng
Phước. Bài tựa của chính Đạo Tuyên viết cho Tục Cao tăng truyện nói:
“Bắt đầu từ sơ vận của đời Lương (502-557), kết thúc Đường Trinh Quán
19 (645), trải qua 140 năm, bao quát Nhạc Độc (sông núi Trung
Nguyên) cho đến khắp Hoa Hạ, Man Di, chính truyện 340 người, phụ
lục 160 người.” Trong đó, quyển 4, chép Từ Ân tự Huyền Trang truyện,
từ sơ sinh, thân thế, dòng họ, xuất gia, thọ giới, nghiên tập Thánh
điển, Câu- xá, Thành thật, Nhiếp luận, v.v… đại để cũng như được ký tải
trong Pháp sư truyện bởi Huệ Lập và Ngạn Tông.
Truyện tiếp theo sau
đó, trên đường Tây hành, lướt qua đoạn đường từ sự cố Qua
Châu, sự cố Hồ Tăng Thạch- bàn-đà, vượt qua sa-mạc Mạc-hạ-diên, cuối
cùng đến Cao Xương, như được kể trong truyện bởi Huệ Lập.
Những ngày Pháp
sư lưu trú tại Cao Xương, mối quan hệ giữa Pháp sư với
Cúc Văn Thái 麴文泰
truyện kể sơ lược. Rời Cao Xương đến Thiết môn quan, trong quốc
cảnh Cao Xương. Từ đây, đoạn lữ hành cho đến A-kì-ni (Agni)
không được Đạo Tuyên ký tả theo thứ tự các nước. Như từ Thiết môn
quan phía Tây Hán thổ đi thẳng đến nước 貨羅覩Đổ-hóa-la (Tukhāra),
nơi phát nguyên con sông lớn 縛芻Phược-sô
(Vakṣu/Oxsus) chảy qua 27 nước, Pháp sư lần lượt đến 縛喝Phược-hát (Balkh) trong Tây
vực ký quyển 1). Từ Phược-hát lại kể thẳng đến Ca-tất-thí (Kapitha)
trong Tây vực ký quyển 4, bỏ qua 13 nước. Những địa danh thuộc các nước Tây
vực đọc theo phiên âm cũ cho đến Ô-kì hay A-kì- ni. Từ đó các
phiên âm đều theo Tây vực ký. Năm Trinh quán 20, Huyền Trang vâng
sắc lệnh vua soạn Tây Vực ký 12 quyển tại chùa Hoằng Phước,
Sa-môn Biện Cơ vâng chỉ chuyết văn, tháng 7 năm đó thì dứt, như được
thấy trong Đại Đường nội điển lục (Đạo Tuyên soạn, 644) mà Khai
Nguyên lục và Trinh Nguyên lục đều dẫn. Như đã thấy trên, chính Đạo Tuyên
nói Tục Cao tăng truyện được viết đến năm Trinh Quán 19 thì ngưng.
Như vậy, nó được ngưng trước khi Tây Vực ký được viết. Thế nhưng,
trong bản truyện hiện hành trong Đại chánh, truyện Huyền Tráng được
chép đến năm Lân Đức 1 (664), năm Pháp sư tịch. Từ đây có thể biết,
tiểu truyện Pháp sư nguyên cảo được kể từ sơ sinh cho đến thời Tây
hành vượt qua nhiều nước Tây trước khi đến nước đầu tiên trong số 138
nước Pháp sư sẽ kinh lịch mà Tục Cao tăng truyện vẫn còn kể
theo âm cũ Ô-kì, thay vì A-kì-ni như trong Tây Vực ký.
Trong Pháp sư truyện
bởi Huệ Lập và Ngạn Tông, cũng như trong Tây vực ký,
A-kì-ni còn một số bản dịch khác từ Hán 138 nước mà Pháp sư trải qua và
ký tả chi tiết.
Từ địa danh 阿耆尼A-kì-ni không xuất
hiện trong Cao tăng truyện bởi Đạo Tuyên, thay vào đó là
Ô-kì. Pháp sư truyện và Tây vực ký đều có phụ chú 阿耆尼國(舊曰烏耆) “Nước A-kì-ni, xưa
gọi là Ô-kì.” Không chỉ A-kì-ni, mà còn nhiều địa danh khác không xuất hiện như
phiên âm Hán trong Pháp sư truyện và Tây vực ký như 屈支國界(舊云龜茲,訛也) Khuất-chi
(Kucha), Cao tăng truyện âm theo xưa gọi là Quy tư, (斫句迦國(舊曰沮渠); Chước-cú-ca (địa
danh chưa được xác định. Julien âm là Tchakouka; Beal và Watters cho là thuộc địa
phương Yarkiang; A. Stein cho là Kargilik hay Karghalik) Cao tăng truyện theo
âm cũ là Trở-cừ, 佉沙國
(舊謂疏勒者) Nước Khư-sa
(Kashgar) theo âm cũ là Sơ-lặc.
Từ những ký tải địa
danh này, có thể nói, phần này Cao tăng truyện viết trước khi Tây
vực ký được biên soạn.
Đại Đường nội điển lục, Đạo
Tuyên soạn (Lân Đức 1, 664), cho biết nguyên cảo Tục cao
tăng truyện, 1 bộ 30 quyển, sau đó viết tiếp phần sau gọi là Hậu tập Tục
cao tăng truyện, 1 bộ 10 quyển. Nhưng đến Khai Nguyên Thích giáo lục (Trí
Thăng soạn, Khai Nguyên 18, 730), chỉ ghi Tục cao tăng truyện 30
quyển, không nhắc đến Hậu tập Cao tăng truyện 10 quyển. Do đây có thể
nói rằng, sau khi Huyền Tráng về nước, bắt đầu sự nghiệp phiên dịch mà Đạo
Tuyên tham gia. Sau đó Tây vực ký được biên soạn, Đạo
Tuyên có đầy đủ thông tin về những nước mà Huyền Trang đã kinh lịch,
và bản thân cũng gần với Huyền Tráng cho đến ngày Pháp
sư tịch, trải qua trên 30 năm, nên ghi chép những điều bản
thân chứng kiến, cho đến năm Lân Đức 1 (664) tập thành 10 quyển
phần sau của Tục cao tăng truyện. Về cuối đời, ba năm sau, Đạo Tuyên có
thể sáp nhập hai bộ trước sau thành một bộ 30 quyển như Khai Nguyên lục ghi.
Đạo Tuyên tịch
năm Càn Phong 2 (667, thọ 71 tuổi), trên 20 năm trước khi Pháp
sư truyện bởi Huệ Lập và Ngạn Tông được lưu truyền,
cho nên những thông tin trong truyện Huyền Trang trước khi Tây
hành và sau khi về nước là những sự kiện mà bản thân Đạo
Tuyên chứng kiến, mắt thấy tai nghe; đó là những sử liệu trung thực đầu
tiên được biết đến.
Một tác phẩm khác,
có tiêu đề 大唐故三藏玄奘師行狀
Đại Đường Cố Tam tạng Huyền Tráng sư hành trạng, 1 quyển, ấn
hành trong Đại chánh No. 2052, không đề danh tác giả. Cuối truyện có
ghi xuất xứ: “Minh Đức năm thứ 2, tháng tám, ngày (không rõ), sau
khi cảm nhận bản ký tải này do 冥 詳 撰 Minh Tường soạn (v.v.). Đại Sư Phú
Pháp truyện, văn hành trạng được dẫn dụng, đây và kia phù hợp,
thật rất đáng trân trọng. Bên đây là lời ghi của Pháp ấn quyền Đại
Tăng đô Hiền Bảo…”
Đại Tăng đô Hiền
Bảo được nói đến đây có thể là Viện chủ đời thứ hai Viện Quán
Trí chùa Đông Đại tự Todaiji (Mật tông Nhật bản), sinh
hoạt trong khoảng hậu bán thế kỷ 14 dưới thời Nam Bắc Triều (Nhật
Bản).
Xuất xứ bản truyện
được thấy lưu hành trong niên hiệu Minh Đức 2, như dẫn
trên. Có hai niên hiệu Minh Đức.
Thứ nhất, đó là niên
hiệu của Cao tổ Hậu Thục Mạnh Tri Tường, và con là Hậu Thục Hậu chủ Mạnh
Xưởng (934- 937). Thứ hai, Minh Đức (952), niên hiệu của Đoàn Tư
Thông, Hoàng đế thứ tư của nước Đại Lý. Sự lưu truyền của Hành
trạng trong vùng đất Tứ Xuyên, Vân Nam này chưa được biết rõ, nhưng
có thể phỏng đoán, bản Hành trạng được một ai đó trong vùng đất
này trong khoảng 934-952. Hiền Bảo Đại Tăng đô, sinh
hoạt trong khoảng 1333-1338, dưới thời Nam Bắc triều Nhật Bản,
hàng thứ hai trong chế độ Tăng quan, sau Đại tăng chánh (tương
đương Tăng Thống Việt nam), tăng lữ Chân Ngôn tông, hệ Đông
tự, tác giả nhiều tác phẩm về Mật giáo. Không rõ mối
quan hệ giữa Hiền Bảo với sự lưu truyền Hành trạng mà sư có được
và phát biểu là cảm kích với những ký sự trong đó.
Tuy được ấn hành trong
Đại Chánh, nhưng không thấy được nhắc đến ở đâu trong các Kinh lục, hay các thư
tịch Phật giáo Hán. Tác giả và niên đại được biết qua tư liệu
về Pháp sư trong Huyền Tráng Tam tạng sư tư truyền tòng thư
玄奘三藏師資傳叢書 , biên soạn bởi Tá
Bá Định Dận 佐伯定胤
(Saeki Jōin, 1867-1952) và Trung Dã Đạt Huệ 中野達慧 (Nakano Tatsue,
1871-1934), nêu rõ là (唐)冥详撰 – Đường Minh Tường
soạn.
Hành trạng chỉ
chép truyện đến sau ngày Pháp sư tịch, ngày đưa tang, tất cả tăng
ni trong kinh thành dựng tràng phan đưa đến mộ phần. Và kết
thúc nói: “Những điềm thần dị báo hiệu sự kiện này, thật
không cần thiết liệt kê hết ra đây.”
Có khá nhiều điểm
tương đồng trong ba bản truyện với một ít xuất nhập. Điều đáng lưu ý,
trong phần thân thế, ba bản truyện có một chi tiết khác nhau, cho
phép suy đoán cả ba được viết độc lập không tham khảo lẫn
nhau.
Ba bản truyện xem
như được viết cùng thời, nhưng sự lưu truyền nhân
gian khó rõ trước sau. Trong đó, bản truyện trong Tục Cao tăng truyện có
thể chỉ giới hạn trong giới Phật giáo. Trong hai bản kia, Hành
trạng thấy được lưu truyền đâu đó trong khoảng Vân
Nam, đất Hậu Thục hay Đại Lý, và có vẻ được biết đến ở Nhật Bản nhiều
hơn là Pháp sư truyện.
Dù sao, ba bản truyện
này đều được viết bằng Hán văn, và bản người Nhật sưu tập cũng bằng Hán văn.
Trong khi đó, có một bản dịch bằng Hồi-hột văn 回鹘文, tức văn tự của người Uighur mà ngày nay phiên
âm chính thức là 维吾尔đọc
theo Hán âm là Duy-ngô-nhĩ, được phát hiện tại Tân Cương năm 1930.
Đây là bản dịch Hồi-hột văn dịch bởi 胜光法师 Pháp sư Thắng Quang từ Đại Đường Đại
Từ Ân tự Pháp sư Huyền Trang truyện bởi Huệ Lập và Ngạn
Tông.
Pháp sư Thắng
Quang thuộc tộc Duy-ngô-nhĩ, sinh hoạt trong khoảng thế kỷ
10-11. Được biết Sư tinh thông Hán văn và Hồi-hột văn. Ngoài bản dịch Pháp
Sư truyện, Sư còn một số bản dịch khác từ Hán văn sang Hồi-hột văn,
Như Kim Quang Minh Tối Thắng Vương kinh, từ bản Hán dịch của Nghĩa Tịnh.
Có lẽ đây là bản dịch duy nhất, ngoài nguyên bản Hán, được lưu truyền ở Tây
vực, cho đến khi các thừa sai khám phá Tây vực ký và
truyền vào Âu châu qua các bản dịch Pháp và Anh.
Việt Nam cho đến thế
kỷ XX mới biết đến cuộc tây hành cầu pháp của Pháp sư tương
đối đầy đủ tuy không chi tiết qua tác phẩm nghiên cứu của
Bhikkhu Thích Minh Châu y cứ trên bản truyện bởi Huệ Lập:
Hsuan-Tsang, the Pilgrim and Scholar, Nava Nalanda Mahavihara 1961, bản dịch Việt, Thích
nữ Trí Hải, Huyền Trang, nhà Chiêm bái và Học giả, Đại
học Vạn Hạnh, 1966. Sách viết bằng Anh ngữ trong thời mà Pháp văn là ngôn
ngữ thông dụng ở miền Nam, do đó không được phổ biến. Được biết
đến rộng rãi trong giới Phật tử là qua tác phẩm Huyền
Trang, viết bởi Võ Đình Cường, Hương đạo xuất bản 1960.
Trong thế giới phương
Tây, do mục đích truyền giáo, các thừa sai La-mã đã khám phá Tây
vực ký với những thông tin quý giá về lịch sử, địa lý, kinh tế
văn hóa, của các nước từ Tây vực cho đến nội cảnh Ấn-độ bấy
giờ, kể từ nửa sau thế kỷ XIX.
II.
Năm 643, sau Pháp
hội Thành Khúc nữ (Kannauj), cuộc luận chiến do vua Giới Nhật (Śīlāditya)
tổ chức (Pháp sư truyện quyển 5, Tây vực ký quyển 5), Pháp
sư từ giã Ấn-độ, trở về bản quốc. Vượt Thông Lãnh, trải qua trên
30 nước; năm sau, 644, đến Vu-điền 于闐, tức là nước Cù-tát- đán-na trong Tây vực ký.
Theo thỉnh cầu của Quốc vương Vu-điền, Pháp sư lưu
lại đó một thời gian. Nhân đó, Pháp sư sai người tháp tùng
đoàn thương nhân dâng sớ về triều, tạ tội vượt biên cảnh trái
phép. Bấy giờ chư tăng nước Vu- điền thỉnh Pháp sư giảng luận Du-già, Đối
pháp, Câu-xá, Nhiếp Đại thừa, thời gian trải qua 7, 8
tháng.
Trinh Quán năm thứ 19
(645), tháng Giêng, Pháp sư về đến kinh thành. Hôm sau, thiết đại
hội ở phía nam Đường Châu tước, trưng bày các phẩm vật, kinh, tượng,
mà Pháp sư mang từ Ấn-độ về.
Tháng hai năm ấy, Pháp
sư yết kiến Đường Thái tông tại Kim Loan điện, Lạc Dương.
Vua hỏi tình hình các nước trong biên cảnh Ấn-độ, Pháp
sư tường thuật đầy đủ. Vua hứng thú, đề nghị Pháp sư ghi chép lại
đầy đủ để lưu truyền hậu thế. Pháp sư phụng mệnh, tại Phiên
kinh viện chùa Hoằng phước, biên soạn Tây vực ký, với sự chuyết
văn bởi Biện Cơ, đến mùa thu năm sau (646) thì hoàn tất,
dâng vua. (Nội điển lục).
Nguyên đề Tây vực
ký được ấn hành trong Đại Chánh hiện tại dưới tiêu
đề Đại Đường Tây vực ký, 12 quyển, Tam tạng Pháp sư Huyền Tráng
phụng chiếu dịch, Đại Tổng trì tự Sa-môn Biện Cơ soạn. 大唐西域記三藏法師玄奘奉詔譯大總持寺沙門辯機撰.
Dịch, biên soạn,
hay chuyết văn, đây thuộc vấn đề tác quyền, được phân tích chi
tiết trong phần Dẫn nhập, đây không nhất thiết nói thêm.
Vấn đề tiếp theo,
đáng lý nên nói trước: “phụng chiếu dịch”. Tất nhiên đây không thể hiểu
là phiên dịch từ một nguyên bản Phạn nào đó. Nếu vậy, nó có nghĩa gì?
Một số học giả Trung
quốc đề nghị giải thích như sau.
Trong niên hiệu Hiển
Khánh dưới triều vua Đường Cao tông, nhân các đại thần Tiết Nguyên Siêu và Lý
Nghĩa Phủ hỏi Pháp sư về sự nghiệp phiên dịch trong
các đời do đâu mà được rực rỡ; Pháp sư đáp: “…Nội bộ gìn
giữ xiển dương thì do Thích tử; ngoại hộ thiết lập thì
thuộc về Đế Vương…” Và tường thuật các đời Phù Kiên, Dao Hưng, cho
đến thời Trung quán, thảy đều do quân vương hỗ trợ. “Nay một
mình tôi thì không thể được như vậy…”
Nhân đó, Cao Tông sắc
cho các đại thần như Vu Chí Ninh, Lai Tế, Hứa Kỉnh Tông, Tiết Nguyên
Siêu… thỉnh thoảng hãy đến hỗ trợ, nếu có chỗ nào chưa ổn thỏa thì
nhuận sắc liền… Do sự nhuận sắc này, các bản văn từ dịch trường đều
được ghi “phụng chiếu dịch”. Giải thích này khả dĩ chấp nhận được
một phần, vì hầu hết các bản kinh luận từ Pháp sư đều ghi
“phụng chiếu dịch”. Đây cũng là thông lệ cho một số trường hợp.
Như Phóng quang Bát- nhã của Bồ-đề-lưu-chi, hay Đại trí độ luận của
Cưu-ma- la-thập, đều ghi “phụng chiếu dịch”.
Tất nhiên cũng
có ý kiến (Watters, On Xuan Chwang) cho rằng chính Pháp sư tự
minh ghi lại mà không cần đến sự giúp đỡ của ai khác. Ý kiến này
cũng đồng với ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu Trung hoa.
III.
Một số mục lục kinh
điển, khởi đầu từ Nội điển lục, như được trích dẫn trong Khai Nguyên
Thích Giáo Lục, đã ghi như sau: 大唐西域記十二卷(見內典錄貞觀二十年奉勅於弘福寺翻經院撰沙門辯機承旨綴緝秋七月絕筆), Đại Đường Tây vực ký, 12 quyển
(xem Nội điển lục – năm Trinh Quán 20, vâng sắc chỉ vua soạn tại Phiên
kinh viện chùa Hoằng Phước, Sa-môn Biện Cơ thừa chỉ chuyết tập, mùa
thu, tháng 7 thì hoàn tất).
Nội điển lục tức Đại
Đường Nội điển lục, là bản mục lục kinh điển soạn bởi Đạo
Tuyên, hoàn tất năm 664. Trong đó nói 辯機承旨綴緝-Biện Cơ thừa chỉ chuyết tập, có thể được hiểu
là chuyết (chuốt) văn và xâu kết lại, tức biên tập lại. Cũng có thể
hiểu đây chỉ là chuyết văn đơn thuần.
Biện Cơ là một
trong số chín vị Đại đức được vua Đường Thái Tông truyền chọn
là những vị chuyết văn cho các bản dịch của Pháp sư. Thế nhưng, Biện
Cơ lại sa vào một thảm án, dẫn đến họa diệt thân. Thảm kịch này có thể vì
gây tai tiếng cho tông thất không ít nên không thấy được
ghi chép trong Cựu Đường Thư. Nhưng nó được ghi chép trong Tân Đường Thư.
Tân Đường thư (quyển
83, Liệt truyện 8) ký tải câu chuyện tai tiếng này đến hai lần.
Một, truyện Hợp Phố Công chúa 合浦公主, sau được phong là 高陽 Cao Dương, con gái
thứ 17 của Đường Thái Tông. Thứ hai, chép phụ trong truyện 房玄齡 Phòng Huyền Linh
(TĐT quyển 96, Liệt truyện 21), về người con trai thứ của ông là 遺愛 Di Ái.
Hai truyện này đều tường
thuật khá chi tiết về chuyện tư thông của công chúa Cao
Dương với tăng Biện Cơ. Chuyện xảy ra lúc nào không thấy ghi rõ. Chỉ
có thể suy, năm Trinh Quán 22 (648) Công chúa được gả cho Phòng Di
Ái. Năm đó cũng là năm được ghi nhận Biện Cơ chấp bút cho Pháp
sư phiên dịch Thiên thỉnh vấn kinh 天請問經 (Khai nguyên lục, quyển 8). Sự
nghiệp phiên dịch kinh điển của Pháp sư Huyền Tráng vẫn
còn tiếp tục cho đến 16 năm sau mới tịch. Thế nhưng, sau năm vừa
kể, không thấy nhắc đến Biện Cơ trong Phiên kinh viện; vậy
sự việc xảy ra sau đó không lâu?
Truyện kể rằng, nhân
khi Công chúa cùng với Di Ái đi săn, gặp Biện Cơ tại một thảo
lư, trong phong ấp của công chúa, bèn vây màn trong thảo lư ấy 具帳其廬,與之亂 rồi cùng tư
thông. Nói “vây màn trong thảo lư”, không thấy nói rõ thảo lư này của ai.
Thái Tông hay biết, nổi
giận, giết Biện Cơ, giết luôn 10 nô tì đi theo Công chúa. Công
chúa oán hận; sau khi vua băng, công chúa không tỏ một chút buồn.
Các nhà nghiên cứu sử
Trung Hoa không thấy bác bỏ câu chuyện này, nhưng vẫn nêu một số hoài
nghi.
Trong thời Đường, có
hai vị danh tăng Huyền Tráng và Nhất Hành mà tiểu truyện đều
được ghi trong Cựu Đường thư. Nhất Hành (683-727), truyền thừa Mật
giáo trực tiếp từ Kim Cang Trí, được kể là một trong số các nhà thiên
văn học lỗi lạc trong lịch sử thiên văn học Trung
quốc. Tân Đường thư lược bỏ tiểu truyện hai vị danh tăng thời Đường
này. Vả lại, Âu Dương Tu sinh sau cớ sự đó trên 300 năm, sự đồn
đãi thị phi trong dân gian trung thực đến mức nào cũng
khó đánh giá, vì ngoài câu chuyện được kể bởi Tân Đường thư,
chưa thấy có tư liệu hay thư tịch nào nhắc đến.
Dù sao, bi kịch,
hay chuyện ô danh, của Biện Cơ cũng đáng tin. Bởi vì, sau lần chấp
bút cho ngài Huyền Trang dịch Thiên thỉnh vấn kinh, không còn thấy Biện
Cơ chấp bút hay chuyết văn cho bản dịch nào thêm nữa, trong khi các vị
khác, trong số chín Đại đức được tuyển chọn chuyết văn hay chấp bút,
vẫn còn tiếp tục trong sự nghiệp phiên dịch. Các truyện ký
về các Cao tăng trong thư tịch sử ký Phật giáo tuy vẫn nhắc
đến những đóng góp đáng kể của Biện Cơ, nhưng không nơi nào ghi
thành một bản tiểu sử riêng biệt như các vị Cao tăng khác.
IV.
Sự nghiệp mà Pháp
sư để lại cho hậu thế, không chỉ các cộng đồng Phật giáo Á
đông, mà cả những nước trải dài nối liền hai nền văn minh tối
cổ của nhân loại, và cả một giai đoạn lịch sử của dân tộc Ấn-độ
chưa từng được ghi chép. Những nước Tây vực, mặc dù ngày nay không tồn
tại như một thực thể dân tộc độc lập; nhưng những ký tả
trên các đoạn đường mà Pháp sư đã đi qua cho họ biết lịch sử dân
tộc của mình với một quá khứ đáng tôn trọng. Sự nghiệp ấy
không chỉ vĩ đại như thế, mà di sản văn hóa do Pháp sư lưu
lại cho đến ngày nay không chỉ giới hạn trong các cộng
đồng Phật giáo, mà còn phổ biến trong các giới học thuật, tư
duy triết học, tín ngưỡng tôn giáo.
Kể từ khi đại học Nālandā,
nơi mà trước đó bốn thế kỷ Pháp sư đã từng là một tăng lữ lưu
trú tham cứu kinh điển, hoàn toàn bị thiêu hủy, kho
tàng Thánh điển Phạn văn hầu như biến mất; cho đến thế kỷ
19, một số ít được phát hiện từ những di tích đổ nát bởi các nhà du
khảo và khảo cổ. Số tìm lại được thật quá ít so với những gì đã mất mát. Thật
là phước đức cho những người học Phật ngày nay, một số kinh điển trong
số bị mất chưa tìm lại được nhưng đã được Pháp sư chuyển dịch Phạn
Hán. Những bản dịch Phạn Hán này bao gồm các Kinh, các Luận điển và
các Luận thư của các bộ phái, các hệ A-tì-đàm và Đại thừa, với
các luận thuyết tâm lý học, siêu hình học hay hình nhi
thượng, các hệ luận lý học từ luận lý hình thức cho đến luận
lý biện chứng và siêu nghiệm. Đặc biệt khi mà tâm lý học
tách rời với triết học, bằng các phương pháp luận, từ nội quan,
thực nghiệm, cho đến phân tâm học, khoa học não, đã góp phần thực
tiễn cho các khảo cứu tâm lý ứng dụng trong nhiều
ngành học thuật, thăm dò những tầng sâu thẳm, uẩn áo trong
các hoạt động của tâm thức, tìm ra những phương
pháp tâm lý trị liệu, cùng với các trị liệu khác hầu mong
chữa trị những căn bệnh thời đại, thời đại của những phát kiến
khoa học ngoạn mục nhưng cũng chứa đầy những ưu tư, những bất
an xã hội. Trong bối cảnh xã hội ấy, những bản dịch Phạn Hán của Pháp
sư, đặc biệt là các nguồn Phạn bản từ A-tì-đàm cho đến Du-già
hành hay Duy thức, là những nguồn tư liệu phong phú cho phép mô
tả các hoạt động cũng như các hiện tượng tâm lý từ
quá trình nhận thức khi tâm thức tiếp nhận kích thích ngoại
giới dẫn đến nhận thức đúng hay sai, chánh kiến hay tà
kiến, kéo theo hậu quả tư duy giáo điều, cố chấp, đa phần
có kết quả đáng buồn, gây tổn hại cho chính mình, cho nhiều người,
cho cộng đồng mà ta sống trong đó.
Dân tộc Việt Nam học
và hành theo giáo lý Phật thuyết trên dưới hai nghìn năm trước
khi Pháp sư Huyền Tráng quy Phật cũng trên sáu thế kỷ, tuy
vậy cho đến nay chúng đệ tử Phật, xuất gia cũng
như tại gia, biết đến công hạnh của Ngài rất ít, và cũng biết rất
ít di sản Kinh Luận của Ngài cho Phật tử Việt nam học
và hiểu giáo pháp của Đức Thế Tôn một cách chân chính để hành
trì chân chính. Bản dịch Đại Đường Tây vực ký của Hòa Thượng Như
Điển với sự đóng góp của Cư sĩ Nguyễn Minh Tiến bổ túc cho sự thiếu
sót này. Từ những hiểu biết để thán phục, kính ngưỡng một Con
Người vĩ đại, hãn hữu, trong lịch sử văn minh tiến bộ của nhân
loại, một vị Cao Tăng thạc đức, với nghị lực phi thường, tín
tâm bất hoại nơi giáo lý giải thoát, một thân đơn độc quyết vượt
qua sa mạc nóng cháy mênh mông để tìm đến tận nguồn suối Thánh
ngôn rồi thỉnh về cho dân tộc mình cùng thừa hưởng nguồn pháp
lạc. Không chỉ cho dân tộc mình mà cho tất cả những ai mong cầu giải thoát chân
chính.
Đây là điều mà những
vị đã góp công đức cho bản dịch được hoàn thành như mong
ước. Mong ước rằng, những vị đọc bản dịch này cũng sẽ tìm thấy trong
đây nguồn cảm hứng để từ đó tự mình tìm thấy con đường đi chân
chính, vì an lạc cho chính mình, cho nhiều người, trong đời này
và trong nhiều đời sau.
Nay kính giới
thiệu.
Tuệ Sỹ
Phật lịch 2565
Mồng hai 2 tháng chạp
năm Tân Sửu
Dương lịch:
04.01.2022
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét