Nữ hoàng Võ Tắc Thiên |
Luận anh hùng – VÕ TẮC THIÊN
3. Mũ hoàng đế dệt bằng máu
Dù đã chuẩn bị nhiều lần như vậy, việc
Võ Tắc Thiên muốn làm hoàng đế, không phải là việc dễ.
Theo lý, sau khi hoàng đế băng hà ngôi
báu sẽ do hoàng tử kế vị. Võ Tắc Thiên có bốn người con, có ba người từng là
thái tử. Người thứ nhất là Lý Hoằng. Từ tháng giêng năm Hiển Khánh thứ nhất
(năm 656), Lý Hoằng được phong là thái tử, nhưng Lý Hoằng đã mất vào tháng tư
năm Thượng Nguyên thứ hai (năm 675). Nhiều người nói, Lý Hoằng đã bị Võ Tắc
Thiên hại chết. Đã chết thì làm gì còn người để đối chứng, huống hồ sức khỏe của
vị thái tử này vốn cũng rất tồi, ngay vào năm được phong là thái tử, Lý Hoằng
đã ốm nặng, "ngự y đã phải bó tay". Vào năm Hàm Hanh thứ hai (năm
671) Lý Hoằng được giao quyền giám quốc, nhưng vì nhiều bệnh, nên bọn Đới Chí Đức
đã phải giải quyết việc triều chính. Vì vậy, có thể coi là Lý Hoằng ốm chết.
Vị thái tử thứ hai là Lý Hiền. Lý Hiền
được lập vào năm Thượng Nguyên thứ hai (năm 675), bị phế vào năm Vĩnh Long thứ
nhất (năm 680). Việc Lý Hiền bị phế vẫn còn là một nghi án. Chúng ta chỉ biết
hai mẹ con họ rất hay nghi ngờ lẫn nhau. Có người cho là Lý Hiền đã tổ chức
danh Nho chú giải "Hậu Hán thư", luôn nói về hậu phi, ngoại thích can
dự chính sự, phạm vào điều kiêng kỵ của Võ Tắc Thiên; cũng có người nói, điều
cơ bản vì Lý Hiền không phải con đẻ của Võ Tắc Thiên, mà là con riêng của Lý Trị
và chị gái của Võ Tắc Thiên, là Hàn Quốc phu nhân. Tóm lại, Lý Hiền bị tố giác
là mưu phản, người ta tìm thấy binh khí và hàng trăm bộ giáp phục trong cung điện
của Lý Hiền. Vị thái tử đáng thương này bị phế thành thứ dân và chết ở Ba Châu
vào năm Tự Thánh thứ nhất (năm 684).
Chứng cứ là hàng trăm binh khí và giáp
phục, e chưa đủ. Với số vũ khí trang bị ít ỏi, có thể mưu và phản cái gì? Vì vậy,
số chứng cứ "xác thực" đó khác gì hình người gỗ tìm thấy trong cung
Vương hoàng hậu. Hoàn toàn có hai khả năng. 1. Võ Tắc Thiên sai người làm. 2. Một
người khác đã làm, mong hai mẹ con họ sẽ đấu nhau, mình là ngư ông được lợi.
Nhưng nếu Võ Tắc Thiên không hề nghi ngờ đứa con của mình, thì làm sao có thể
gài tang vật vào cung điện. Hơn nữa, nếu đó là vật Lý Hiền giấu riêng, cũng sẽ
không dẫn đến hậu quả nghiêm trọng như vậy. Thực tế thì, nếu Võ Tắc Thiên không
có ý phế thái tử thì sẽ không có người đứng ra tố cáo thái tử, càng không có ai
dám đến khám xét phủ đệ của thái tử. Rõ ràng, Lý Hiền đã phải chết vì bị Võ Tắc
Thiên nghi ngờ.
Không có bất kỳ một chứng cứ chứng
minh Võ Tắc Thiên hãm hại thái tử Hiền, hại chết thái tử Hoằng. Nhưng có thể khẳng
định, Võ Tắc Thiên nghi kỵ, thậm chí là thù hận hai đứa con của mình. Vì lúc đó
quần thần trong triều đều coi trọng hai vị thái tử này. Lý Trị từng nói với các
vị thần: "Hoằng nhân hiếu, coi trọng đại thần, xưa nay chưa từng có".
"Tư Trị thông giám" cũng nói, Lý Hoằng nhân hiếu, biết giữ lễ,
"được trên quý mến" và "trong ngoài kỳ vọng". Đương nhiên,
Võ Tắc Thiên không thích điều đó. Võ Tắc Thiên hy vọng, trong ngoài luôn kỳ vọng
ở mình, không phải ở bất kỳ người nào khác. Vì vậy, Lý Hoằng đột nhiên qua đời,
khi đó có người nghi là chính Võ Tắc Thiên đã hại chết con mình - "Người
thời đó cho là Thiên hậu đã giết người bằng rượu độc".
Sau khi Lý Hoằng mất, mọi người lại
chuyển sang ủng hộ Lý Hiền. Vì khi đó, mọi người đều thấy rõ, dã tâm của Võ Tắc
Thiên là không nhỏ, từ lâu Lý Trị đã buông lơi quyền lực. Hơn nữa, sức khỏe của
Lý Trị đã suy sụp, tính cách lại nhu nhược, dù muốn đoạt lại chính quyền, chỉnh
đốn triều cương cũng không làm được. Vì vậy, mọi người mới hỵ vọng vào thái tử
mới. Và Lý Hiền cũng không phụ lòng mong mỏi của họ. Lý Hiền dung mạo tuấn tú,
cử chỉ đoan trang, từ nhỏ đã thích đọc sách, đọc xong là nhớ. Lý Hiền còn chủ
trì việc chú giải "Hậu Hán thư", trình độ cao, đến nay vẫn đầy quyền
uy. Danh tiếng Lý Hiền nổi như cồn. Triều đình đã nhất trí cho rằng, Lý Hiền sẽ
thừa kế ngôi lớn, làm chủ nhà Đường. Thậm chí Lý Trị còn nói với Lý Thế Tích:
"Đứa trẻ này rất nghiêm minh, không hổ là tài năng dựng nên nghiệp lớn".
Nếu mấy đứa khác đều được như Lý Hiền thì "Đại Đường hết phải lo!".
Đại Đường hết lo, Tắc Thiên lại lo. Võ
Tắc Thiên tùng nếm mùi độc chiếm đại quyền, nên không thích có người cầm gậy
trên đầu mình. Vừa khéo lúc đó lại có án Minh Sùng Nghiêm bị giết. Minh Sùng
Nghiêm là kẻ luôn giả thần giả quỷ để chữa bệnh cho mọi người, nghe đâu hắn
cũng có biết một chút ma thuật. Nghiêm từng nói với Võ Tắc Thiên, thái tử Hiền
tướng mệnh không tốt, không thể kế thừa, nên lập người khác như Anh vương Lý Hiển
hoặc Tương vương Lý Đán. Sau này, Minh Sùng Nghiêm bị người khác giết mộr cách
rất thần bí. Nhân viên xét án liền cho bắt Triệu Đạo Sinh để xét hỏi. Sinh là đối
tượng đồng tính luyến ái với Lý Hiền. Sinh khai, Lý Hiền đã mua chuộc và sai bọn
đạo tặc đến giết. Mọi tình tiết của vụ án đều hết sức chặt chẽ, không có sơ hở.
Nhưng có thể khẳng định: Hoặc một tay Võ Tắc Thiên đã tạo ra án oan này, hoặc
Võ Tắc Thiên đã lợi dụng án Minh Sùng Nghiêm, rồi tác động thêm. Và Võ Tắc
Thiên đã đạt được mục đích.
Có thể, Lý Hiền nên đọc sách ít đi một
chút. Lý Hiền không nên cướp mất vở diễn của Võ Tắc Thiên khi Võ Tắc Thiên đang
muốn làm đẹp vai diễn của mình. Lý Hiền chỉ biết thái tử có thể là hoàng đế,
nhưng chưa biết ngay cả hoàng đế cũng có thể bị phế bỏ, huống chi chỉ là thái tử?
Lý Hiển là vị thái tử thứ ba, đã bị phế
khi còn ở ngôi hoàng đế. Thằng cha này là kẻ khốn nạn, là bao cỏ. Lý Hiển nhút
nhát, háo sắc, sợ vợ, kém cỏi hơn cả cha mình. Lý Trị tuy có yếu đuối một chút,
nhưng xưa nay vẫn là người tự biết mình, luôn thận trọng thoả đáng trong đối
nhân xử thế, vì vậy mới có một ít uy vọng. Ngược lại, Lý Hiển không biết được
mình nặng nhẹ mấy cân mấy lạng. Vừa lên đài được vài hôm, ngồi chưa nóng chỗ,
đã vội bợ đỡ nghe theo vợ, muốn để bố vợ là Vi Huyền Trinh làm tể tướng. Tể tướng
Bùi Viêm không bằng lòng, vị hoàng đế hồ đồ kia liền nói: "Đất nước là của
trẫm, trẫm muốn cho ông ta cả thiên hạ thì có gì là ghê gớm, huống hồ chỉ là để
ông ta làm thị trung?". Điều đó, không chỉ làm Võ Tắc Thiên bực bội, không
thể dung, mà những người khác cũng hết cách để tiếp nhận. Hơn nữa đây còn là lời
nói tức giận, nên nhẫn nhịn sao được. Vì vậy, anh chàng này chỉ làm hoàng đế được
vài tháng, đã bị Võ Tắc Thiên và Bùi Viêm lôi ra khỏi bảo toạ.
Trên thực tế, Lý Hiển cũng không thể
coi là vua. Năm Thần Long thứ nhất (năm 705), sau khi Võ Tắc Thiên thoái vị, Hiển
lại làm hoàng đế, cuối cùng thì chết oan. Vì Vi hoàng hậu muốn học theo mẹ chồng
làm nữ hoàng, con gái là công chúa An Lạc muốn làm hoàng thái nữ. Họ hợp mưu
cho thuốc độc vào bình rượu, nhằm đưa vị hoàng đế kia đến Tây Thiên. Truy Tông
Lý Hiển - con dê đuôi to, đầu óc ngu muội, đem cả đời mình gửi vào ba người đàn
bà yêu quý nhất: Mẹ ruột Võ Tắc Thiên, vợ yêu Vi hoàng hậu và con gái cưng Lý
Quả Nhi. Thực dễ hiểu, dẫu Võ Tắc Thiên không phế hắn thì hắn cũng không thể là
hoàng đế tử tế được.
Hoàng đế kế tiếp là Duệ Tông Lý Đán một
người thông minh. Lý Đán dứt khoát không lên triều, mọi việc triều chính giao hết
cho mẫu hậu xử lý, nói mình còn ít tuổi, chưa hiểu việc (năm đó Đán hai mươi
hai tuổi), mình vô đức vô tài, chưa thể nắm được việc nước. Hai năm sau, Võ Tắc
Thiên đề xuất trả lại ngôi vị cho Lý Đán, Đán khấu đầu, chịu chết chứ không nhận.
Việc đã đến nước này thì sớm hay muộn, Võ Tắc Thiên cũng phải tìm người khác
thay cho Lý gia.
Nhưng Võ Tắc Thiên cũng
chẳng vội vàng đội lên đầu chiếc mũ hoàng đế.
Võ Tắc Thiên không phải là người nhẹ dạ
manh động (đó là một trong những nguyên nhân quan trọng khiến bà thành công).
Bà thừa hiểu, việc mà bà muốn làm là việc xưa nay, dưới gầm trời này chưa hề
có. Ở Trung Quốc, xưa nay chưa hề có người đàn bà nào là hoàng đế, là nữ mà chấp
chính nắm quyền đã là "bất hợp pháp". Muốn vậy, cần có vật đệm, có
chuẩn bị, làm cho mọi người thay đổi cách suy nghĩ và cũng cần biết nhẫn nhịn,
chờ đợi, nhìn trước ngó sau. Võ Tắc Thiên có thể làm được như vậy, bà nhẫn nại,
biết kìm nén, nhưng không thể chờ đợi quá lâu, vì bà đã sáu mươi mốt tuổi.
Thực tế thì tình hình lúc đó cũng
không cho phép bà được nhàn nhã, nhìn trước ngó sau. Đấu tranh về quyền lợi,
xưa nay vẫn là cuộc đấu tranh một sống một chết, nhất là thay triều đổi đại,
càng không phải là thêu hoa dệt gấm. Sau khi Cao Tông qua đời, đế vị bị bỏ trống
đã thành vấn đề hết sức nhạy cảm, vở diễn treo đầu dê bán thịt chó đã hết thời.
Võ Tắc Thiên đứng trước hai lựa chọn: Nên chăng trả lại chính quyền cho con, để
con Lý Trị đi bán thịt dê; hay trưng biển hiệu cửa hàng Võ gia, công khai bán
thịt chó. Võ Tắc Thiên rất hiểu, mọi người đang chờ xem bà trộn bài, thậm chí
còn rất nhiều người đang mài dao, trừng trừng nhìn bà bằng mắt hổ.
Người thứ nhất công khai nhảy ra thách
đấu với Võ Tắc Thiên là Từ Kính Nghiệp. Ngày hai mươi chín tháng chín năm Tự
Thánh thứ nhất (năm 684) cũng tức là hơn bảy tháng sau khi Trung Tông Lý Hiển bị
phế, hơn sáu tháng sau khi Chương Hoài thái tử Lý Hiền tự sát, Từ Kính Nghiệp cất
quân ở Dương Châu, tuyên bố sẽ lật đổ "nguỵ chính quyền" của Võ Tắc
Thiên bằng vũ lực. Từ Kính Nghiệp là cháu của Lý Thế Tích. Lý Thế Tích được
Thái Tông hoàng đế ban họ Lý, lúc đó, Từ Kính Nghiệp cũng được gọi là Lý Kính
Nghiệp, có điều, lúc này Lý Kính Nghiệp đã trở mặt với Võ Tắc Thiên, Võ Tắc
Thiên liền phẫn nộ tuyên bố Kính Nghiệp không còn tư cách là họ Lý. Từ Kính
Nghiệp cũng thẳng thắn tuyên bố, để chú là Lý Tư Văn (hiện đã bị Kính Nghiệp bắt)
đã không chịu cùng Kính Nghiệp khởi binh đánh Võ Thị mang họ Võ. Xem ra, Từ
Kính Nghiệp và Võ Tắc Thiên đã giống nhau về điểm này. Lý là họ của hoàng gia,
họ cao quý, lẽ nào lại để cho "tên giặc" mang họ đó? Lý Kính Nghiệp
phản bội triều đình, đương nhiên là nên mang họ Từ; Lý Tư Văn đã theo chân Võ
Thị, nên cứ để cho Tư Văn mang họ độc ác ti tiện là Võ Tư.
Việc tranh giành họ là việc đáng buồn
cười ở ngày nay, nhưng lúc đó lại là việc rất nghiêm túc. Cả hai bên đều tuyên
bố với cả nước, để tỏ mình là đường đường chính chính. Kỳ thực, Từ Kính Nghiệp
mang họ gì đều không quan trọng, điều quan trọng là, hành động lần này của Kính
Nghiệp, hình như vừa mở đầu đã có dấu hiệu thất bại. Ngay từ đầu, Kính Nghiệp
đã không có chuẩn bị về tư tưởng, tổ chức, quân lính và tài chính, chỉ là mấy vị
quan thất ý, mấy văn nhân lạc lõng, sau khi tụ lại với nhau đã ầm ĩ, khẳng khái
trần rình và vội vã khởi binh, nói mạnh rằng, sẽ lật đổ cả thiên hạ, như vậy
thì thất bại là đúng.
Nhưng Từ Kính Nghiệp đã không nghĩ tới
những điều đó. Mở đầu, Từ Kính Nghiệp rất vênh váo. Từ Kính Nghiệp mời Lạc Tân
vương viết hịch văn, mắng mỏ chửi rủa Võ Tắc Thiên, tuyên truyền cổ động bàn
dân thiên hạ. Lạc Tân Vương không hổ là một trong "Sơ Đường tứ kiệt",
văn phong thực kỳ lạ. Lạc Tân vương là người bất đắc chí, u uất lâu ngày, bị phẫn
cộng với thù riêng, nộ khí từ hịch văn bốc lên ngùn ngụt, khiến trời sầu đất thảm,
quỷ thần phải rơi lệ. Dưới ngòi bút của Lạc Tân vương, Võ Tắc Thiên là loại người
chẳng ra gì, bản tính bất lương (không hoà thuận), xuất thân ti tiện (thực chất
là hàn vi), che giấu lịch sử (giấu việc vụng trộm trước tiên đế), trà trộn vào
cung Cao Tông (mưu toan thành người được o bế ở hậu phòng). Vừa vào cung đã lộ
đuôi con hồ lỵ (mọi người ghen ghét, người đẹp không nhường; khép nép gièm pha,
hồ mị mê hoặc chủ). Một khi có quyền lực là bản tính lang sói lộ ra (cặp kè kẻ
xấu, tàn hại trung lương, giết em hại anh, giết vua hại mẹ). Thực là vô cùng ác
độc, không thể tha, lẽ ra trời đất phải tru diệt từ lâu rồi (nhân thần đều
ghét, trời đất không dung)! Huống chi, lúc này Võ Tắc Thiên đang mưu đồ lật đổ
Đại Đường, hòng cướp đế vị, khiến linh hồn tiên đế không được yên nghỉ, các con
yêu của tiên đế không được yên thân (một tảng đất chưa khô, đứa con côi cút sáu
thước, biết gửi gắm cho ai), đúng là "chuyện này có thể nhẫn nhịn, thì còn
có chuyện gì không nhịn được nữa đây" (tột cùng của sự nhẫn). Từ Kính Nghiệp
là "cựu thần hoàng Đường, con trưởng của công hầu", đã "thờ tiên
quân để thành nghiệp", lại "nhận hậu ân của triều đình", đương
nhiên không thể thấy chết không cứu, buông tay ngồi nhìn. Để "thuận theo
lòng người, hợp ý thiên hạ", Kính Nghiệp giương cao ngọn cờ chính nghĩa, tập
kết vũ trang trừ yêu. Đây thực là một lực lượng hùng mạnh! "Nam liền Bách
Việt, bắc tận sơn hà, thiết kỵ thành đàn, cơ giới liên tiếp". Đấy thực là
đạo quân uy vũ! "Tiếng người đông làm nổi gió bắc, mũi kiếm sác đã bình miền
nam, lời thì thầm làm tuyết tan trên đỉnh núi, tiếng la thét làm gió mây phải đổi
màu". Một lực lượng không ai thắng nổi (lấy đó đánh địch, địch nào không
lui). Một đội quân như vậy sẽ không có đối thủ (lấy đó đánh thành, thành nào
không đổ). Mong được thắng lợi thì thắng lợi đã rõ ràng. Không tin, "thử
xem, nay trong thành, thiên hạ là của nhà nào!".
Đây đúng là bài hịch văn tinh tế nhất,
xuất sắc nhất trong lịch sử Trung Quốc, lời hịch đanh thép, khí thế ngời ngời,
ngay cả Võ Tắc Thiên, đọc xong cũng vỗ bàn khen hay, một nhân tài như thế này
mà chưa được phát hiện, thực là "sai lầm của rể tướng". Phản quân của
Từ Kính Nghiệp tự nhiên được hời, thành quân của người nhân, quân chính nghĩa,
quân uy vũ, quân thắng lợi. Đáng tiếc, vũ khí phê phán không thể thay cho phê
phán bằng vũ khí. Đội quân ô hợp Từ Kính Nghiệp tạm có được không thể là đối thủ
của thiên binh vương triều. Chỉ qua mấy hiệp đã bị đánh cho tơi bời khói lửa,
phải trốn chạy.
Kỳ thực, vết tích bại trận của Từ Kính
Nghiệp đã hiện rõ ngay trong lời hịch của Lạc Tân vương. Trong lời kết của hịch
văn Từ Kính Nghiệp có hứa: "Cùng chỉ sơn hà, sẽ thưởng tước vị". Ý muốn
nói, Từ mỗ xin đảm bảo với mọi người, chỉ cần các vị tham gia hành động của Từ
mỗ, vậy, sau khi thành công, mọi tước vị sẽ được phong thưởng, lúc này có thể
chỉ sơn hà làm tư. Khẩu khí như vậy, là cả miền núi sông rộng lớn này, lúc đó
đã trở thành của Từ Kính Nghiệp, đây chính là cuồng vọng, kiêu binh tất bại?
Chưa nói tới chuyện, lúc đó thắng bại còn chưa rõ, và dù tương lai có thắng lợi,
quan tước không phải một mình Từ Kính Nghiệp phong, ân vinh cũng không phải một
mình Từ Kính Nghiệp thưởng, về mặt lý luận, đó là việc của hoàng thượng. Bằng
khẩu khí của hoàng đế, Từ Kính Nghiệp đã nói như vậy, chẳng phải đã để lộ dã
tâm của lang sói, muốn xưng vương, xưng đế? Từ Kính Nghiệp tiến đánh Võ Tắc
Thiên, nếu nói ít nhiều có chút khả năng thắng lợi, như vậy mới có được chữ
"nghĩa". Lúc này đã lấy lợi thay nghĩa, vốn chính trị đã mất, còn lại
tự chuốc lấy diệt vong.
Thực tế thì Từ Kính Nghiệp bại chính
là bại ở điểm này. Quân sư Nguỵ Tư Ôn từng nói với Từ Kính Nghiệp, chúng ta phải
lấy việc giúp vua, khôi phục Đường thất để hiệu triệu, cần phải trực tiếp lấy Lạc
Dương, tranh thủ để người thiên hạ vùng lên hưởng ứng. Nhưng Từ Kính Nghiệp vẫn
không thể chống lại sự cám dỗ của cái gọi là "Kim Lăng vương khí" và
căn cứ địa xưng vương, không chịu đánh về hướng bắc, lại cho quân tiến về hướng
đông. Kết quả, bị bại trận, trên đường chạy về phía Cao Lỵ, liền bị bộ hạ giết
chết. Từ Kính Nghiệp chỉ âm ỉ được chừng bốn, năm mươi hôm rồi thân bại danh liệt,
chỉ có thể nói là đáng đời.
Trước lúc Võ Tắc Thiên loại bỏ tư cách
họ Lý của Từ Kính Nghiệp một hôm, tức là ngày mười tám tháng mười năm Tự Thánh
thứ nhất, tể tướng Bùi Viêm bị chém oan và cũng không oan.
Bùi Viêm chết vì tội mưu phản. Chứng cứ
là Bùi Viêm có tiếp xúc với phần tử phản loạn là Lạc Tân vương, còn có thư từ
qua lại với Từ Kính Nghiệp. Nghe nói, để Bùi Viêm mang tội mưu phản, Lạc Tân
vương đã soạn một câu ca dân gian "nhất phiến hoả, lưỡng phiến hoả, phi y
tiểu nhi đương điện toạ", và giải thích là: "Phi y" là Bùi,
"nhất phiến hoả, lưỡng phiến hoả" là Viêm, "tiểu nhi" là Tử
Long (tự của Bùi Viêm), "đương điện toạ" rõ ràng là làm hoàng đế, như
vậy đã kích thích lòng dạ muốn phản của Bùi Viêm. Lại nghe nói, trong thư Bùi
Viêm gửi cho Từ Kính Nghiệp chỉ có hai chữ "thanh nga", Võ Tắc Thiên
đã đoán ra tháng mười hai (thanh), ngã tự dữ (nga)", tức là vào tháng mười
hai, Bùi Viêm sẽ phát động chính biến ở triều đình, hưởng ứng quân Dương Châu.
Tóm lại, theo cách nói đó, Bùi Viêm có động cơ phạm tội, sự thực có phạm tội,
chứng cứ rành rành, không cho phép giải thích, phải giết.
Kỳ thực, Bùi Viêm không cùng đường với
Từ Kính Nghiệp. Bùi Viêm cảnh giác với con người này, ông không muốn dây vào việc
Từ Kính Nghiệp muốn làm. Mục đích của Từ Kính Nghiệp, lật đổ Võ thị, tự xưng
vương. Mục đích của Bùi Viêm, buộc thái hậu thoái vị, hoàn trả chính quyền cho
Duệ Tông. Họ có điểm chung là lật Võ nhưng điểm khác nhau quá lớn. Bùi Viêm phản
đối vũ trang phản loạn, càng không muốn để Từ Kính Nghiệp trở thành vấn đề. Bùi
Viêm dự định cùng Trình Vụ Đỉnh tiến hành binh gián với Võ Tắc Thiên, giống như
lấy sự kiện của Trương Học Lương, Dương Hổ Thành đối với Tưởng Giới Thạch. Có
điều, Trương, Dương đã thành công, còn Bùi và Trình thì không thành. Nguyên
nhân không thành công vì vận khí không may. Họ định nhân lúc Võ Tắc Thiên du
ngoạn Long Môn "cho quân ra ép", buộc Võ Tắc Thiên phải trao trả
chính quyền. Chỉ vì hôm đó xấu trời, mưa liên miên, không thể thực hiện được kế
hoạch.
Vì vậy, lúc Từ Kính Nghiệp khởi binh ở
Dương Châu, có thể nói, Bùi Viêm có hai tâm trạng: "một là vui, hai là sợ".
Vui vì, cuối cùng đã có người công khai khiêu chiến với quyền uy của Võ Tắc
Thiên, có thể bà ta sẽ không thể độc quyền chuyên chế nữa. Sợ vì, một khi cuộc
chiến bắt đầu, sẽ rất khó để ổn định thời cuộc. Hơn nữa, chưa biết phải làm gì
để đối phó với hoàng thái hậu túc trí đa mưu hiện nay hoặc với Từ Kính Nghiệp nắm
trọng binh sau này. Nhưng đây là một cơ hội tốt trời ban, ngàn năm mới có một lần,
có thể ngồi chơi hương lợi, nên Bùi Viêm không thể bỏ mặc. Bùi Viêm quyết định
chơi ván bài này. Bùi Viêm liên nói với Võ Tắc Thiên: Hoàng đẽ tuổi cao, không
tự nắm chính trị, nên bọn phỉ mới có cơ làm càn. Nếu thái hậu trả lại chính quyền
cho hoàng thượng, thần cho rằng bọn phản quân không đánh cũng tan".
Bùi Viên chơi nước cờ hiểm. Bài tính
như ý của Bùi Viên như sau: Mình binh gián không thành, nay có thể mượn quần của
Từ Kính Nghiệp. Nay mượn quân của Từ Kính Nghiệp, buộc Võ Tắc Thiên phải hạ
màn, sau lại dùng quân của Võ Tắc Thiên ép Từ Kính Nghiệp phải nhận sai. Chỉ cần
thái hậu thoái vị, hoàng đế lên triều, hành động quân sự của Từ Kính Nghiệp sẽ
là ra quân vô danh, nếu cứ kiên trì tiếp tục sẽ là mưu phản. Lúc đó không nói
là "không đánh cũng tan", và dù có đánh thì cũng dễ dàng hơn nhiều.
Và bất luận là quân không đổ máu vẫn bình được phản loạn hay là không động can
qua vẫn thu được triều chính. Bùi Viêm luôn là anh hùng cái thế, danh thần ngàn
thu. Huống chi, cách nói của Bùi Viêm không phải là không có lý. Từ Kính Nghiệp
không có bụng phản Đường thì ngược lại, y sẽ ra quân dưới cờ hiệu hồi phục Đường
thất. Vậy, nếu hoàng đế trở lại triều chính, lẽ nào Từ Kính Nghiệp lại không cuốn
cờ, yên trống, phủ phục xưng thần?
Rất tiếc, không dễ gì gạt được Võ Tắc
Thiên. Bà không thay đổi sắc mặt còn cười thầm trong bụng: Trẻ tuổi lại dám giơ
ngón này với bà già! Không đánh cũng tan? Thiên hạ làm gì có phản tặc không
đánh cũng tan! Đại quân ra trận, chắc gì đã bình được! Bùi Viêm ngươi đầu óc tỉnh
táo, kinh nghiệm chính trị phong phú, lẽ nào không hiểu được điều đó? Lẽ nào
không thấy được mục đích thực của Từ Kính Nghiệp là "cùng chỉ sơn hà, sẽ
thưởng tước vị" sao? Dù ta có hoàn trả chính quyền cho hoàng đế, Từ Kính
Nghiệp lại sẽ mượn cớ "hoàn chính là giả"... để tiếp tục hưng binh
làm loạn. Xem ra, gọi là "không đánh cũng tan" là giả, muốn bà già
này hạ màn mới là thật. Chẳng trách ngươi chẳng hứng thú gì với việc đánh lại
phản tặc. Đối với loại ngươi này, Võ Tắc Thiên xưa nay chưa bao giờ nhẹ tay.
Bùi Viêm và Từ Kính Nghiệp chẳng phải nam bắc cùng hô ứng, một bên hát một bên
hò sao? Vậy được, dù ngươi là kẻ phụ hoạ, là kẻ nội ứng, hoặc giậu đổ bìm leo,
đục nước béo cò, bà già nay cứ giết ngươi trước, tránh hoạ ở kề bên, có tránh
cũng chẳng kịp. Cho nên, không một chút do dự, Võ Tắc Thiên đã đưa Bùi Viêm lên
đoạn đầu đài. Sau khi bình định phản loạn Dương Châu, Vỗ Tắc Thiên cho chém
Trình Vụ Đỉnh trước ba quân.
Án phản của Bùi Viêm đã chấn động cả
triều dã. Không mấy người tin Bùi Viêm mưu phản là thật. Vì ai cũng hiểu Bùi
Viêm bị bắt, theo lệ còn phải khám nhà. Nhưng thật lạ, đường đường là tướng phủ,
mà trong nhà sạch trơn, không có một thứ gì! Trình Vụ Đỉnh lại càng oan uổng. Một
đời là công thần, là danh tướng Đại Đường, Trình Vụ Đỉnh không những không mưu
phản mà luôn anh dũng tác chiến bảo vệ biên cương, quân thù nghe tên đã khiếp
vía, không dám xâm phạm. Sau khi Trình Vụ Đỉnh bị hại, tướng sĩ ngoài biên ải
đau đớn, khóc lóc, bên Đột Quyết thì vui sướng nhảy múa, bày tiệc chúc mừng. Võ
Tắc Thiên giết Trình Vụ Đỉnh, thực chất là một việc khiến người thân đau lòng,
kẻ thù khoái trá!
Thực tế, Bùi Viêm và Trình Vụ Đỉnh có
phản hay không, chỉ có hai người và Võ Tắc Thiên là hiểu rõ nhất. Tức là: Nếu
Võ Tắc Thiên không là hoàng đế, hoàn trả chính quyền cho Duệ Tông thì họ sẽ
không phản, nếu Võ Tắc Thiên ngang nhiên xưng đế, Bùi Viêm và Trình Vụ Đỉnh tất
sẽ phản. Có điều không ai muốn nói ra điều đó. Vì vậy, lúc có người khuyên Bùi
Viêm nhận tội xin tha, có thể sẽ được miễn tội chết, Bùi Viêm chỉ cười và lắc đầu,
nói: Tể tướng hạ ngục không hoàn toàn có lý, nói nhiều chỉ bằng thừa. Cũng vậy,
khi các đại thần trong triều đảm bảo là Bùi Viêm không phản, khi nói "Nếu
Bùi Viêm mưu phản thì chắc thần cũng mưu phán, Võ Tắc Thiên cũng chí cười, rồi
lắc đầu nói: Trẫm biết Bùi Viêm tất phản, còn khanh và những người khác sẽ
không phản. Rõ ràng hai bên đều hiểu nhưng không nói ra.
Chưa bàn tới án mưu phản của Bùi Viêm
có chứng cứ xác thực không, chỉ biết Bùi Viêm chết là bi kịch. Đối với Bùi Viêm
là bi kịch, đối với Võ Tắc Thiên cũng là bi kịch. Bởi vì họ đều không
"sai", nhưng đều phải trả giá, là một tổn thất thê thảm, nặng nề. Bùi
Viêm đã phải chết vì chủ trương của mình, đó là: Chỉ có đàn ông mới được làm
hoàng đế và hoàng đế phải là con cháu Lý Thế Dân. Từ lễ giáo phong kiến, từ những
điều Bùi Viêm được học, như vậy là đúng, là "chính nghĩa", là
"chính đạo". Võ Tắc Thiên chủ trương: Kẻ mạnh là vua, chỉ những người
có năng lực mới có thể làm hoàng đế, bất kể đó là đàn ông hay đàn bà, là họ Lý
hay họ Võ. Về một góc độ khác, điều đó không sai, cũng là "chính
nghĩa", là "chính đạo". Kết quả Bùi Viêm và Võ Tắc Thiên có sự
xung đột về nhận thức, thế nào là "chính nghĩa", "chính đạo"
và cả hai bên đều phải trả giá: Bùi Viêm mất mạng, Võ Tắc Thiên mất danh thần,
danh tướng, ngang như tự chặt đi tay trái, tay phải của mình.
Có điều, từ tận sâu thẳm
đáy lòng, Võ Tắc Thiên cảm thấy cần phải cảm ơn Bùi Viêm.
Nếu nói, cuộc phản loạn ngắn ngủi của
Từ Kính Nghiệp đã tăng thêm lòng tin của Võ Tắc Thiên, trên đời này không có việc
gì là không làm được, thì cuộc chính biến không thành của Bùi Viêm đã nhắc nhở
Võ Tắc Thiên luôn phải cẩn thận, không bao giờ được sơ suất để mất Kinh Châu.
Đường đi không bằng phẳng, tiền đồ không thuận buồm xuôi gió, nguy cơ bốn phía,
hiểm hoạ khắp nơi. Từ Kính Nghiệp phản loạn rõ ràng là không được lòng dân
(đúng như Trần Tử Ngang - người thời đó, nói: "Dương Châu phản nghịch
trong vòng năm tuần, cả nước lại yên, mọi việc đâu vào đấy"), còn việc
mình lâm triều xưng chế cũng bị rất nhiều người phản đối (cũng đúng như trọng
thần Lưu Y Chi từng nói: "Thái hậu đã phế hôn lập minh, còn lâm triều xưng
chế! Chi bằng trả chính để yên lòng thiên hạ"). Xem ra, sự tàn sát, tra
xét nghiệt ngã trong Lý Đường tông thất không phải là điều đáng sợ, mà lễ pháp
truyền thống mới là kẻ thù ương bướng khó có thể chiến thắng. Nghĩ lại năm đó,
trong hoàn cảnh phi thường, Tào Tháo đã làm được việc phi thường, là "ép
thiên tử để lệnh chư hầu", nay Võ mỗ, trong lúc bình thường muốn làm việc
phi thường, cần có hành động phi thường. Hiển nhiên, đối với Võ Tắc Thiên, con
đường đi tới đế vị là con đường được lát bằng xương bằng máu. Chiếc mũ trên đầu
nữ hoàng cũng được dệt bằng máu tươi. Bà không thể chờ để ai đó va vào họng
súng. Bà cần tạo ra sự khủng bô giết người để răn đe, người người đâu vào đấy,
người người im thin thít.
Lúc này, Võ Tắc Thiên hiểu rằng mình
đang làm một cuộc cách mạng vĩ đại, long trời lở đất. Vào thời cổ Trung Quốc,
cách mạng có nghĩa là thay triều đổi đại, tức là biến cách thiên mệnh",
như Ân cách mệnh Hạ, Chu cách mệnh Ân... Cho nên sách "Chu Dịch" nói:
"Thang, Vũ cách mệnh là thuận ý trời, hợp lòng người". Có điều,
Thương Thang cách mệnh cũng hay, Châu Vũ cách mệnh cũng tốt, nhưng cuộc cách mệnh
của Võ Tắc Thiên lại không hề giống vậy. Chuyện trước xảy ra lúc vương triều cũ
đã tàn tạ, chuyện sau xảy ra lúc vương triều mới còn đang hưng thịnh; chuyện trước
là đàn ông một gia tộc thay thế đàn ông một gia tộc khác, chuyện sau là người
đàn bà muốn cướp thiên hạ của đàn ông; chuyện trước là thông qua vũ trang cướp
chính quyền, chuyện sau là làm chính biến nơi cung đình. Rõ ràng khó khăn của
Võ Tắc sẽ càng nhiều và có "thuận ý trời hợp lòng người" hay không
cũng là vấn đề lớn. Nhưng Võ Tắc Thiên là người đàn bà có nữ tính vĩ đại, không
sợ trời không sợ đất, không tin ma không sợ thua, ngay cả trăng sao nhật nguyệt
cũng coi như không (chữ Chiếu gồm ba chữ nhật, nguyệt, không). Nếu Thượng đế
không cho bà cách mệnh, bà sẽ cách luôn cả mệnh của Thượng đế. Nếu ông trời
không cho bà bầu không khí cách mệnh, bà sẽ tự tạo ra. Nếu mọi người đều không
tán thành bà cách mệnh, bà sẽ làm cho mọi người không dám mở miệng. Tóm lại, bà
sẽ tạo ra một bầu không khí chính trị, để mọi người đều hiểu rằng, chống lại bà
là việc làm vô ích.
Và với lý lẽ hùng hồn, Võ Tắc Thiên đã
thực hiện cách cai trị bằng hệ thống khủng bố, đặc vụ. Bộ phận hạt nhân của nền
chính trị và cách thống trị này là chế độ cáo mật, tập đoàn khốc lại và án oan,
giả, sai. Tạo ra án oan, sai, giả, vu cáo hãm hại địch thủ chính trị, những người
mình không thích là mưu phản. Đây là kỹ xảo một số nhà chuyên chế độc tài quen
dùng. Lưu Bang đã dùng, Tào Tháo đã dùng, đương nhiên Võ Tắc Thiên cũng có thể
dùng. Võ Tắc Thiên khác ở chỗ, công khai và phổ biến, khích lệ việc cáo mật, sử
dụng bọn quan lại tàn ác (khốc lại), tạo ra vô số những án oan, sai, giả. Có lẽ
rất ít người làm được như Võ Tắc Thiên, khích lệ công khai việc cáo mật. Võ Tắc
Thiên quy định, không ai được phép ngăn cản người cáo mật. Dù người đó là tiều
phu hay nông dân, đều có thể đến kinh thành gặp hoàng đế, nói ra những điều cần
nói. Họ được quan phủ lo xe ngựa, dọc đường được đãi ngộ ở mức quan ngũ phẩm,
sau khi vào kinh được ở khách sạn của các quan, cơm nước theo chế độ nhà quan,
hơn nữa, còn có thể được Võ Tắc Thiên đến gặp mặt và ban thưởng. Điều quan trọng
là: Khi phát hiện không đúng, cũng không sao, không hề bị xử lý.
Đây là vụ buôn bán không mất vốn, chỉ
có lời, nên ai cũng muốn làm. Chỉ với hai việc, đến kinh thành bằng tiền công,
dọc đường được hưởng chế độ quan ngũ phẩm, đã thật đáng giá. Thế là, cáo mật từ
bốn phương như ong bay tới, các đại thần trong triều luôn thấy bất an. Hàng
ngày, Võ Tắc Thiên luôn đọc những thư cáo mật, luôn thấy thích thú, luôn vui vẻ
nên không thấy mệt, thư cáo mật giúp Võ Tắc Thiên có được nhiều manh mối, khiến
bà có thể nhìn thấy mọi động tĩnh trong triều cũng như trong xã hội. Điều đó,
làm cho bà lúc nào cũng sung sướng, cười vui ngoài sức tưởng tượng. Không bao
giờ bà quên, vì tình báo không sắc bén, nên bọn Từ Kính Nghiệp từng có nhiều âm
mưu quỷ kế mà triều đình không hề hay biết, tận khi bọn họ tập kết mười vạn
binh mã công thành cướp đất, ai nấy mới kinh hoàng thất sắc, vội vàng chống đỡ.
Võ Tắc Thiên cũng không hề quên, chính nhờ có người cáo mật Bùi Viêm, dự mưu
binh biến, nên Bùi Viêm mới phải chết trong chiếc nôi của mình. Đối với một nhà
độc tài thì cáo mật là việc rất hay.
Vì vậy, Võ Tắc Thiên quyết định trọng
thưởng những người cáo mật và chọn được một loạt quan lại tàn ác trong số những
người cáo mật. Sở dĩ phải chọn số đó trong những người cáo mật vì sợ họ không
chịu làm những lá thư bức cung. Không có thư bức cung thì không thể biến thư
cáo mật thành án, không thể đưa phái phản đối vào chỗ chết. Sau khi đã nếm vị
ngọt ngào của thư cáo mật, Võ Tắc Thiên thấy không thoả mãn nếu chỉ bằng thủ đoạn
này để có được tình báo. Võ Tắc Thiên còn muốn, thông qua cách xử lý tất cả số
thư cáo mật, để biến tất cả thành án oan, có như vậy, phái phản đối mới ngã hết;
và cho thêm một đạp nữa, để chúng sẽ mãi mãi không gượng dậy nổi. Chỉ khi nào,
từng bản án "nghe qua đã kinh người" được tiết lộ ra ngoài mới có thể
chứng minh được lập chế độ cáo mật là hoàn toàn cần thiết và rất kịp thời. Vậy
cần thiết phải có lũ quan tàn ác. Loại người này xuất thân ra sao, có đọc sách
không, có học vấn, có hiểu pháp luật không, đều không quan trọng. Điều quan trọng
là, phải biết nhìn sắc mặt của Võ Tắc Thiên, phải là kẻ ti tiện và độc ác.
Càn Lăng của Võ Tắc Thiên là một trong những lăng mộ
còn nguyên vẹn nhất cho đến hiện nay
Rõ ràng, chế độ cáo mật, tập đoàn khốc
lại, án oan sai giả, ba thứ này phải thành một chuỗi liên hoàn. Có người đứng
ra cáo mật, liền có tình báo và manh mối, và cũng sẽ có cớ có lý do để trị người;
có người bổ sung vào khốc lại, lời tố cáo của kẻ mật báo mới có thể "coi
là thật" và mới có thể tạo thành án oan sai giả, mới có thể lu loa thành
"đất nước đang bị uy hiếp", từ đó chế độ cáo mật, tập đoàn khốc lại mới
được coi là hợp lý, hợp pháp. Dĩ nhiên, sự an toàn của đất nước đang bị uy hiếp
nghiêm trọng, nên càng phải khích lệ cáo mật, trọng dụng khốc lại. Như vậy,
tính chất ác độc, không khí khủng bố cũng được hình thành một cách tự nhiên. Thực
ra thì đất nước đâu có bị uy hiếp đến thế. Có thể là, thần kinh Võ Tắc Thiên
quá mẫn cảm hoặc chỉ là cái cớ để Võ Tắc Thiên giết người lập uy.
Và dù, những thủ đoạn đó cực kỳ ti tiện
vô sỉ, bẩn thỉu hạ lưu, nhưng lại rất có tác dụng. Thời gian đó, không hề có ai
dám bàn tán về công việc Võ Tắc Thiên làm, có chăng chỉ là những lời ca tụng
công đức, những lời bợ đỡ lấy lòng, những lá thư màu xanh tốt lành và những tờ
biểu xin bà lên ngôi đã tới tấp bay về cung bay đến bệ rồng như tuyết rơi. Sau
mấy lần vờ vĩnh chối từ, thì vào ngày mùng chín tháng chín năm Thiên Thụ thứ nhất
(năm 690) người đàn bà có dã tâm lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc đã được toại
nguyện, được đội lên đầu chiếc mũ hoàng đế dệt bằng máu. Năm này Võ Tắc Thiên
sáu mươi bảy tuổi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét