Thứ Sáu, 8 tháng 7, 2022

BA LẦN ĐI TÌM HỒ DZẾNH

 BA LẦN ĐI TÌM HỒ DZẾNH

Nguyễn Thị Ngọc Hải

 


1. GIỮA CHỢ ….KHÔNG AI HỎI?

Quái lạ, suốt bao nhiêu năm làm báo ở Hà Nội, bao nhiêu lần đạp xe qua phố Hòa Mã, mà sao mình không biết ở đó có nhà của thi sỹ Hồ Dzếnh?

Đó là câu hỏi có phần ngạc nhiên và ân hận, khi tôi xin được địa chỉ của nhà ông. Lúc này đã vào năm 1991 khi tôi đã chuyển vào Sài Gòn sống, lúc nào nghĩ về quê nhà xa xôi là liền nhớ về trên cái “gam“ nền những rung động buồn thương thuở thiếu thời ôm cuốn “Chân trời cũ “ …

Mà chợt nhớ ra, những năm tháng sống ở Hà Nội ấy không biết mình từng đi qua cửa nhà Hồ Dzếnh cũng phải. Thời đó nắng to lên một cái là đạp xe như ma đuổi, chạy cho nhanh xa những phố phường gần nhà máy, trận địa cao xạ. Hay đơn giản là chẳng gần đâu cả, nhưng phố nắng người thưa đang trong hồi còi báo động. Nhà thi sỹ ở ngay “phố nhà rượu“, rất dễ là mục tiêu bắn phá của máy bay Mỹ.

Và cũng quanh quanh gần mấy phố này thôi, nhà thơ tài năng – Quang Dũng (Bao giờ trở lại đồng Bương Cấn - Về ngắm Sài Sơn lúa chin vàng- ….Sông Đáy chậm nguồn qua Phủ Quốc- Sáo diều vi vút thổi đêm trăng - ông tả quê tôi đấy ) đã từng sống những ngày nghèo khó thiếu ăn. Như nhà văn Thanh Châu miêu tả, Quang Dũng thích ăn khoai lang hàng bà cụ phố Tuệ Tĩnh. Kẹo vừng ông lão chợ Hôm. Nước chè tươi, cơm đầu ghế… Tất cả đều gần gũi quanh đây, sao ngày đó tôi không tìm họ?...

Sau những năm bom đạn ấy, lại tiếp thời bao cấp đói nghèo Hà Nội. Vất vả nuôi con, thiếu thốn và mải miết với những xếp hàng mua gạo thịt tem phiếu. Với những chuyến đi. Với những rắc rối cơ quan nhà nước nào cũng có… Suốt ngày sấp mặt xuống đến nỗi sau này vào Sài Gòn hát nhạc Trịnh công Sơn tả Hồ Tây với “đàn sâm cầm nhỏ vỗ cánh mặt trời…” tôi cứ tự hỏi, quái lạ, mình sống ven Hồ Tây mà suốt đời có bao giờ nhìn thấy loài chim nào gọi tên Sâm Cầm đâu.

Cũng không biết ngay đầu phố mình, ven Hồ có nhà văn Phùng Quán sống bằng “cá câu trộm “ ở Hồ Tây, làm cái chòi ngay mép nước trường Chu văn An nơi con tôi học ở đó…

Cuộc sống vất vả nhất – cũng có thể là bị hủy hoại bởi nhiều thứ chán ghét nhất đó khiến tôi không thể tách mình ra mà hiểu hết được cái thời mình đang sống, để tìm gặp những  người mình rất ngưỡng mộ sau này là những danh nhân chẳng thể nào gặp nữa. Sao mình không phỏng vấn Võ Nguyên Giáp, Tôn Thất Tùng, Văn Cao, Trần Duy Hưng, Phạm Tiến Duật, Quang Dũng, Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh ….? Thật là một khoảng trống không thể tha thứ đối với một người đã từng làm báo ở Hà Nội.

Với tất cả nỗi “day dứt Hà Nội “đó, vợ chồng tôi tìm đến phố Hòa Mã.

Năm 91- những năm đầu Việt Nam mở cửa, đã mấy năm bước vào Đổi Mới rồi, nhưng vẫn còn nghèo. Các ký giả phương Tây vào nhiều. Họ tả Việt Nam với lời khen ngợi nhưng vẫn là một Việt nam theo góc nhìn tường thuật riêng …  "Nơi gặp gỡ lạ lẫm giữa Đông và tây" …. "Xóm ổ chuột, phụ nữ chẻ tre, bán trái cây, làm ruột cá. Đàn ông thu gom sắt vụn, sửa nhà cửa …”. Chưa đến cái thời “giàu nhanh, mất định hướng và hỗn loạn" như sau này.

♦ ♦ ♦ 

Trời Hà Nội vừa nắng gắt đã chuyển mưa nên nhiều người bị cảm cúm thành dịch giữa mùa hè. Vợ nhà thơ cũng bị cúm nên quán sách của ông bà đóng cửa. Hồ Dzếnh đi vắng.

Bà Nguyễn thị Hồng Nhật, dù đang ốm nghe chúng tôi tự giới thiệu “Độc giả hâm mộ từ Sài Gòn ra” thì vội thay chồng tiếp khách.

Khi chúng tôi muốn bà phác họa trước vài nét tính cách cá tính của nhà văn, bà cười với vài lời ngắn gọn:

“Nghĩ đến ăn là sợ. Có lẽ một ngày bữa ăn quan trọng nhất của nhà tôi là sáng sớm, một bát phở hàng quen, cho rất ít bánh. Ông bị hen phế quản nên khó thở và yếu. Đêm không ngủ được, cứ kêu thừa thì giờ phí quá, lại ngồi viết.”

Rồi bà như giải thích: Tính tình âm thầm trầm lặng ít phô phang, không bao giờ thích nói tâm tư mình. Có lẽ vì thế nó…. tích thành bệnh.

Chúng tôi nhìn quanh nhà, trên tường có một tấm hình đề chụp 1957 ở sân bay Gia Lâm- Cụ Hồ đang nhận bó hoa từ tay một phụ nữ thay mặt đoàn người . Bà Hồng Nhật giải thích: "Hồi đó tôi hoạt động công tác Mặt trận ra tiễn Cụ Hồ đi thăm các nước.”

Căn phòng ấm cúng trang trí giản dị theo lối gia đình Hà Nội gốc trong căn biệt thự Pháp hầu hết đã cũ kỹ.

Thế là chỉ bước qua quán sách nhỏ, ta bỏ lại sau lưng phố xá nhốn nháo thời “hiện đại" hàng quán có cả trăm thứ chuyện bực mình để bước vào một thế giới dịu êm thuần khiết của “người Hà Nội xưa". Những gì văn hóa, thanh nhã xa với tiền bạc vẫn đang sống kín đáo, trở nên một phong cách riêng mà trên phố xá ta nào thấy được.

Bà kể có lần, một người không rõ từ đâu đến đứng chọn mua sách rồi hỏi “thưa có phải đây là nhà của thy sỹ Hồ Dzếnh không, sau khi nghe trả lời đúng rồi, anh ta hát lên: "Trên đường về nhớ đầy….chiều chậm đưa chân ngày …” rồi cúi chào bước đi.

Quán sách bán không chạy (đã vào cái thời … mấy ai đọc sách nữa..). Bà chọn những cuốn sách văn học có giá trị, bày vào cái tủ kính nhỏ. Đoạn gần Chợ Hôm mới nhiều người qua lại bán mua. Đoạn phố Hòa Mã này không phải nơi sầm uất, nên không mấy khách tìm tới. Thành ra chiếc tủ sách nhỏ phải lui vào im lặng bên trong, nhường chỗ cho hàng hóa khác treo la liệt ngoài cửa hiên nhà.

Nhà thơ cho thuê rẻ cái góc cửa nhỏ, giúp đỡ cho các thanh niên chưa có việc làm có chỗ bán hàng tạm.

Một lúc sau, thi sỹ Hồ Dzếnh về.

Dù đã tranh thủ “điều tra" trước qua bà vợ ông, dù đã đọc nhiều bài viết về ông trên sách báo, chúng tôi vẫn ngạc nhiên và vui mừng được thấy ngay trước mắt mình một người thanh nhã, ý nhị và rất gần gũi, rất phù hợp với mối xúc cảm mà tất cả chúng ta từng được khơi dậy từ “Chân trời cũ".

Khi nói chuyện, ông hay cười, càng khơi càng thân và tâm đắc.

Khi biết đây là khách “tận trong Sài Gòn" ra thăm chỉ vì ái mộ, vợ chồng ông mời chúng tôi ở lại ăn cơm. Rất tiếc là thời gian eo hẹp quá nên ông tìm ra giải pháp mời chúng tôi đi ăn sáng vào hôm sau. Ăn sáng tốn ít thì giờ hơn, ra tiệm, khách khỏi áy náy sợ phiền “không ai phải nấu nướng cả", nhất là ông có hàng phở quen, ngon lắm.

Sáng sớm hôm sau, chúng tôi đến cổng, đã thấy ông đứng chờ ngay dưới gốc cây. Thật cảm động khi thấy "người thi sỹ trong mơ" của mình, ăn mặc tề chỉnh giản dị, tóc chải mượt ra phía sau y như trong các tấm hình chúng ta thường thấy.

Hình như quán phở đường Lê văn Hưu? Không nhớ nữa. Chúng tôi cảm động quá, ngồi ăn phở và uống café sữa. Ông rất vui, cho biết chúng tôi đến thăm vô tình đúng vào ngày sinh nhật lần thứ 75 của ông.

Hôm ấy, ông kể chuyện mình đi vào Nam và đến chùa Pháp Hoa tìm thăm nhà văn Nguyễn minh Châu, nhưng không gặp. Đó là những năm cuối đời, Nguyễn minh Châu bệnh nặng, vào Chùa Pháp Hoa lúc đó đang nổi tiếng trị được trọng bệnh theo một thứ thuốc riêng. Cho mãi sau đến lúc gặp được nhau, đã là lúc Nguyễn minh Châu sắp mất.

“Những người mà mình yêu mến, hình như không bao giờ được gần”.

Nhà văn nói khẽ, không biết có phải ông đang nhớ lại những ngày gặp Thạch Lam vào năm 1941 trên chuyến xe lửa Hải Dương- Hà Nội hay không. Trên chuyến tàu đó, Hồ Dzếnh ngồi xem lại tập bản thảo của mình thì một người ngồi bên cạnh hỏi mượn xem. Lúc đó ông đâu biết người ấy chính là Thạch Lam, nhà văn nổi tiếng của Tự Lực Văn Đoàn.

Sau lần ấy, Thạch Lam phát hiện, khuyên nhủ góp ý, giúp cho tập truyện được xuất bản. Chính Thạch Lam đã viết lời tựa đầu tiên cho tập “Chân trời cũ" của H Dzếnh. Nhưng khi sách ra được, thì Thạch Lam đã mất.

“Với Nguyễn Minh Châu và Thạch Lam, nếu tính thời gian theo cả giây cả phút thì tôi cũng chỉ được gặp hai ông trong 3-4 tiếng đồng hồ là cùng.”

Nhìn vẻ mặt xúc động của ông, tôi chợt hỏi:

“Cả đối với bác nữa- thưa bác, cháu có một điều không rõ: Vì sao bác vẫn sống ngay giữa Hà Nội, vậy mà sự gặp gỡ cũng như tin tức về bác hầu như rất ít, rất mù mờ. Có người còn đồn rằng hình như bác ở mãi đâu bên Mỹ, Canada…”?

Hồ Dzếnh cười hiền:

“Tôi vẫn sống ở đây thôi. Bần cư trung thị vô nhân vấn. Nhà nghèo thì ở ngay giữa chợ cũng không ai hỏi đến. Vậy mà mình bần, hôm nay vẫn có các bạn đến hỏi đây này.”

Dù đã đọc nhiều, chúng tôi vẫn muốn nghe từ chính ông chuyện sáng tạo ra những vần thơ vì sao nó ở mãi trong lòng người,. Ông sáng tác bài “Chiều" có mối sầu vạn cổ chất vào trong một buổi chiều ấy như thế nào… Các nhân vật được ông viết trong “Chân trời cũ" ám ảnh buồn thương da diết ấy là ai, có còn không…

Hồ Dzếnh kể rằng bài Chiều chỉ làm ngẫu hứng tại Lạng Sơn, khi đó ông là một chàng trai lên chơi với người anh làm hỏa xa. Ở đó, chàng đứng một mình giữa rừng biên giới, lòng buồn vô hạn vì thấy quê cha Trung quốc, quê mẹ Việt nam. Hai quê hương mà không có nơi chốn nào để đến cả. Cả hai đất nước đều bị xâm chiếm. Mình đứng giữa thấy một nỗi buồn lạ lùng. Và bài thơ thả vào không gian nỗi buồn đó.

“Còn những nhân vật trong “Chân trời cũ" có còn ai không ư, còn chị Đỏ Đương, giờ đã 80 tuổi rồi. Muốn về thăm cụ ấy….”

Những người ấy, họ có biết họ được trở thành nhân vật làm thổn thức bao trái tim không ạ?

Hồ Dzếnh: "Không. Thí dụ như cụ Đỏ Đương 80 tuổi rồi ấy, mù chữ. Đâu có biết đến văn chương. Họ sống cuộc đời cho mình lấy làm tài liệu nhưng không bao giờ đọc.”

Ông nói chậm, nhẹ, ngậm ngùi. Tôi bỗng nhớ lại câu chuyện lúc nãy bà vợ ông kể cho chúng tôi về cái ngày họ vào Sài Gòn được dự một đám cưới người quen. Khi quan khách được nghe giới thiệu rằng có mặt nhà thơ Hồ Dzếnh, thì tất cả bỗng lặng đi, ngạc nhiên. Rồi lập tức mấy cậu trai trẻ nhảy lên sân khấu, cầm đàn hát ngay bài “Chiều".

Nhớ chuyện ấy, tôi nghĩ mình cũng đang có một cơ hội ngồi trước mặt thi sỹ, tôi liền cũng hát cho ông nghe bài “Chiều" đó. Tiếng buồn vang trong mây, tiếng buồn vang trong mây……

Âm điệu buồn thương giữa rừng cao biên giới ấy, mặc kệ, bây giờ giữa quán phở có màn hình tivi đang mở nhạc Rock ầm ỹ ấy, mặc kệ, nó vẫn vang lên trong các tâm hồn cảm động.

Đã đến lúc tôi có thể hỏi ông về nhận xét của các nhà nghiên cứu văn học “phê bình" rằng văn chương ông có chút yếu đuối.

Ông gật đầu:

“Yếu đuối và lãng mạn ư? Phải cần tới nó. Đó không phải là yếu đuối, mà là cái TÌNH luôn giữ được trong con người. Một góc nào đó, nó giúp con người kiên gan. Cháu thấy không, người mẹ chỉ có cái ruột tượng thắt bụng nuôi con, chẳng bao giờ hé răng kêu.”

Thật kỳ lạ. Chỉ bước ra khỏi quán sách im ắng của nhà ông thôi, ta lại đối mặt với cuộc sống ào ào, khá tàn bạo. Vậy mà bên trong ấy, vẫn có một dòng chảy khác, khá lãng mạn nâng đỡ tâm hồn con người.

Cảm ơn Hồ Dzếnh. Hình như ông vừa bước ra từ “Chân trời cũ" để thả vào cuộc sống hôm nay một lời xao xuyến nhắc nhở về tình người.


2. MÌNH VỪA LÀ CHỊ, LÀ EM….

Lần thứ hai tôi ra Hà Nội- khoảng năm 1992, tìm đến nhà, dù biết chẳng còn gặp Hồ Dzếnh được nữa. Ông đã mất ngày 13-8-1991.

Tôi đến để thắp hương.

Tôi hơi bang hoàng vì sự thay đổi nhanh chóng, cứ như là người vừa đi là dấu vết mới đây thôi cũng đi theo. Ngôi nhà không còn là quán sách và những người buôn bán vặt la liệt không còn ở đó nữa.

Bà Hồng Nhật tiếp tôi cũng không còn ở căn phòng ấm cúng lần trước kiểu Hà Nội xưa, mà là ở căn phòng lớn mặt tiền.Ở đó có một bàn thờ hiếm có: Do bà bày tất cả sách, báo viết về ông lên đó và ngày ngày thắp hương, trò chuyện trong im lặng. Bàn thờ độc đáo giống như một quầy sách khá lớn.

Bài báo nhỏ của tôi viết về cuộc gặp mới đây, đăng lên, ông chưa kịp đọc cũng nằm đó, lọt thỏm giữa các tác phẩm đồ sộ.

Bà chẳng nói được gì nhiều như lần gặp đầu tiên vui vẻ. Khách cũng khá run rẩy trong lòng nên buổi viếng đó chỉ dành để lướt qua những gì tha thiết nhất người ta viết về Hồ Dzếnh.

Cuộc đời ông hiện ra thật khổ đau qua lời Vũ Bằng: …"Chiến tranh chạy về làng Neo Thọ Xuân Thanh Hóa- dọc bờ sông Nông Giang dạy học. Vợ bán sách cũ và thảm tình trong những ngày kháng chiến, vợ bị bệnh tả chết để lại đứa con trai mới 5-6 tháng:

“Lấy võng đưa xác vợ chạy đi chôn trong chiều tím ngắt tím hoa sim đúng như trong thơ Hữu Loan Màu tím hoa sim.”

Trong trí nhớ Vũ Bằng, …”mặc áo bành tô cứt ngựa, đi dép, địu con trên lưng, lúc thì đi vơ vẩn ở bãi bến đầu sông, lúc thì chui vào bờ bụi tránh máy bay. Hễ gặp người nào như thế, không ai nói ai nhưng ai cũng biết đó là Hồ Dzếnh. Không cách gì mà sai được. Là vì ở Khu 4, mà chắc chắn khắp cả trong nước không có một người đàn ông thứ hai nào nuôi con khổ cực đến như Hồ Dzếnh. Một mặt lo chạy loạn, một mặt lo ăn, một mặt nữa lo sao cho con có sữa sống qua ngày.”…

Tôi gập cuốn sách lại, liếc nhìn vẻ mặt bà Hồng Nhật dưới vành khăn để tang còn mới. nhưng trong khi tôi nước mắt lau trộm thì bà lặng lẽ, lật tìm những bài khác đưa cho tôi.

Bà bảo, ông địu con đi xin bú nhờ (gọi là bú thép. Thế nên mới hay nói câu: Vợ góa nhà văn lấy nhà văn góa vợ- Con nuôi nước Việt, nhờ nước Việt nuôi con…)

Bà Hồng Nhật- như ta biết- là cô gái bán sách tiệm Bình Minh, đẹp nhất nhì Hà Nội một thời, là vợ góa của nhà thơ Trần trung Phương. Chồng mất, bà cũng nuôi đứa con trai nhỏ mới mấy tháng như Hồ Dzếnh và rồi hai người đã trở thành bạn đời.

Đây là lời Du Tử Lê: ”Hồ Dzếnh là người bạn thiết của những kẻ lang thang. Hồ Dzếnh đã đi vào đời tôi bằng một khung cửa buổi chiều. Hồ Dzếnh đã ở trong tôi không như một Huy Cận cao ngất khinh mạn, không như một Nguyễn Bính ngọt ngào mật đồng nội. Hồ Dzếnh đến và ở lại trong tôi như một chiếc bóng âm thầm. Muộn phiền và tơi tả".

Còn Mai Thảo – Hồ Dzếnh “một người Tàu nghèo khổ bỏ một nước Tàu nghèo khổ. Đi qua Vân Nam. Đi từ Dương Tử đi tới Hồng Hà. Đi từ Trung Hoa đi tới Việt Nam.” Khi nói tới người mệ Việt của Hồ Dzếnh, Mai Thảo dẫn ra tác phẩm “Quê ngoại- là chiếc khay vàng hiến dâng mẹ hiền một niềm biết ơn trang trọng.”….

Bà Hồng Nhật thắp thêm ngọn nến khác thay vào ngọn đã cháy hết. Chúng tôi cứ im lặng chẳng nói gì, chỉ lần giở qua những tác phẩm bày đầy một bàn, sửa sang cho ngay ngắn.

Chia tay bà, tôi nhớ câu của nhà văn Nguyễn Khải: "Hiện nay, tầng dưới ngôi nhà phố Hòa Mã vẫn chỉ có hai vợ chồng. Ông luôn mỉm cười ngồi ở trên cao kia, còn bà mỗi ngày một mỏng đi.”

Cái dáng “mỗi ngày một mỏng đi" ấy đưa tôi ra tận đầu đường mới chịu quay lại.

Tôi chợt nhớ bài thơ Hồ Dzếnh viết tặng vợ: "Mình vừa là chị, là em- Tiếng lòng người mẹ, trái tim bạn đời- Mai này tới lúc chia phôi- Hai ta ai sẽ là người tiễn nhau.- Xót mình đã lắm thương đau- Tôi xin là kẻ đi sau đỡ mình….”

Hồ Dzếnh ơi, vội ra đi trước, vậy là ông đã nuốt lời hứa rồi sao….?


3. GỌI TÊN VANG GÓC PHỐ

Vào năm 2000 tôi lại có dịp ra Hà Nội và không quên ghé phố Hòa Mã để thắp hương ông và thăm bà Hồ Dzếnh. Dự định là Sẽ ngồi với bà thật lâu.

Lần này sẽ hỏi bà nhiều chuyện tâm tình mà lần trước sát ngay những ngày đau thương, không thể tiện hỏi. Chuyện tình yêu, gia đình, chuyện Hồ Dzếnh bảo với chúng tôi trong lần gặp đầu, ông đang viết cuốn sách có tên “Chuyện viết lúc 5 giờ chiều". Ông viết về người thân, bạn bè, theo một kiểu giống “Chân trời cũ". Không rõ viết xong chưa, đã in chưa…

Tôi đến trước cổng nhà phía Ngô Thời Nhậm, nơi ngày đó Hồ Dzếnh ăn mặc chỉnh tề đầu chải mượt đứng chờ để đưa chúng tôi đi ăn phở. Giờ đây không có ông nữa rồi, không còn dáng "Hồ Dzếnh thường đi lặng lẽ, lủi thủi một mình trên hè phố….như bóng dáng của nhân vật từ chân trời xa vắng…"(Võ Văn Trực )

Cách cả chục năm rồi còn gì. Lúc đó, ngôi nhà 2 mặt tiền của ông có vẻ chưa có nhiều ý nghĩa kinh tế gì lắm. Cái thời mà nhà báo nước ngoài tả Hà Nội có những người đàn ông đội mũ nồi, áo vải nhăn chậm rãi đạp xe qua những hồ nước phẳng lặng. Thành phố toát lên bầu không khí trí thức tinh tế.

Bây giờ thì không đúng nữa rồi. Mặt tiền nhà phía Hòa Mã đã không còn như cũ. Một tiệm thời trang đã thuê để kinh doanh. Mấy cái Manocanh khiến ta giật mình như có ai đang chặn hỏi. Như nó mắng tôi, mắt để đâu, làm gì còn có ngày xưa….

Chiếc cửa phía Ngô Thời Nhiệm vẫn thế, có cái xích lớn vòng qua lỗ cửa và một chiếc khóa lớn đóng im ỉm.

Tôi bắt đầu đập mạnh vào cái dây xích, gọi cửa. Mãi mới có một thanh niên ra tiếp. Anh giới thiệu mình là Trần trung Cường, con trai của bà Hồng Nhật.

Anh hốt hoảng hỏi nãy giờ chị gọi tên ai. Rồi ngậm ngùi: Chị vừa kêu tên mẹ em vang khắp phố. Mẹ em mất rồi. Mất thừ năm 1998 cơ.

….Câu chuyện hôm đó đưa chúng tôi trở lại quá khứ. Chuyện về bố của Cường. Ông là nhà thơ viết về thiếu nhi nổi tiếng Trần trung Phương. Thường viết cho tờ Tin Mới dưới bút danh Tổng Nhĩ. Ông hoạt động Cách mạng, bị Pháp bắt và mất năm 1945, khi Cường mới 5 tháng. Mẹ Hồng Nhật nuôi con, mở tiệm sách Bình Minh và tham gia hoạt động yêu nước cách mạng. Rồi mẹ kết hôn với Hồ Dzếnh.

Thế còn câu chuyện mẹ anh là người phụ nữ đẹp nhất nhì Hà Nội thế nào?

Anh Cường: "Không có thi cử như bây giờ. Không ai bầu. Nhưng Hà Nội lúc đó nhỏ, giới trí thức, trung lưu hay đồn nhau. Họ cho rằng mẹ em và vợ nhà nhiếp ảnh Lê Vượng cũng tên là Vượng- là hai người phụ nữ đẹp nhất Hà Nội. Em nhớ một chuyện, hồi chiến tranh chống máy bay Mỹ bắn phá miền Bắc, phải đi sơ tán về Hương Canh Vĩnh Phú. Em đem theo cái đài bán dẫn ban đêm nghe. Một lần có buổi phát thanh từ Đô thị miền Nam, có bài viết Nhớ về Hà Nội. Họ tả phố xá, món ăn, nhớ cả hiệu sách Bình Minh có cô bán sách rất đẹp và lịch thiệp. Em vặn to lên cho mẹ em nằm bên cùng nghe”.

Anh Cường giờ đây đã trở thành giảng viên của Nhạc viện Hà Nội. Anh Chính-người con trai xưa Hồ Dzếnh bế đi xin “bú thép" nay cũng đã là một giáo viên dạy toán. Còn người đẹp Hà Thành năm xưa nay cũng đã mất ở tuổi 83.

“Khi mẹ đau ốm nặng, bạn bè chúng em vào thăm. Nói rằng khi đi tưởng tượng ra bà cụ 83 chắc là già lắm. Vậy mà đến nơi thấy bà còn đẹp quá. Đó là mẹ đã gày đi còn một nửa và mẹ bảo cảm ơn các anh tôi đã sa sút nhiều lắm rồi đấy ạ.”

“Mẹ là một phụ nữ rất chỉn chu lo toan trong họ ngoài làng. Lại rất văn minh, lịch thiệp, có văn hóa. Em không ngờ khi tuổi cao gần mất, mẹ rất thuộc thơ văn. Thơ chồng đã đành. Còn biết rất nhiều điển tích, khi nói rát hay vận dụng, mà em nhiều khi không hiểu hết mẹ mình.

Mẹ đoan trang quý phái, nghĩ ngợi nhiều, ít giao tiếp bên ngoài. Ăn mặc nền nã, hay mặc áo màu chìm, áo dài đen. Phấn son nhẹ nhàng, tóc nhuộm không bao giờ để bạc. Tóc nhuộm lần cuối trước khi vào bệnh viện. Bàn tay búp măng đẹp lắm. Đây còn cái áo mẹ mc khi vào Sài Gòn chơi, được tặng hoa ông Võ nguyên Giáp.

Gia đình em 2 dòng máu, mẹ cha đều yêu thương hai "Tổ Quốc Cách mạng”

Trước lúc mất, dù là người cao tuổi nhất đoàn, "theo tour cho kịp là khó khăn”, bà vẫn gắng  cùng bạn bè đi du lịch Trung Quốc một lần “cho biết quê chồng", dù rằng chỉ biết quê ông ở Quảng Đông. Không còn dấu vết cũng như họ hàng thân thích nào. Bà đi theo một số địa danh có tên trong các bài thơ nhớ thương bàng bạc của chồng.

Chính vì gốc tích, quê hương mơ hồ mà nỗi thương nhớ của thi sỹ Hồ Dzếnh trong người vợ đến quê chồng "Tô Châu lớp lớp phủ Kiều- Trăng đêm Dương Tử mây chiều Giang Nam- Rọc rời vó ngựa quá quan- cờ treo ý cũ, mây dàn mộng xưa …” càng thêm da diết xót xa.

“Lúc từ bệnh viện về, mẹ đòi đưa tập hình ảnh chụp chuyến đi Trung Quốc để giữ bên mình trong túi áo. Mẹ muốn giữ kỷ niệm sâu sắc và niềm vui mãn nguyện cuối đời đã thay chồng về cho biết quê hương.”.

Tôi tạm biệt Cường với căn nhà mỗi lần đến là một lần thay đổi.

Những cảm xúc buồn thương ấy lạ quá, sao nó không mất đi được theo năm tháng.?

 “Nát thân không nát nỗi buồn- Lẫn trong cái chết vẫn còn nỗi đau – (Tưởng chuyện ngày sau- Hồ Dzếnh). Những giọt lệ khóc cố hương “có 1 chút buồn Tư Mả, 1 chút nhớ Chiêu Quân" “Một thế giới mang nặng nỗi buồn u kín của ngày xưa" (Vũ Bằng). "Bâng khuâng trăng sáng trời Viên Hán- Một giải Giang Nam nước rợn màu" Nhưng, Quê hương thật sự trong ông chính là đất Việt, quê mẹ, nơi có gió đầu mùa xa xôi, có bãi dâu vẫn đợi dòng sông vẫn chờ.

Đó là quê hương “Hỡi nước Việt nam, tôi nghiêng lòng xuống Người trên những luống cày hương thơm còn phảng phất, vì tôi đã từng uống nước và nói tiếng nói của Người. Vì tôi đã thề yêu Người trên bậc tuyệt vời của Tôn giáo. Trên dải đất xúc tích những tinh hoa của văn chương, những công trình lịch sử, tôi còn ghi cả những bóng dáng người xưa tôi thương yêu “(Chị Yên - Chân trời cũ).

Người ta bảo thơ Hồ Dzếnh buồn bắt nguồn từ “Lòng sầu xứ cộng với nỗi đau khổ”. Khi nhớ quê hương biền biệt không bao giờ biết “Mây ơi có tạt về phương Bắc- Chầm chậm cho ta gửi mấy lời – Từ thuở ly hương ta vẫn nhớ- nhưng tình xa lắm gió mây ơi- (Tư Hương ).

Nhưng quê Việt lại có một tình sâu nặng, có thật, không biết là nhớ thương nơi nào nặng lòng hơn nơi nào:  "Tôi yêu nhưng chính là say- Tình quê hương Việt- bàn tay dịu dàng- Thơ tôi đê thắm bướm vàng- Con sông be bé cái làng xa xa.” (Lũy tre xanh).

Tạm biệt Cường và căn nhà Hồ Dzếnh, tự nhiên tôi nhớ đến người mẹ đã khuất của tôi và tự hỏi: Ngày xưa mẹ nói đúng, còn tôi đã sai?

Thuở ấy tôi đang là sinh viên Văn khoa, đang dùi mài kinh sử với các lý luận văn học. Với các lý thuyết và chủ nghĩa về hiện thực và tranh đấu cao xa. Về hè, mẹ ngồi khâu trong trưa vắng ở Hải phòng, cũng một phòng của căn biệt thự Pháp cũ phố Cát Dài.

Bà là trí thức do Pháp đào tạo và chỉ mê văn học Pháp. Có lần bà bảo tôi,- lâu ngày chỉ nhớ đại ý là,- nguồn gốc cái tình căn bản làm nên áng văn chương chính là tình mẫu tử. Văn chương còn lại lâu bền chính vì nỗi buồn … "Và tôi biết tất cả những tác phẩm bất hủ chỉ là những tiếng khóc.”

Tôi không nhớ mẹ đã trích dẫn từ ai. Nhưng hôm nay rời nhà Hồ Dzếnh, những lời của mẹ tôi sống dậy.

Vì sao “thơ có cùng mới hay “? Vì sao nỗi buồn của ông Hồ Dzếnh- như Thạch Lam viết trong lời giới thiệu tập “Chân trời cũ" lại liên quan đến xúc cảm của tôi hôm nay?

Thạch Lam: ”Điều mà ta nhận thấy ở ông Hồ Dzếnh, cũng là một điều gần giống ở bà mẹ ông. Nghĩa là sức chịu đựng đau khổ.”

Sao đau khổ của ông Hồ Dzếnh, mắc mớ chi lại làm cho bao thế hệ, mãi mãi người sau  rung động y chang nỗi buồn đó? Và dù đã “xếp ông ngồi một chiếu “ với Thạch Lam và Thanh Tịnh, các nhà nghiên cứu vẫn cứ tìm tòi đặt tên tuyệt vời cho “kiểu buồn“ của riêng ông không lẫn được với ai.

Đó là “”Buồn chiều, buồn Hồ Dzếnh. Nhanh hơn slow, chậm hơn Valse… Mỏng nhẹ như sương.” (Nhà nghiên cứu Thụy Khuê )…

Tạm biệt Cường và căn nhà Hồ Dzếnh không biết bao giờ trở lại, tôi tự hỏi về nỗi buồn thương của mình: sự truyền cảm tha thiết đó chẳng cần  đi  tìm lời giải thích gì  nữa. Mẹ tôi đúng rồi và tôi đang nhớ Người bằng chính tình thương mẹ sầu thảm của Hồ Dzếnh.

Bất chấp mọi thứ chủ nghĩa, nó chính là tính  trường tồn của Văn chương bất hủ.

NGUYỄN THỊ NGỌC HẢI

Tác giả gửi cho viet-studies ngày 25-1-17

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét