Thứ Ba, 5 tháng 8, 2025

30 NĂM NỮA, VIỆT NAM MỚI ĐUỔI KỊP MÔNG CỔ



30 NĂM NỮA, VIỆT NAM MỚI ĐUỔI KỊP MÔNG CỔ

1.

Tôi hỏi 100 người, thì đến 97 người bảo:

- Mông Cổ ấy à? Nghèo lắm hả?

Sai. Khái niệm về một nước Mông Cổ nghèo khó ngự trị trong đầu óc dân Việt Nam từ xa thời cùng phe XHCN. Nhà văn Tô Đức Chiêu bảo tôi:

“Tao đã đi Mỹ, Ai Cập, Ả rập Xê út, Nga và Đông Âu, không kể châu Á như Tàu, Thái…, tức là gần hết thế giới, nhưng khi đi Mông Cổ mới thấy mình khám phá ra một thế giới mới. Nếu có dịp, tao đi 2 -3 lần nữa".

Tôi thấy thế nên cũng đú theo, đi Mông Cổ một chuyến.

Mở ngoặc ngay là, khi anh (du lịch) đến đâu, anh phải tự vấn ta đến đấy để làm gì, muốn biết gì. Nói chung là nên đi phượt. Tôi có bài học kinh nghiệm về việc này:

Có một cậu trẻ đi cùng đến thảo nguyên Mông Cổ, cậu thốt lên chán nản: Ơ, đâu cũng như đâu, mênh mông cả, chả thấy cái gì!

Vấn đề là cái gì?

Sau chuyến đi Mông Cổ, tôi rút ra kết luận:

30 năm nữa (hoặc hơn), không biết Việt Nam mình có đuổi kịp Mông Cổ hay không?

Mông Cổ diện tích gấp hơn 6 lần nước Việt Nam, dân số hơn 3 triệu người (bằng 1/2 Hà Nội). Mà 1/2 dân số ở Thủ đô Ulan Bato.

Hãy tưởng tượng hơn 1 triệu người ở rải rác trên lãnh thổ gấp 6 lần Việt Nam.

Mông Cổ có đặc biệt là có biên giới với Nga và Trung Quốc. Họ bị kẹp giữa hai nước lớn, nên phải chọn 1. Lịch sử đã chứng tỏ họ chọn đúng, chọn nước Nga để tránh nước Tàu kẻ thù. Chính chính phủ Quốc dân Đảng của Tưởng Giới Thạch khuất phục trước chính phủ Stalin mà công nhận Mông Cổ độc lập.

Chuyện này chính phủ Mao cay cú ra mặt, công khai gọi Mông Cổ là Ngoại Mông, còn phần lãnh thổ Mông Cổ bị mất từ thời Nguyên triều thì Trung Quốc gọi là Nội Mông (họ vẫn nhận đó là nước họ). Cấp độ cay cú ăn thua và nhòm ngó còn hơn một bậc so với Việt.

Người Trung Quốc chưa gọi Quảng Đông là Nội Việt, mặc dù vẫn dùng từ Việt gọi Quảng, Việt ngữ là tiếng Quảng, họ chưa gọi Việt Nam là Ngoại Việt.

Nói thế để biết mức độ nguy hiểm chênh vênh của con ngựa Mông Cổ trước con sói Trung Quốc.

Ở Mông Cổ tôi được nghe câu chuyện tiếu lâm.

Một người Mông Cổ gặp một người Nhật. Người Nhật cám ơn người Mông vì bài học của Nguyên triều nên nước Nhật quyết định không chiếm Trung Quốc nữa. Nếu chiếm nó, có lẽ nước Nhật đã thành Trung Quốc rồi.

Đó là một câu chuyện tiếu lâm cay đắng mà không thể cười.

Ân oán giang hồ với người Tàu thì rất nhiều. Chỉ kể một chuyện.

Các công ty xây dựng ở Ulan Bato, và nói chung các công ty khác cần nhân công, thì đều thuê nhân công Trung Quốc vì người Trung Quốc sinh sôi như cỏ dại, ở đâu họ cũng mò đến nên các công ty có quy định chỉ được thuê dưới 6 tháng, mà trong 1 năm không được thuê quá một lần. Nên người làm thuê phải đi về Trung Quốc ngay.

Cảnh sát Ulan Bato rất dễ dãi với người Việt sinh sống ở thủ đô của họ, hình như có 7000 người, còn riêng người Trung Quốc thì phải thống kê rất cụ thể. Người bạn Mông Cổ nói với tôi:

Việc lớn nhất của cảnh sát là đuổi người Trung Quốc hết hạn cư trú.

Đúng vậy, họ không có tình trạng kẹt xe, không có tệ nạn nhiều, việc chính là không để lọt một cái trứng tu hú. Chuyện này 30 hay 50 năm nữa, Việt Nam cóc làm được, mà cũng chả làm.

2.

Nhìn trên phim ảnh, thấy thảo nguyên là những dải đất trùng điệp, cây cỏ lưa thưa. Nếu chỉ có thế, chưa biết gì về thảo nguyên Mông Cổ cả. Hồi tôi đi tầm tháng 7 dương lịch là tháng đã hết cỏ rậm. Cỏ rậm thì đến ống chân, đến đầu gối. Còn khi chuẩn bị vào Đông, cỏ bị đám gia súc gặm gần hết. Chỉ còn cỏ thấp và cỏ tái sinh.

Nói từ "cỏ" với người Việt, cũng không ổn. Cỏ của Việt Nam là thứ chả để làm gì. Điều này lỗi ở các nhà làm ngôn ngữ khoa học, địa lý. Đáng lý nên dùng từ "thảo mộc thân mềm" hay cái gì đó khác với "cỏ". Cúi nhìn xuống, hàng trăm hàng nghìn loài cây gọi là cỏ rất khác nhau, riêng hình lá cũng thiên hình vạn trạng. Nếu vò vài cái lá rồi đưa lên mũi, sẽ thấy nhiều mùi vị rất khác. Mùi thơm thoang thoảng, mùi hắc, mùi nồng... Thực sự đó là một thế giới cây thuốc và loại cây như rau thơm ở Việt Nam chứ không phải cây cỏ thông thường. Gia súc Mông Cổ từ hàng nghìn năm nay ăn thứ cỏ đó.

Sau khi đi thảo nguyên tôi mới lý giải được việc ở Mông Cổ người ta ăn rất ít rau, ăn rất nhiều thịt. Ngay cả người Việt ở xứ ăn rau, đến Mông Cổ ăn toàn thịt, mà tiêu hóa bình thường, không bị táo bón. Bởi vì lũ gia súc ăn thứ cỏ thiên nhiên hoang dã bổ béo thơm lừng như hàng nghìn năm nay nó vẫn ăn. Không như gia súc ở nơi nuôi công nghiệp.

Mông Cổ ngày nay vẫn du mục và người ta tự hào vì nếp sống du mục này. Ông Chủ tịch Hội Hữu nghị Mông -Việt nói tiếng Việt sõi như người Việt, bảo tôi, rất may là thảm họa tập thể hóa, định canh định cư xảy ra rất nhanh, rồi thảo nguyên lại có sức sống quay lại nếp xưa.

Nếu ai đã đọc Tô-tem Sói của một nhà văn Trung Quốc (quyển này vang dội một thời trên văn đàn Trung Quốc) thì biết thảo nguyên Nội Mông đã bị tàn phá kinh khủng như thế nào. Họ dồn nén dân du mục vào hợp tác, triệt phá cách sinh hoạt truyền thống, mang hàng sư đoàn quân đội bắn sói. Sói là vật thờ của người Nội Mông, khi người chết, người ta kéo xác cha mẹ để ra một chỗ cho sói ăn. Người Trung Quốc Mao-ít bắn sói, thế là thỏ làm giặc. Lại giết thỏ, lạc vào cái vòng quẩn, rồi đưa người Hán đến sinh sống khiến thảo nguyên Nội Mông bị tiêu diệt. Trong quyển sách ấy, tác giả cũng nói, nhìn sang Ngoại Mông xanh tươi mà tiếc...

Nhìn thảo nguyên thì mênh mông nhưng hoang dã hàng trăm thứ thú hoang vẫn ngày đêm sinh sống, tuân thủ cân bằng sinh thái của nó. Người Mông Cổ ngày nay có xe ô tô tải có điện thoại di động kéo theo cái nhà và đàn gia súc, đi lang bạt trên thảo nguyên theo nhu cầu của gia súc. Thảo nguyên mênh mông, mình nhìn đâu cũng như đâu, nhưng chúng tôi đã được một chú bé 12 tuổi đưa từ thị trấn, đi xuyên 25 km đến đúng chỗ lều của bố mẹ chú bé.

Hôm đi thảo nguyên, chúng tôi được đón tiếp Chủ tịch huyện đến chơi, cũng vì biết có khách Việt. Ông nói huyện ông có gần 80 hộ. Diện tích huyện, khi đó làm phép so sánh, gần bằng tỉnh Hưng Yên cộng với Thái Bình. Chủ tịch huyện biết cả 80 hộ luôn. Quy định của họ chăn thả không giới hạn, nên có lúc có hộ gia đình chăn thả ở huyện khác (miễn là đăng ký vẫn ở huyện này). Chủ tịch người Đảng Dân Chủ, alo gọi đồng chí Bí thư huyện ủy Đảng Nhân Dân (đảng cộng sản cũ) thì đồng chí đang chăn ngựa, bèn cưỡi ngựa về. Bí thư huyện ủy đảng nào cũng làm nông dân cả và chả chức vụ gì, cười hề hề đúng là ông chăn ngựa.

Riêng chuyện này, 50 năm nữa Việt Nam có theo kịp không?

3.

Người Mông Cổ có một niềm hãnh diện đã mất, đó là đã từng bá chủ thế giới, và còn một niềm kiêu hãnh vẫn còn, đó là sữa ngựa.

Thế giới văn minh và ở các nước phát triển có chỉ tiêu bao nhiêu lít sữa bò cho đầu người, thứ sữa đó người Mông Cổ chỉ làm lương khô, làm nguyên liệu chế biến, vì họ uống sữa ngựa. Hình như chỉ Mông Cổ dùng sữa ngựa làm thực phẩm chính yếu. Nó là nguồn gốc sức mạnh của các chiến binh từ xưa, và khiến người Mông Cổ cao lớn.

Ngựa là gia súc chủ yếu ở thảo nguyên. Một hộ thường có vài trăm đến vài ngàn ngựa, thêm cừu và dê. Bao giờ cừu cũng đi kèm dê. Mùa Đông, cừu nằm trên giữ ấm cho dê moi cỏ chia nhau. Không có cừu dê chết rét, không có dê cừu chết đói. Kiểu chăn thả thiên nhiên ấy khác xa nông trại hiện đại.

Kiểu vắt sữa ngựa cũng khác vắt sữa bò. Vì khi vắt sữa luôn luôn có con ngựa con đứng cạnh. Người Mông Cổ tôn thờ ngựa vì cả đức tính này, không buông tuồng vô cảm như bò, cứ vắt là ra sữa bất kể thế nào. Sữa ngựa làm bia, làm thức uống, nên con ngựa là đầu cơ nghiệp. Bò chỉ là loại thêm. Bò Mông Cổ lông dài như voi mamut. Bây giờ cũng thoái giống, người Mông Cổ buồn vì bò lông ngắn, còn gì là bò nữa.

Gia súc nuôi, thịt là thứ phẩm. Chính phẩm là lấy lông và da. Len Mông Cổ đắt kinh khủng. Hình như hàng lông da là chủ lực xuất khẩu.

Cái lều Mông Cổ thật sự là một thứ thú vị. Cứ nói "lều" thì khó hình dung, đến mới thấy đó là cái biệt thự giữa thảo nguyên. Bây giờ lều có nhiều loại, từ 300 đến 30.000 đô Mỹ. Người Trung Quốc quá khôn, họ làm lều bán cho người Mông Cổ.

Trong cái lều Mông, tài nhất là cái bếp ở chính tâm nhà, tâm vòng tròn. Chất đốt bằng phân gia súc, thông hơi làm nhiệm vụ trụ chống giữa. Vào lều không nhận ra có bếp.

Người nông dân du mục cũng có vấn đề nan giải, đó là sinh ra và nuôi dạy trẻ. Du mục xa trung tâm thị trấn, nên nếu đẻ bất thường thì cấp cứu rất khó. Khi con 6 tuổi, phải cho nó đi học, thì nhà mất một người - thường là mẹ hay chị lớn - phải đưa lên thị trấn làm một cái lều ở nuôi con 1-2 năm mới yên tâm gửi con học nội trú. Ở các thị trấn thị tứ cứ thấy các cụm lều, đó là những người đi nuôi con học. Vì vậy mà nhà nghèo hoặc quan điểm cũ chỉ cần đọc chữ, trẻ thất học.

Hình như chính việc hiếm người mà du mục có truyền thống quý người. Phụ nữ đẻ con là quý, con ai không quan trọng. Mấy ông Mông Cổ bảo, cộng đồng du mục có lệ, khách quý cao tuổi thì chủ nhà mời đầu dê. Thịt con dê, cái đầu là quý nhất. Còn khách trẻ và trung niên thì chủ nhà bảo con gái sưởi ấm cả đêm. Tôi không ở qua đêm ở thảo nguyên, nhưng nghe kể lại, các nhà văn Trần Nhương, Tô Đức Chiêu, Thúy Toàn có ngủ đêm thảo nguyên và được coi là khách quý trung niên. Vấn đề là các bác ấy có chịu đựng được mùi mồ hôi người ăn thịt cừu, uống sữa ngựa và 3 tuần mới tắm không thôi.

Người Mông Cổ rất có ý thức giữ gìn môi trường thảo nguyên. Tôi khá ngạc nhiên. Mọi người picnic thu dọn rác tống lên xe về bãi rác ngoại ô vứt. Họ nói tivi có nhiệm vụ quan trọng nhất là tuyên truyền giữ sạch thảo nguyên. Và việc này chỉ có từ khi cách mạng dân chủ đa đảng. Người lái xe dẫn chúng tôi, mặc dù xe chật, kiên quyết mang bao tải rác trên xe để về đến bãi rác ngoại ô.

Ở Ulan Bato, anh là công chức, lập tức được cấp 0,99 ha ở ngoại ô làm nhà nghỉ. Cuối tuần, chiều thứ 6, lũ lượt xe rời thủ đô ra ngoại ô. Thứ 7 Chủ Nhật thủ đô vắng thênh thang. Tối Chủ Nhật lại rồng rắn về thành phố.

Nếu không phát động giữ thảo nguyên thì chả mấy chốc thảo nguyên nghìn đời thành bãi rác. Và họ đã làm được rất tốt. Tương tự, thảo nguyên của họ là rừng là biển của người Việt.

Than ôi, chúng ta đã cư xử như là tự phá hủy cơ thể! L

Đuổi kịp Mông Cổ ư? Không bao giờ!

4.

Định nói nhiều chuyện khác, nhưng nhiều bạn hỏi đi du lịch Mông Cổ, nên tôi nói chủ đề này trước.

Các công ty du lịch Việt Nam cũng có tua Mông Cổ nhưng ít. Mùa đi là mùa Xuân và Hè, tốt nhất tháng 5-6 nhiều lễ hội, có nhiều cái để xem. Tháng 8 bắt đầu rét không đi thảo nguyên được. Đêm xuống 0 độ. Chênh lệch ngày đêm 10-20 độ. Tôi đi tháng 7, ban ngày 25-30 độ, đêm 5 độ. 8 giờ mới bắt đầu tối.

Tôi chọn cách tự đi.

Mua vé khoảng 800 đô. Chú ý là không bao giờ nên chọn tuyến bay quá cảnh qua Bắc Kinh. Sự ti tiện nhỏ nhen của người Trung Quốc thể hiện ở cấp độ thể diện quốc gia, họ hành người đi Mông Cổ chết thôi. Nhiều người bị hành truyền kinh nghiệm rồi. Điều này tôi chưa bị nhưng tin. Ai đi từ Quảng Châu về Hà Nội sẽ thấy khu đợi tàu ra máy bay đi Hà Nội bị nhét xuống dưới khoang ra cùng với bay nội địa của họ, cửa Hà Nội lẫn với Bắc Kinh, Thượng Hải, Thành Đô, Trùng Khánh...

Đi Mông Cổ từ Việt Nam thì nên bay quá cảnh qua Hàn Quốc. Khách sạn Ulan Bato cũng có nhiều loại như Hà Nội, có điều ít lựa chọn, giá đại khái như phố cổ.

Ulan Bator nhiều ô tô phân khúc rẻ. Đại khái như Lào - Cam. Ô tô cũ mới phong phú. Ô tô cũ của Nga, mới của Nhật, Hàn là chính. Người Việt ở Ulan Bator hầu như làm một nghề sửa chữa ô tô. Tôi có sơ bộ tìm hiểu, các hiệu sửa chữa ô tô đều đứng tên người Mông Cổ. Họ không mặn mà mở rộng đầu tư nước ngoài, trái ngược với Việt Nam. Vì tôi đoán họ khôn ngoan, điều kiện người ít, không vội vàng tiến lên theo kiểu Việt Nam, Trung Quốc. Nhiều người Nhật, Hàn đến đầu tư chủ yếu làm công nghiệp thuộc da và lông thú, sản xuất len.

Hồi tôi đi Mông Cổ cách đây 3 năm cũng thấy có khách tua được công ty du lịch dẫn đi xem thảo nguyên, xem sinh hoạt du mục, ở nhà lều... Dĩ nhiên không thể bằng mình lọ mọ tự đi. Cũng là may mắn có nhiều người giúp. Gõ cửa ông nhà văn Dastseven, Chủ tịch Hội Hữu nghị Mông-Việt, ông ấy chỉ dẫn cho đi...

Ẩm thực Mông Cổ đơn giản kinh khủng. Thịt con gì cũng chặt to cỡ cái mũ, cho vào nồi đại tướng, thêm qua quýt củ quả gì đó. Rồi được phát một con dao. Xin mời! Nước thì húp soàn soạt. Đại khái truyền thống như vậy. Món này rẻ như rau muống Việt Nam.

Ngày nay thì siêu thị cũng đầy thực phẩm, hàng hóa. Khách sạn nhà hàng gì cũng có. Mức chi tiêu ở Mông cổ dĩ nhiên đắt đỏ hơn Hà Nội.

Mông Cổ không vội và không hào hứng hội nhập với các nước mà chỉ chọn lọc mấy nước truyền thống. Hàng tiêu dùng chủ yếu là Nhật, Hàn. Hàng Trung Quốc từ phía Bắc Trung Quốc thì là hàng cao cấp. Nên ví dụ quần áo túi ví trang sức... Thanh niên mặc bình thường, cũng thấy toàn hàng hiệu, loại mà ở Việt Nam phải người rất giàu mới dùng.

Trung tâm thủ đô Ulan Bator nay là quảng trường Sukhe Bator, ngày xưa có mộ ông này, lãnh tụ cách mạng khai sinh nước CHDCND Mông Cổ từ thập niên 20, đại khái ông ấy như Hồ Chí Minh Việt Nam.

Sau cuộc cách mạng dân chủ 199x thì người ta mang mộ ông ấy về quê chôn, không để ở giữa thủ đô nữa, còn lại bức tượng oai hùng mà thôi. Vẫn kính trọng như cũ, chỉ không để mộ to tướng ở giữa thủ đô.

Khi tôi đến, còn tàn tích vài bệ tượng Lê Nin.

Nói chung tượng lãnh tụ vô sản bỏ hết nhưng họ vẫn để bức tượng bán thân Hồ Chí Minh ở khuôn viên trường phổ thông liên cấp mang tên Hồ Chí Minh. Đây là một loại trường chuyên hàng đỉnh của thủ đô như Am, Chu của Hà Nội.

Buồn cười là các lãnh tụ lật đổ chế độ cộng sản Mông Cổ phần lớn xuất thân từ đây. Tổng thống đầu tiên của chế độ đa đảng là học sinh xuất sắc trường Hồ Chí Minh, hai thủ tướng sau cũng là học sinh trường này.

Hồi Liên Xô sắp sụp thì người Mông Cổ đã tự giải quyết. Đảng nhân dân cách mạng phải lên truyền hình tự nhận lỗi về những sai lầm rập khuôn mô hình Liên Xô. Nói chung cuộc chuyển chế độ của họ êm không gay cấn...

Ở Mông Cổ, tôn giáo chính là Thiền phái Mật tông Tây Tạng. Phật giáo bắt rễ vào cùng thời vào Việt Nam nhưng là nhánh Tiểu thừa Ấn, sau chuyển Mật tông Tây Tạng. Chùa ở Ulan Bator thờ giáo chủ Đạt lai Lạt ma thứ 14 trưng ảnh vị ấy rất to và trang trọng. Đó là vị Lạt ma đang lưu vong mà Bắc Kinh coi là kẻ tử thù.

Nếu chỉ du lịch đi qua ngắm cảnh mà không để ý thì không thấy sự khác biệt sâu sắc này, dẫn đến xã hội và nền chính trị Mông Cổ khác Việt Nam và khác các nước Phật giáo khác (Lào, Cam...) gần ta, khác một trời một vực.

Riêng vấn đề này, Việt Nam không còn đặt vấn đề đuổi kịp nữa vì hai nước đang ở hai hệ quy chiếu khác...

5.

(Tôi định kết thúc câu chuyện Mông Cổ ở kỳ 4, nhưng rất bất ngờ là thông tin về Mông Cổ lại ít như vậy, chắc là bài tôi viết cũng có chút bổ ích, nên kể thêm 2-3 kỳ nữa).

Mông Cổ nổi tiếng về ngựa, nhưng ít ai biết về con chó Mông Cổ và số phận bi phẫn của chó Mông Cổ.

Hiện nay, người du mục nào cũng nuôi chó, và giống chó đúng Mông Cổ (Dĩ nhiên nó không phải chó gốc, phần sau sẽ nói). Loại này với chủ rất hiền từ, với khách không mời thì vô cùng dữ. Chúng tôi đi thảo nguyên bằng ô tô, nhưng đi qua đất của chủ chó, lập tức bị con chó xông ra nhe nanh xù lông sủa dữ dội đuổi theo cắn ô tô, cứ như cái ô tô có thể ngoạm được. Nhà trên thảo nguyên chỉ phân cách sở hữu (tạm) đất bằng một vết lõm dùng cuốc thành rãnh rất nông, mắt thường còn khó biết, nhưng nếu ô tô đi qua vạch phân giới ấy là con chó dừng lại.

Người đi thảo nguyên với tôi là thành viên Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Mông Cổ, kể rằng:

Ngày xưa, ngay cả thời Thành Cát Tư Hãn xâm lược châu Âu có quy định mang chó Mông Cổ đi theo và kiểm kê từng con một để đảm bảo không sổng con nào ở ngoài Mông Cổ. Tuy nhiên, lịch sử trớ trêu, người Mông Cổ đã chiếm và làm vua Trung Quốc nên mất giống chó gốc vào tay Trung Quốc. Con chó bây giờ gọi là "Ngao Tây Tạng" chính là con chó gốc Mông Cổ.

Mông Cổ làm chủ Trung Nguyên, lập ra nhà Nguyên, vẫn có truyền thống bảo vệ con chó Mông Cổ. Nhưng cũng đến ngày nhà Nguyên cáo chung. Chúng ta đọc lịch sử chỉ biết nhà Nguyên thất bại nhưng không biết rằng triều đình Nguyên với người gốc Mông Cổ không hề ở lại Trung Quốc,m mà rút toàn bộ về Mông Cổ. Giới tinh hoa quý tộc Nguyên gốc Mông có ý thức không ở lại Trung Quốc. Họ về Mông Cổ. Và một số ít lên Tây Tạng.

Vì sao lại lên Tây Tạng?

Vì khi đó Tây Tạng không / chưa bị Hán hóa, là một quốc gia độc lập. Tây Tạng là quê hương Phật giáo truyền sang Mông Cổ. Thành Cát Tư Hãn đã có lời thề, sẽ chiếm toàn thế giới, trừ (Ấn Độ, Tây Tạng) quê hương Phật Giáo. Như vậy một bộ phận quý tộc Mông Cổ lên Tây Tạng mang theo con chó Mông Cổ.

Theo ông Hàn lâm KHXH Mông Cổ, cho đến trước năm 1970, con chó Mông Cổ (Ngao Tây Tạng) còn vài trăm con trên lãnh thổ Mông Cổ, chủ yếu ở vùng thảo nguyên xa. Người Trung Quốc có chiêu bài thu mua chó, bao nhiêu cũng mua, giá cao ngất ngưởng. Nhà nước dùng mọi cách cũng không giữ lại được. Khoa học kỹ thuật Mông Cổ khi đó lại lạc hậu. Nên cho đến năm 199x, chó Mông Cổ (Ngao Tây Tạng) chính gốc bị mất hết. Ngày nay, các con chó thảo nguyên trông dáng như Ngao Tây Tạng, không to bằng, là loại đã bị lai tạp cả.

Số phận con chó Mông Cổ cũng bi hùng chìm nổi như chính người Mông Cổ vậy.

6.

Các vua Hùng đã có công dựng nước... Mông Cổ.

Điều này tưởng như nói đùa chơi, mà là sự thật.

Khi tôi nói về lịch sử vua Hùng, ông Dashtseven, Chủ tịch Hội Hữu nghị Mông Cổ - Việt Nam, Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Mông Cổ, chăm chú một cách khác thường. Ông hỏi:

- Sao lại có tên "Hùng"?

Tôi thuật lại các giả thiết khác nhau về tên gọi vua Hùng, trong đó có giả thuyết của ông Trần Quốc Vượng - nhà sử học số 1 của Việt Nam. Ông Vượng cho rằng, cộng đồng dân cư Việt đã gọi người đứng đầu là Khun hay Hun gì đó, khi có chữ Hán, người ta dùng chữ Hùng để ghi lại mà thôi (Có giả thuyết họ Hùng và các giả thuyết khác). Ông Dashtsevan nói ngay:

- Tôi ủng hộ cách lý giải của ông Trần Quốc Vượng.

(Vì các lý giải trong lịch sử Mông Cổ)

Người Mông Cổ cổ đại gọi người đứng đầu bộ tộc là Hung (hay Hun). Hung là vua, không cần gọi "vua Hung".

Khoảng tương tự trước thời Tần ở Trung Quốc có một Hung đã thống nhất các bộ lạc trên lãnh thổ mà trung tâm là Mông Cổ bây giờ tạo thành một nước rộng lớn, phía Bắc ôm trọn hồ Bai Can, phía Nam giáp với Bắc Kinh. Nước Mông Cổ cổ đại ấy rất hùng mạnh, nhiều lần đánh bại các nhà nước thuộc Chu (Trung Quốc) và đánh Tần, khiến nhà Tần phải xây Vạn lý Trường thành để ngăn cản.

Cho đến giữa thời Hán, khoảng 100-150 trước Công nguyên, nhà Hán đã có lần đánh bại được nước Mông Cổ đó, từ đó dẫn đến thời kỳ suy yếu của nhà nước Mông Cổ hùng mạnh. Trong sử sách của người Trung Quốc, vương quốc đó được gọi là "Hung Nô". Hung Nô là tên gọi miệt thị trong sử Trung Quốc sau nhà Hán để gọi quân đội và các bộ tộc mà Hung đứng đầu. Sau này, sách Trung Quốc gọi các vua của Hung Nô là các Thiền Vu, cũng là một cách phiên âm mà sau này người Mông Cổ phải chấp nhận, miễn cưỡng và không thích, cũng như rất ghét tên gọi Hung Nô, ý của nhà Hán là "Hung nô lệ" - cái nước mà họ đã bắt làm nô dịch.

Nhìn lại Việt Nam ta, cái tên An Nam do triều đại Trung Quốc và Pháp dùng để chỉ một phương Nam an bài, bị nô dịch, thì người Việt Nam nào thích không?

Tuy nhiên, lịch sử có giai đoạn An Nam, kể từ thời An Nam đô hộ phủ đến An Nam thuộc Pháp, thì vẫn là sự thật, cũng như người Mông Cổ còn lại dấu vết của vương quốc Hung Nô.

Đế quốc Hung Nô suy tàn, cho đến TK-XIII có một người Mông Cổ vĩ đại đã lập lại đế quốc của họ rộng gần hết thế giới. Đó là Tringit Khan, người Việt gọi theo chữ Hán là Thành Cát Tư Hãn.

Đây lại là câu chuyện khác.

Có một giả thuyết được nhiều người tin theo, đó là một bộ phận Hung Nô đã đánh dẹp sang tận châu Âu, hình thành cộng đồng dân tộc Hungari. Nhưng cũng có nhiều người phản bác. Tuy vậy, các cuộc chinh chiến của quân Hung Nô (chưa phải thời Tringit Khan) cũng để lại các chiến binh rải rác khắp châu Âu, mầm mống gen của họ còn đó, kể cả Thổ Nhĩ Kỳ, là một sự thật khó chối cãi.

Như vậy, có một mẫu số chung thời cổ đại, nhiều bộ tộc gọi người đứng đầu của mình là Hung/Hun/Khun... (Hiện nay, một số dân tộc thiểu số ở Việt Nam vẫn gọi là Khun). Nếu ông Xukhe Bator dạy quân dân, cũng có thể nói:

“Các Hung đã có công dựng nước Hung vĩ đại, bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy phần còn lại này".

Tôi hỏi ông Dashtsevan:

- Các anh có lịch sử rất khúc khuỷu, có lúc mạnh chế ngự thế giới, có lúc suy tàn, vậy các anh dạy học sinh và tuyên truyền lịch sử như thế nào?

Ông Dashtsevan nói:

“Sự thật. Chúng tôi ủng hộ quan điểm tham mưu với nhà nước phải nói sự thật và chỉ có sự thật, có tranh luận thì cũng thuần học thuật, đừng mang chính trị áp vào. Sự thật sẽ là bài học lớn. Điều này thời chính quyền của Đảng Nhân dân cách mạng thì cũng có khó khăn, nhưng dưới thời đa đảng thì thuận lợi".

Rất bất ngờ, ông chia sẻ quan điểm với tôi, đất nước của các vua Hùng của người Việt không chỉ bó hẹp ở Phong Châu và Đồng bằng sông Hồng, mà nó là phạm vi gần trùng với nước Nam Việt, còn lớn hơn nước Nam Việt của Triệu Đà. Bởi vì khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa là khôi phục nước Nam Việt và đất của vua Hùng. Chỉ có điều đó mới phù hợp với chính sử về gốc tích các vua Hùng (bây giờ thì việc Hai Bà chiếm 65 thành ở Nam Trung Quốc, có đền thờ khắp Quảng Đông, Quảng Tây đã nhiều người biết).

Nói sự thật, điều đó với việc tuyên truyền lịch sử ở Việt Nam còn đi sau Mông Cổ, còn đuổi mệt mới kịp...

7.

Người Mông ở Việt Nam (và các nước khác) là một bộ phận dân Mông Cổ đã thiên di. Điều đó là khẳng định của ông Dashtsevan. Ông đã nghiên cứu vấn đề này, đến cộng đồng Mông ở khắp các nước Đông Nam Á (Lào, Thái, Miama, Malaysia, Indonesia). Riêng ở Việt Nam, theo nguyện vọng của ông, tôi đã dẫn ông lên Bắc Hà để quan sát người Mông Bắc Hà.

Trong các tài liệu chính thức phổ biến ở Việt Nam thì người Mông có nguồn gốc ở Nam Trung Quốc, di cư đến Việt Nam khoảng trên dưới 300 năm, có bộ phận chỉ 100-150 năm, và ý kiến nguồn gốc Mông Cổ là lần đầu tiên tôi nghe từ ông Dashtseven - một người nghiên cứu khoa học xã hội Mông Cổ.

Ông Dashtseven khảo cứu về truyền thuyết nguồn gốc di cư, có cộng đồng dân cư nói rõ đi từ thảo nguyên Mông Cổ, có bộ phận không nói rõ, nhưng đều nhận từ thời gian gần (mấy trăm năm) là từ miền cao nguyên Tây Tạng.

Lịch sử văn hóa Mông Cổ gắn chặt với Tây Tạng. Hiện nay, chữ của người Mông Cổ chính là bộ chữ truyền thống Tây Tạng, trông như giun nhưng viết từ trên xuống. Khi cách mạng dân chủ thành công, người Mông Cổ bỏ bộ chữ Xlavo của Nga, dùng chữ truyền thống của mình. Chữ Tây Tạng truyền theo con đường truyền đạo Phật. Tương tự như các giáo sĩ Bồ làm chữ Quốc ngữ cho người Việt. Các thiền sư Tây Tạng đã mang chữ của họ cho người Mông cổ trung đại. Và khi người Mông Cổ làm chủ Hoa Hạ, nô dịch người Hán, họ có mối liên hệ quan trọng với người Tây Tạng. Khi nhà Nguyên thất bại, bộ phận dân cư không phải quý tộc và quan lại đã ở lại vùng chân núi Tây Tạng. Đó là bộ phận dân cư của các bộ tộc nghèo, nhiều bộ tộc khác với các bộ tộc theo Tringit Khan làm vua ở triều đình. Và họ tiếp tục chạy nữa, sau triều Tống, đến triều Thanh chinh phục Tây Tạng, họ vẫn chạy. Họ di cư đến vùng đất mới sau thì phải chọn chỗ trên cao như Việt Nam, chứ không phải đâu cũng ở cao. Ở Lào, người Mông ở thấp.

Quá trình du mục thảo nguyên chuyển đến du mục trên các triền núi, người Mông bắt buộc phải thay đổi nhiều tập quán, nhưng giữ lại tập tục du mục, trang phục và ứng xử với ngựa. Ở Bảo tàng dân tộc tại Mông Cổ, có thể tìm thấy các bộ trang phục na ná người Mông Việt Nam.

Tại sao chỉ có người Mông ở trên núi cheo leo vẫn gắn bó với con ngựa như thế?

Khi đến Bắc Hà, ông Dashtseven chú ý tìm hiểu các từ ngữ liên quan đến ngựa, và thấy nó có nhiều tương đồng với người Mông Cổ. Người Việt gắn bó với con gà con lợn, thì đực, cái, động tác của chúng đều có từ riêng, nhưng với ngựa thì không như vậy. Còn người Mông thì khác, ngựa đực - cái, động đực, chạy, phi... đều có từ riêng cả.

Ở Mông Cổ, con dê thịt ra quý nhất cái đầu, con ngựa thì quý nhất bộ ruột. Người Mông Việt Nam làm thắng cố không có bộ ruột thì coi như không thành. Họ đem những hoa quả thuốc thang ở vùng nhiệt đới cho vào món ruột, làm nên món đặc biệt của người Mông.

Thời xưa làm báo, tôi đã đọc văn bản của Văn phòng Chính phủ hướng dẫn các báo gọi chính thức người Mông là "Mông", không phải H'mong như người Pháp gọi, vì người Mông tự gọi mình như thế (tuyệt nhiên không nên gọi là Mèo, vì đó cũng là cách gọi miệt thị có từ thời Pháp thuộc). Người Mông Cổ tự gọi mình là "Môn-gô". Từ "Mông" là một từ Mongo đã Việt Hóa (có nước gọi là Môn).

Cho đến nay, có lẽ nước ta cũng nên không gọi tên nước người ta theo kiểu Hán là Mông Cổ nữa. Cứ nên gọi là Mongo thì có khó gì.

Thực ra, hầu như nước nào lân cận đường chinh phạt của Tringit Khan đều có chuyện cộng đồng người gốc Mongo. Nhân có cơ duyên đi Mông Cổ, gặp ông Dashtseven được biết nhiều chuyện, viết nên để hầu bạn FB một lần.

Mông Cổ có một người như ông Dashtseven ở đâu có người Mông là đến để nghiên cứu, để điền dã.

Người Việt mình có ai như thế không ạ?

8.

Khi bắt đầu viết về Mông Cổ, tôi không ngờ câu chuyện lại kéo dài đến 8 kỳ. Chính bạn đọc FB đã khiến tôi có hứng thú. Vì người Việt ít thông tin về đất nước đó, nhưng cái chính là đất nước và con người Mông Cổ thực sự hấp dẫn.

Khi đến Mông Cổ, nhiều nơi có treo bản đồ Mông Cổ TK-XIUI. Buồn cười là các bản đồ này chỉ na ná nhau mà không hoàn toàn giống nhau, bao gồm hết Trung Á, châu Âu, toàn bộ miền Địa Trung Hải, cả Đông Á, chỉ trừ Ấn Độ, Nhật Bản và Tây Tạng. Bởi vì vó ngựa Tringit Khan thổi qua Âu Á quá nhanh, quá nhiều, để lại cho hậu thế nhiều cách nhìn khác nhau. Có nơi, bản đồ có bao gồm Việt Nam ngày nay, nhưng có nơi lại chừa Việt Nam, coi như không có chuyện đã chiếm Việt Nam. Họ giải thích: Quân Mông Cổ đã đến đó, nhưng khí hậu không hợp, nên rút về. Ai chứ tôi thì thấy giải thích đó thỏa đáng.

Lịch sử Mông Cổ có trang hào hùng TK-XIII, nhưng cũng có trang bi thảm TK-XVII, XVIII, XIX. Nhà Thanh làm vua Trung Quốc, sau khi đã thống trị Mông Cổ.

Thời nhà Thanh, Trung Quốc đúng là bao gồm hết đất Mông Cổ và Tây Tạng. Cách mạng Tân Hợi 1911 lật đổ Thanh triều, sau đó chuyển chính quyền sang Quốc dân Đảng, có một thời kỳ tạo cơ hội độc lập cho Mông Cổ. Nhưng phải đến 1922, dưới cái ô của Liên Xô, sau khi đã có Xukhe Bator chiến đấu với Hồng quân Liên Xô, thì Mông Cổ mới giành được độc lập một phần, nay là lãnh thổ hiện tại.

Còn một phần gọi là Nội Mông đành nằm lại Trung Quốc.

Đến khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ 2, lần nữa Mông Cổ có cơ hội lấy lại Nội Mông nhưng không thể xảy ra cũng vì cuộc mặc cả vì lợi ích các nước lớn.

Liên Xô chỉ vì lợi ích của họ, lấy Nội Mông làm thứ mặc cả với Trung Quốc, chứ không kiên quyết lấy lại Nội Mông. Sự kiện này khiến cho xảy ra một số cái chết của lãnh đạo nhà nước Mông Cổ cho đến nay vẫn là một nghi vấn lớn. Lãnh đạo Mông Cổ thời kỳ trước năm 1960 không hoàn toàn theo chủ nghĩa Stalin, các chủ trương tập thể hóa làm không đến nơi đến chốn, có phần hời hợt. Troibanxan là lãnh đạo nhà nước thời kỳ 194x, 195x còn là người có đầu óc độc lập dân tộc, chỉ coi Mông Cổ là nước liên kết với Liên Xô. Cái chết của ông vẫn còn là nghi vấn. Chỉ đến Xedenban 1960, nước Mông Cổ mới hoàn toàn theo mô hình Liên Xô.

Tuy nhiên, ngay từ những năm 193x, khi Liên Xô những người Staninit thanh trừng nhau đẫm máu, Mông Cổ không bị lún sâu vào các mâu thuẫn xã hội kiểu Liên Xô hay kiểu cải cách ruộng đất ở Việt Nam. Nên vào đầu những năm 199x, khi có làn sóng dân chủ, những người cộng sản đã công khai nhận lỗi lầm và chịu thất bại trước lực lượng dân chủ. Và thảo nguyên của họ nhanh c hóng sống lại nếp sống hàng nghìn năm (chỉ có bị gián đoạn 70 năm).

Khi tôi vào bảo tàng Mông cổ thời hiện đại, còn những bức ảnh một người cầm loa trước cuộc biểu tình lớn ở thủ đô Ulan Bator, đó là người trở thành vị tổng thống dân chủ đa đảng đầu tiên của Mông Cổ.

Người Mông Cổ sống ngàn năm với đàn gia súc, và họ học tính cách của các con vật của thảo nguyên. Nếu có cuộc tranh giành, thì con yếu quay đầu để đầu hàng trước, ít khi xảy ra tỷ thí đổ máu. Lực lượng trí thức tinh hoa là những người cầm đầu cuộc cách mạng dân chủ. Khi tôi đến Trường phổ thông liên cấp Hồ Chí Minh, mọi người đều hãnh diện vì trường sản sinh ra các lãnh đạo nhà nước thời kỳ dân chủ, và họ cũng khoái chí vì đã mang tên Hồ Chí Minh. Trong hiểu biết của nhiều người Mông Cổ, Hồ Chí Minh là lãnh tụ đã giành độc lập cho Việt Nam năm 1945, còn chuyện Người là cộng sản thì dĩ nhiên như vậy, cũng như Sukhe Bator của họ thôi. Sukhe Bator đã lập nước Mông Cổ thập kỷ 20, khuyết điểm của Đảng Nhân dân cách mạng sau năm 1960 không thể đổ tại Sukhe Bator được.

Cái nhìn của những người bạn Mông Cổ về lịch sử cận đại khiến tôi rất suy nghĩ.

Bao giờ nước Việt Nam tiến đến thực tế như của họ, quan điểm như của họ?

Nguyễn Xuân Hưng

 


Thứ Năm, 24 tháng 4, 2025

O Xưa

 

O Xưa


LTS: O Xưa là truyện ngắn cuối cùng trong Tuyển Tập Truyện Ngắn O Xưa của nhà văn Nhã Ca, gồm 13 truyện ngắn, viết tại hải ngoại. Sách lần đầu tiên ấn hành, ra mắt độc giả chiều nay tại Westminster, California. Sách O Xưa hiện đã có bán trên mạng Amazon. (VIỆT BÁO)

 ***

Năm tôi lên mười, O Xưa đã trên ba mươi. Ở con đường Nam Giao, thành phố Huế, từ đầu dốc tới cuối dốc, O Xưa đi lên đi xuống hằng ngày giống như một cái bóng, vì hình như O không sống với người.

O Xưa sống với ma, người chồng ma của O vô hình, ở đâu đó, trên cây, trong cỏ, trên lá, trong vòm trời, trong bóng mây, O kể lể vậy.

Có thể nhìn thấy O Xưa vào buổi sáng, vào giờ công chức đi làm, học sinh đi học và các bà nội trợ Huế ngồi xúm xít bên gánh bún bò ngon nổi tiếng của mụ Dục, bên gánh cơm Hến của mụ Khế, gánh bánh canh từ Nam Phổ của mụ Cau. Buổi trưa, lúc O Xưa đi từ trên con dốc xuống, đầu đội nón thì mấy bà nội trợ đang ngồi lê đôi mách với nhau ở cái quán tre đầu một con hẻm. Cũng có người ngó O Xưa một cái:

"Mấy người coi, con mụ Điên."

"Quá thường, bữa mô cũng chộ, có chi là lạ nà..."

 

Mấy người đàn bà vô công rỗi nghề này thấy O Xưa quá thường là phải rồi. Lúc này họ đang có mục vui đùa mới. Ở đâu lạc tới một thằng cha bán cốm, gánh hai cái lu đi lên dốc là niềm vui của họ. Ăn hàng, nói dóc, kể chuyện thiên hạ cũng nhàm, vậy là quay sang người đàn ông bán cốm. Một bà cao giọng hò:

“Ơi anh gánh cốm hai lu,

Anh cho tui gửi chim cu về cùng.

Cu tôi cu ấp cu bồng,

Chớ bỏ vô... lồng mà ốm cu tui..."

Có vậy thôi họ cười nghiêng ngả, cười tới chảy nước mắt. Ông bán cốm cúi gầm mặt, lẹ bước đi. Biết, hơn thua không nổi với bọn giặc đàn bà.

"Nì, anh nớ, đem "lu" đi mô rứa anh!"

Cười nữa.

O Xưa dừng lại nhìn, con mắt đờ dẫn, khuôn mặt đờ dẫn, hình dạng, tâm trí không còn ở với cõi người ta.

Buổi chiều, O Xưa lại đi lên đi xuống con dốc nhiều lần hơn, nhất là lúc chạng vạng tối. Bao ngày tháng rồi, chiếc áo tứ thân màu nâu phai lạt và sờn rách, tóc vấn khăn xô lệch và tay luôn luôn ôm một cái bọc vải, không biết bên trong có gì.

Nhưng nhìn có vẻ như O đang bế đứa con mới sinh. Đi một đoạn, O cúi xuống, nựng nịu, ru hời ru hỡi, không ra một câu quéo gì. Đứa con trong bọc cũng không bao giờ lớn, cứ nằm trong cái bọc vải từ năm này tới năm khác. Chỉ mình O nghe nó khóc và dỗ dành. Có lần, mấy đứa con nít chọc O, xô đẩy, giằng kéo, cái bọc trên tay O rớt xuống bung ra, chỉ toàn là áo quần cũ và giẻ rách. O hốt hoảng, khóc ré lên, lượm lại từng cái, ghém lại thành cái gói như cũ.

Đi thất thểu như thế, thỉnh thoảng dừng lại dưới những gốc cây, ngước mặt lên nói chuyện. Những lúc này khuôn mặt O Xưa biến đổi một cách kỳ lạ. Khuôn mặt xán lạn, trẻ trung, mắt mơ màng, giọng nói tiếng cười nũng nịu. O đã gặp người của thế giới vô hình, người yêu, người chồng của O.

Người ta đồn riết rồi cũng mỏi miệng. O Xưa nói chồng O là chàng Ba. Chàng Ba đẹp trai lắm, nói chuyện rất có duyên. Tuy là ma nhưng chàng Ba ăn ở rất tình nghĩa. Họ đã có với nhau ba mặt con rồi. Không biết có độn bụng không mà lâu lâu thấy bụng của O Xưa phình lên, rồi một thời gian, đúng tháng ngày của một người đàn bà chửa tới lúc sinh, cái bụng lại xẹp xuống. Đứa con sơ sinh nằm trong bọc vải O Xưa bế bồng trên tay, biết khóc biết cười bằng chính miệng của O Xưa.

Không ai biết gốc gác của người đàn bà này. Lúc đầu, họ là một gia đình từ trong Quảng tìm ra Huế sinh sống. Gia đình gồm có ba người, cha mẹ và O Xưa. Họ không được may mắn, bị gạt ra ngoài lề xã hội, nên họ phải dựng một cái chòi nhỏ trong một vùng đất trống toàn sỏi đá và bụi cây dại, chạy xa tới chân núi. Dân gọi vùng này là đất "độn". Đi hoài không thấy nhà cửa, chỉ có mồ mả và một cái miếu hoang. Nhiều gia đình không có "nhà vệ sinh", thường lên "độn" để làm công việc "ỉa đồng", vừa sạch vừa mát, còn nhìn trời mây, cảnh đẹp. Mỗi lần, người ta đi lên "độn" đều phải qua nhà O Xưa.

Hai ông bà già và O Xưa sinh sống nhờ cái máy xay bột bằng đá. Họ nhận xay gạo, xay nếp, và khi xay, họ phải làm bằng tay, bằng sức lực của họ. Vậy mà gia đình ba người không đủ sống, bữa đói bữa no. Kế đó, ông bà già tiếp tục theo nhau về trời, cô gái mồ côi, sống một mình trong căn nhà xiêu vẹo. Không ai biết tên thật của cô là gì. Thấy cô ăn mặc tồi tàn, tóc vấn khăn vẻ xưa cũ quá, bèn gọi cô là con Xưa. Cũng có người nói cô gái có trải qua mấy cuộc tình. Nhưng nhà nghèo, nhan sắc bình thường thôi, chẳng ai cưới hỏi. Mấy cậu trai thường kháo nhau: "Con Xưa nó dại lắm, nói gì nó cũng tin". Căn nhà tồi tàn đã một thời là chỗ tới lui của bọn con trai hoang đàng.

Một ngày nọ, cậu trai nào tới kiếm cô cũng bị cự tuyệt, xua đuổi ra cửa:

"Từ bữa ni tui có dôn (chồng) rồi, đừng ai chọc tui nữa".

O Xưa nói một cách nghiêm trang.

Chuyện về O Xưa mỗi người kể một cách, tha hồ thêu dệt, vẽ rắn thêm chân. Theo họ, câu chuyện bắt đầu từ một buổi trưa sau ngày cha mẹ chết một năm, lúc đó O Xưa vừa mười chín tuổi. Cô bị sỉ nhục, khi hỏi một chàng trai vừa ăn nằm với cô xong:

"Khi mô anh cưới tui?"

Anh con trai trố mắt nhìn cô:

"Cưới? Điên chưa rứa? Nì, đừng mơ tưởng hão huyền hí. Cầm tiền đi mua cơm mà ăn."

Miệng nói, hắn nhét vào tay O Xưa mấy đồng bạc. Mở lớn mắt. Không phải ngạc nhiên, cũng không phải giận dữ hay căm hờn, O Xưa chỉ thấy buồn, thấy tủi. O Xưa đi lang thang vào trong "độn" cát rồi tới cái miếu hoang, cô vào bên trong. Không biết ai đã trải sẵn ở đó một chiếc chiếu rách. Chỉ có thể là bọn chăn trâu thường tụ tập ở đây. Sẵn có chiếu, cô nằm xuống, và cơn buồn trôi dần vào cơn buồn ngủ, cô ngủ luôn.

Giấc ngủ dường như lâu lắm, vì khi cô mở mắt, trời tối đen như mực. Trên bệ thờ ai thắp ngọn đèn leo lét, ánh sáng lung linh, mờ tỏ, như lúc nào cũng chực tắt, chiếu những cái bóng cứ phồng lên, rồi thoi thóp trông kinh dị như hồn ma dáng quỉ. O thấy lạnh. Đưa tay sờ thấy quần áo trên người đâu mất hết. Có tiếng cửa kêu cót két. Đâu có ai đến miếu hoang giữa đêm khuya khoắt này? Chỉ có thể là gió. Không phải. Một cái bóng sừng sững bên cô, rồi cái bóng cử động. Sợ đến cứng họng, không la được, cô nhắm mắt lại. Cô rùng mình, không mở mắt ra nữa. Có một bàn tay đang ve vuốt trên người cô...

"Anh là ai rứa?"

Chỉ có tiếng phì phò hay tiếng gió. Không có tiếng người.

"Anh ở mô rứa? Gần đây không?"

"Phì phì..."

Tiếng thở. O Xưa thét lên một tiếng, ngất xỉu.

Không biết bao lâu, lúc O Xưa tỉnh dậy thì ngọn đèn trên bệ thờ đã tắt. Bóng trăng rọi vào những vệt trắng sữa và bên ngoài dun dế run rẩy điệu thê lương. O Xưa ngồi bật dậy, mớ tóc dài xõa xuống đất, O Xưa đưa tay bới mớ tóc lên.Vừa lúc đó như có ai đè cô nằm xuống. Có điều lạ lùng là O Xưa không còn thấy sợ hãi nữa, cô đưa cả hai tay lên ôm siết khoảng không. Đôi mắt O khờ khạo và miệng mỉm cười ngây ngô, hạnh phúc. Hơi thở táp vào mặt cô, rồi những nụ hôn, cái bóng cô ôm trong tay không có thật. O Xưa nghe một thứ tiếng kì dị chỉ có mình O hiểu. Tiếng nói xa xăm, từ một thế giới nào. Và O Xưa nghe, O Xưa nói:

"Anh ở mô mà tới kiếm em rứa?"

“...”

"Ở cõi nớ? Cõi mô? Hỏi nhà anh a tề?"

O Xưa vểnh tai:

"Hí? Nhà anh cõi cây...? Ba trợn chưa tề. Cõi mô? Cây? Cây mô rứa? Há, răng cây mô cũng nhà anh hết rứa. Răng anh có nhiều nhà rứa?"

O cười, tiếng cười giòn, vui vang ra bên ngoài, vút lên cao, quất vỡ mấy vì sao.

"Thiệt hí? Anh thiệt thương tui?”

Gió cố đẩy cánh cửa, cột rui trên mái miếu kêu răng rắc.

"Anh đừng làm tui nhột. Nhột quá... Hi hi, anh đừng nói chơi. Anh thương tui khi mô?"

Đến lúc này, mấy con tắc kè trên mái mới thức giấc, chép lưỡi, kêu" tặc tặc tặc... kè".

“Đừng làm ồn. Tui sợ…”

“…”

"Phải biết chớ răng không biết. Thôi đi. Cưới tui? Cưới, vợ... Nói chơi nữa tề..."

“...”

O nhíu mày, bộ tịch hờn dỗi...

"Anh đừng giỡn với tui. Chắc? Ờ thì tin...Tui? Răng không chắc. Chắc chơ. Hứa mà. Bữa ni trở lên tui thề, không cho đứa mô ngủ với tui nữa...Thề rồi, răng không tin?"

"Phì phì..."

O Xưa nghe tiếng thở. O co người lại. Cả người O bị siết chặt, siết chặt đến nghẹt thở và cả người O đê mê, gờn gợn bởi sự vuốt ve. O kêu lên:

"Anh thương tui đi... Thương như rứa đó. Rứa đó..."

O Xưa, như một người khác rồi. O quằn quại, lăn tròn trên chiếc chiếu, run lên và khóc cười. Chuyện gì trước kia, O không hề nhớ ra nữa. Hình như không phải một con tắc kè mà hai ba con, cả chục con, tặc lưỡi ghê quá.

"Lạnh. Tui lạnh lắm. Anh ôm chặt tui đi. Ôm chặt nữa. Đó, như rứa đó. Hi Hi, anh thiệt ba xàm ba láp... Cỡ mấy ngày mình gặp nhau? Đừng. Đừng đi. Anh đi mô chừ..."

Bàn tay O Xưa đưa ra níu kéo trong khoảng không, như nắm vạt áo ai kéo lại.

"Hượm một chút, chưa rợn sáng mô anh... Hơ, anh đi thiệt rồi tề..."

Cánh cửa bị gió rung một hồi đập lập cập rồi bật ra, y hệt như có tay ai đẩy ra đóng vào. Tiếng dế ran nhẹ dần. Gà gáy và trời rợn sáng. Mồ mả và cây cối bên ngoài lãng đãng trong sương mù. Trên bệ thờ có tiếng đồ vật bị đụng chạm. O Xưa ngoái cổ nhìn lên:

"Anh chưa đi hỉ? Răng anh noái láo với em?"

Một con chuột thò cái mõm với đôi mắt ti hí nhìn O Xưa. Nó loay quay thụt lui thụt tới, rồi leo thoăn thoắt lên mép bệ thờ, chui xuống gầm mất dạng. Không biết vì gió hay vì con chuột chạy đụng mà xô ngã chiếc độc bình gây một tiếng động lớn làm O Xưa giật nẩy cả người. O vớ vội mớ quần áo mặc vào người, lùi vào một mép chiếu sát góc miếu. Đằng sau bệ thờ, vi vu trong tai O tiếng lao xao như người ta nói chuyện..., như nhiều người nói chuyện. Không được đâu, họ sẽ… Đã hứa với chàng Ba rồi, O Xưa đứng bật dậy, vụt chạy ra ngoài.

Lúc cô ra khỏi cái miếu con thì trời đã sáng tỏ. O Xưa cảm thấy bụng cứng nhắc, bèn vén ống quần, ngồi xuống bên một bụi dứa dại. Không hiểu nghĩ gì mà O Xưa ngửa mặt lên trời, cười. Lúc đầu, chỉ vài cái cười mỉm, ánh mắt khờ dại, rồi cười rũ y hệt như con đười ươi.

Từ hôm đó, thỉnh thoảng O Xưa lại cười rú lên, rũ rượi như vậy, dù không có một lý do gì hết. O Xưa không cười với người, vì hễ người nào nhìn O, cười hay hỏi, thì mặt O nghiêm lại, hay ánh mắt như không hề trông thấy.

Không còn một người đàn ông nào tìm tới nhà O Xưa nữa. Căn nhà lạnh tanh, hoang vắng. Chiếc cối đá xay bột không chùi rửa, quáng lớp bụi dày. O Xưa nói là O đã có chồng. Thời gian đầu, O Xưa thường đến ngủ với chồng ở miếu hoang vào ban đêm. Về sau, O tới cả ban ngày để trò chuyện cho đỡ nhớ nhung. Nhưng bọn chăn trâu tới chiếm chỗ, nên ban ngày O Xưa không có dịp gần gũi với người tình. O buồn hiu giam mình trong căn nhà càng ngày càng rách nát, đợi đến đêm đi tới miếu hoang... Ở đó, thường thường O cũng ăn các thức ăn những người đi thăm mộ, đem vô cúng ở miếu... Khu đất sau căn nhà chòi cha mẹ cô để lại là một vườn trồng sắn. O Xưa đã đào xới ăn dần hết, khi nấu chín, khi ăn sống...Thời gian ngắn sau, O cũng được gặp chồng ở các nơi chốn khác, vào ban ngày, ngoài căn miếu hoang. O thường đi tới dưới các gốc cây, ngẩng mặt lên nhìn, cười, nói, tâm tình. Bỗng nhiên, cái bụng của O Xưa lớn dần lên. Bọn thanh niên lang chạ trước đây đã ăn nằm với O đều lo lắng, không biết mình có phần với đứa bé trong bụng O Xưa không! Có người hỏi thì O Xưa cười bẽn lẽn:

"Tui có chồng. Tui có mang với chồng tui chơ ai, hỏi chi mà lạ đời rứa!"

Hỏi chồng O Xưa là ai, ở đâu? O chỉ lên cây cối, nụ cười hoang dại, xa xăm:

"Đó, chồng tui là Ông Hoàng Ba lận nghe. Chồng tui ở cõi cây. Chồng tui đi trên lá, cưỡi trên gió, ngồi trên mây, còn tui thì đi dưới đất."

Ông Hoàng Ba. Giới đi đền, lên đồng nghe mà chới với. Ông Hoàng Bà Chúa là của điện Hòn Chén, mấy bà ngồi đồng đã tốn bao nhiêu tiền bạc, lễ vật. Được ngồi đồng, được Ông Hoàng Ba nhập họ phải ăn chay một tuần lễ, tắm gội sạch sẽ. Ở điện Hòn Chén, các bà phải ngồi lúp khăn hàng giờ. Khi Ông Hoàng Bà Chúa nhập, lúc đầu họ chỉ lắc lư cái đầu thôi. Tới lúc đó là chầu văn lên giọng, trống phách phụ họa lâm ly, ầm ĩ, đầu người ngồi đồng đảo nhanh, đầu lắc, cả người lắc. Ông Hoàng Ba, đẹp trai, giọng nói thanh như ngọc, hay cợt nhả, nũng nịu. Khi "ông lên" ông hay tặng quà cho các bà, khi thì trái chín, khi thì bông hoa. Hoàng Ba còn hay "lẫy" nữa, có khi mới nhập, chê "con nữ" không tâm thành, hay quần áo bữa nay xấu xí, ông Hoàng không thích, vậy là ông "thăng".

Khác với Ông Hoàng Ba, cái giọng nói, điệu bộ làm cho mấy bà chết mê chết mệt, là ông Chín Thượng Ngàn khi "nhập đồng" la hét, vật vã, còn xiên lình coi khủng khiếp lắm. Ông Chín cầm thanh sắt nung đỏ, đâm ngọt xớt từ mép miệng bên này qua bên kia, rồi rút thanh sắt ra, nhổ một bãi nước miếng trên tay, thoa vào hai lỗ hổng rỉ máu. Da khép lại, lành lặn như bình thường. Khi ông nói tiếng Mường, tiếng Mọi ngọng nghịu khó nghe. Được cái tấm lòng ông tốt, hay đốt tàn nhang, giấy bạc làm thuốc cứu độ chúng sanh. Những buổi ngồi đồng lớn trong các đền, hay xa xôi như ở điện Hòn Chén, bọn con nít ranh cũng đi coi cho được. Chúng hát chọc ghẹo:

"Ông lên ông nhảy lon xon

Bà lên bà nhảy văng om nước chè”

 

Ông và cô Chín Thượng Ngàn lúc đó bận biểu diễn đi mây về gió, Đối với giới "đồng cô bóng cậu" chỉ có mấy ông Hoàng Ba, Hoàng Bảy, cậu Chín Mường mới là mẫu người "lý tưởng" làm mấy bà mê mệt. Cho nên, khi thấy một con đàn bà nghèo khổ, điên khùng làm mất danh ông Hoàng Ba, mấy bà "lên đồng" căm lắm. Coi như một sự xúc phạm nặng nề không thể tha thứ được.

Lúc đầu họ dùng bạo lực ngăn cấm, đe dọa. Họ sừng sộ chửi rủa, xua đuổi O Xưa. O Xưa chẳng chút phản kháng nào. Đánh O té xuống, O nằm xẹp luôn. Kéo O đứng dậy, mắt O vẫn trong cõi xưa nào. Riết đụng vào O Xưa cũng thấy nhợn tay, họ đành coi O Xưa như kẻ cùi hủi, khùng dại.

"Con mụ điên nói ba xàm ba láp, ai tin."

O Xưa không cần biết có ai tin hay không. O cũng không còn thiết đến việc ăn uống. Ngày mưa, ngày nắng, vẫn là ngày hẹn hò của O Xưa. Người "chồng ma" của O đâu ở trong mấy đền ồn ào chiêng trống với giọng chầu văn rền rĩ, nên O cũng không bén mảng tới đó để chịu đánh đập mắng chửi. O cứ nhìn lên cây, cười vui, nói chuyện, tâm tình, chờ tới đêm khuya, là lúc O được một mình với chàng Ba.

Lúc đầu O đi đến đâu là bọn con nít theo chân, đông nghịt. Chúng chọc ghẹo, phá phách, nói ba xàm ba láp, tục tỉu, nhưng sau đó, chúng cảm thấy trong dáng đi, nét mặt, nụ cười, cách nói năng của O Xưa có một vẻ huyền bí, ma quái làm chúng sợ. Chúng chỉ lẳng lặng theo xa xa, bàn tán với nhau, đôi khi đứa này binh, đứa kia phá, mà cãi vả nhau om sòm. Có đứa làm gan, lân la tới bên O Xưa, lắng nghe O đi "trai gái" với ma. Trên cây đâu có ai mà O Xưa cười nói, giận lẫy, bẽn lẽn coi "dị dạng" quá.

Mấy bà lớn tuổi trề môi:

“Ma quỉ chi, ngủ lang chạ cả mấy chục thằng, chỉ phình một cái bụng. Còn giả điên giả khùng nữa... Thứ đó, hồi xưa là trói thả xuống sông cho cá sấu ăn, hồi còn vua thì cho "voi dày ngựa xé" chơ mô dễ dàng như thời nay..."

Bọn chăn trâu thì quả quyết O Xưa không giả khùng điên gì hết. Điên thiệt. Chúng nó đã rình coi nhiều lần. Đêm, O Xưa rời căn chòi rách nát, đi lên độn, tới căn miếu hoang. O bỏ đồ, nằm co quắp trong một góc chờ đợi... người yêu. Miệng lảm nhảm những lời nhớ nhung tình tự. Lúc bên ngoài nghĩa địa những đốm lửa ma trơi  chập chờn trên mồ hoang, dun dế tấu lên điệu nhạc như quỷ khóc yêu hờn, là lúc mắt O Xưa khờ đi và môi cười hoang dại, giọng nói cớt nhả như con nít.

"Anh, em lạnh quá, em chờ lâu bất chết..."

Rồi cũng chỉ mình O lăn lộn, phành bụng, kêu rên, sung sướng, khoái lạc:

"Chao ui, nhẹ thôi chàng Ba của em. Khéo chàng Ba đụng con của tụi mình chừ..."

Không biết ai đêm nào cũng thắp ngọn đèn dầu lạc trên bệ thờ để rọi những chiếc bóng đầy hình thù kỳ dị, chờn vờn như sấn tới, cho người đàn bà một cảm giác ôm ấp bằng hơi hướm của một kẻ khuất mặt, yêu thương và ân ái với O.

Không bao lâu, O Xưa mặt mày chàu vau, xanh rớt, vô hồn chỉ còn như một cái xác biết đi. Ai cho bất cứ gì cũng ăn. Không ai cho gì thì ăn lá cây, đôi khi ăn cả nắm đất. Chân bước nhẹ nhàng như hổng trên mặt đất, rồi O Xưa cứ chậm rãi đi trên lề đường, mắt ngước lên nhìn tàng cây, giọng tha thiết:

"Chàng Ba của em ơi, chàng mau tới với em! Không gặp chàng em nhớ lắm chàng ơi, tội cho em..."

Đó là những hôm O Xưa đi dưới những gốc cây, ngước mắt tìm hoài mà không gặp được chàng Ba. O Xưa khóc lóc, van nài, oán trách, đập đầu, vật vã với những gốc cây vô tri giác.

O Xưa đẻ đứa con so ở trong căn miếu hoang trên độn vào một buổi trưa. Thường ngày, bọn chăn trâu hay vô miếu núp nắng và ăn cơm trưa.

Bữa đó, mấy đứa tới thì đã thấy O Xưa ngồi trước chắn ngang. O Xưa không giống O Xưa hàng ngày nữa, mắt đỏ lòm long lên sòng sọc, tóc tai rũ rượi. Hai tay O cầm hai hòn đá sẵn sàng liệng tới phía trước. Bên cạnh chỗ O ngồi là một đống đá lớn nhỏ sắp sẵn.

"Ê mụ điên, mần chi chắn cửa lại rứa. Cho người ta vô. Chỗ ni không phải của mụ mô."

O Xưa đưa hai tay cầm đá lên, sẵn sàng.

"Ê, mụ điên. Không được đôi. Chỗ ni của tụi tui lâu rồi. Đi ra, giành chỗ không được mô nghe."

Một hòn đá ném tới. Bọn trẻ chăn trâu lùi xuống.

"Làm thiệt há. Đôi thiệt há. Ê, tụi bây xông vô..."

Một thằng la lên. Nhưng không đứa nào xông tới. O Xưa đứng bật đậy. O không nói tiếng người nữa, ú ớ rồi rú lên như quỷ nhập tràng.

"Coi mụ dễ sợ quá tụi bây nờ ... Coi tề, coi chừng mụ đôi đá trúng..."

Bọn con nít dang xa dần, nhưng vẫn trố mắt ngó. Mấy cục đá rơi xuống lưng chừng vì sức O Xưa không ném xa được. Đống đá chất xung quanh O Xưa khó ném hết.

Bọn trẻ chăn trâu đâu có lạ lùng gì mụ điên này. Bình thường, chỉ nạt một tiếng là mụ riu ríu đi ra. Bữa nay, mắc chứng gì mụ lên cơn dữ dằn quá...

Coi mãi cái trò này chẳng có gì hấp dẫn. Một lát, bọn trẻ chăn trâu bỏ đi, ra ngoài độn, tìm mấy bóng mát ngồi mở mo cau ăn cơm vắt. Nhưng có mấy đứa tò mò nán lại rình coi cho được chuyện gì. Về sau kể lại:

... O Xưa sau khi hung hăng đuổi được bọn trẻ chăn trâu, ngồi thở dốc một hồi. Mặt O bắt đầu nhăn nhó khó coi, trán rịn đầy mồ hôi. O khó nhọc lết vào bên trong miếu, cạnh bệ thờ, ôm bụng quằn quại, miệng kêu rên: "Chàng Ba ơi, em tới giờ sanh, đau bụng quá. Chàng Ba ơi, chàng ở mô rồi..." O Xưa khóc rưng rức như một đứa trẻ. O quằn quại lăn vòng dưới nền đất, kêu ca, rên rỉ y hệt một người đàn bà trong giờ sanh con. Hơn một tiếng đồng hồ khốn khổ như vậy, O rú lên một tiếng như như con heo bị thọc huyết, rồi vật ra, bất tỉnh.

Mấy đứa chăn trâu tưởng O Xưa chết rồi, sợ quá, có đứa ba chân bốn cẳng đâm đầu chạy. Chỉ còn hai thằng gan lì nhất, núp phía sau miếu chờ coi.

Lâu lắm, O Xưa tỉnh dậy, ngơ ngác trong căn miếu hoang. O Xưa có vẻ không còn đau đớn gì nữa. Một ánh nắng chiều nhảy qua nhảy lại như bước chân ai. Một làn gió, một làn hơi. O Xưa hít hít, nhận ra, nụ cười khờ khạo nở trên môi:

"Răng chừ chàng mới tới?"

Nét đau đớn, khốn khổ đã biến hết trên khuôn mặt. Cởi chiếc áo ngoài ra, bọc thành một bọc, O Xưa nói, giọng nhớt nhã trẻ con:

"Đây, con chàng. Nó là con trai... "

O Xưa hát hò ru con, âu yếm đung đưa bọc vải:

"Ngoan ngoan, đừng khóc. Cha mi, la dữ rứa? Cha con nì... Chàng ơi, nhìn con coi nó giống chàng như đúc nì..."

Bọn trẻ chăn trâu, lũ con nít quỷ còn thêm thắt kể về ca sinh đẻ đứa con ma của O Xưa bằng sự tưởng tượng thêm thắt của chúng cho có vẻ ly kỳ hơn. Bọn đàn bà lúc đầu ngạc nhiên, tò mò, cũng có chút ganh tị nữa. Câu chuyện, mỗi người thêm thắt một câu, bớt đi một chữ, càng trở nên huyền bí. Người ta càng ghét O Xưa lại càng sợ O Xưa. Nhưng chuyện gì rồi cũng nhạt dần, thường đi, và sự sợ hãi cũng phai dần, người ta đem chuyện O Xưa ra riễu cợt.

O Xưa mặc kệ. Nét mặt của O càng khờ khạo hơn, mắt nhìn, môi cười, càng đi lạc vào cõi xa xăm, vô hình. Tình yêu với chàng Ba càng thê thiết... O Xưa có thêm đứa con thứ hai, rồi đứa thứ ba, thứ tư. Cứ kể như năm một, đẻ xong là lại có mang liên tục... Bồng một đứa con bọc trong bọc vải, dắt theo một bầy con ma không hình bóng, lúc O ru đứa nhỏ, lúc chửi mắng la rầy mấy đứa lớn. Trời nắng, trên trán mồ hôi chảy ròng ròng, O Xưa quệt mồ hôi, than thở với chồng trên cây:

"Anh không coi mấy đứa nhỏ với em, chúng nó hư, phá như ma. Em mệt quá, mệt lắm. Anh phải dạy con..."

O Xưa thở dốc. Trông O già đi nhiều, đẻ nhiều con, gầy như que củi khô, xanh xao, võ vàng. Nhưng không biết sức lực ở đâu mà O Xưa tay bế tay bồng, dẫn đàn con đi lên đi xuống con dốc Nam Giao, hẹn hò, nói chuyện với "chàng Ba" không biết mệt.

 . . .

Nhiều năm cũng đã qua với tôi, như với nhiều người Huế từng một thời cùng sống trên con dốc Nam Giao. Bỏ Huế. Tứ tán. Mất nước. Lưu lạc xứ người. Người Huế, nhớ Huế. Nhớ nhau. Và những người cùng một thời ở Nam Giao, chắc cũng có lúc nhớ O Xưa!

Với tôi, O Xưa là một hình ảnh khó quên trong tuổi mới lớn. O Xưa còn nhắc nhở tôi một giai đoạn lịch sử kinh hoàng. Đó là những năm trước, thời kháng chiến mùa Thu của Việt Minh. Nhiều buổi sáng, mấy đứa trong xóm rủ nhau đi học, ra khỏi con hẻm đầu dốc, chúng tôi gặp nhiều xác chết. Đó là lúc thường nghe tiếng đàn bà rú lên, gào khóc. Có xác bị mất tứ chi, có xác bị cắt đầu, hoặc cái đầu máu me đặt trong chiếc nón rách ghim một bản án của Việt Minh. Không theo Việt Minh là Việt gian, giết đến bao giờ cho hết. Như người bạn nhỏ của tôi, một buổi sáng dậy, xách cặp đi học, thấy cha bị giết, xác và bản án đặt trước ngõ nhà...

Con nít không dám ra đường sáng sớm, những lúc xác người chưa được dọn đi. Nhưng O Xưa ra đường sớm lắm. Vẫn bế bọc vải trên tay, O đi đến bên xác chết. Có người chết nào, hay đầu lâu nào chưa chịu nhắm mắt, O Xưa vuốt mắt cho họ và thủ thỉ:

"Đừng buồn. Đừng sợ. Để tui nhờ chàng Ba chỉ đường tránh cửa ngục..."

Rồi O Xưa ngước mặt lên, kêu chàng Ba, xin nhờ chàng Ba giúp đỡ. Bà con xanh mặt, nửa tin nửa ngờ, nhưng trước cảnh kinh hoàng, ai cũng cúi đầu trân trọng im lặng...

Câu chuyện đã vùi sâu trong ký ức. Mới đây, khi gặp một số bạn cũ trước cùng ở Nam Giao, cùng ngồi nhắc lại chuyện cũ. Tôi hỏi các anh chị còn nhớ Huế, nhớ xóm Nam Giao, nhớ O Xưa không?

"Mụ Xưa há. Nhớ chơ răng không nhớ!"

Tôi bỏ Huế rất sớm, không biết O Xưa sau này ra sao? Sống? Chết?

"Nghe nói sau 75, có người còn gặp mụ Xưa..."

"Ở mô?"

"Nghe nói vẫn ôm cái bọc đi lên đi xuống dốc Nam Giao. Bộ dạng gia đình đề huề lắm. Mụ đã có cháu nội cháu ngoại..."

Tôi ngẩn người. O Xưa. Huế đã qua biến cố Mậu Thân, thành phố đầy xác chết, đầy khăn tang. Qua cuộc đổi đời 75 máu nhuộm biển đông, O Xưa vẫn còn và không biết O đã có thêm bao nhiêu con, bao nhiêu cháu với ma nữa! Nhưng vẫn chỉ là nghe nói. Có ai nhìn thấy không? Tôi im lặng, ngẫm nghĩ một mình. Câu chuyện đã cũ, cũng như O Xưa, xưa rồi. Thời buổi này, kể ra không ai còn có thể tin. Nhưng tôi biết, những người đã sống thời đó, thì câu chuyện O Xưa, tin hay không tin, hình ảnh O Xưa, chắc chắn vẫn còn váng vất trong trí nhớ.

Tôi viết truyện  này để tặng bạn bè cũ, đã có cùng một thời thơ dại ở xóm Chùa, cùng trên "con đường Nam Giao thẳng mà không bằng", như lời nhà thơ Xuân Diệu từng mô tả.

 Nhã Ca

 

Quảng-cáo-sách-O-Xưa