Thứ Sáu, 12 tháng 9, 2025

Thoát khỏi thân phàm

 

Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái

Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.


Tranh của họa sĩ Willem de Kooning

 

Khoảng đầu thập kỷ 1980, tôi tình cờ gặp một người đàn ông trạc tứ tuần, gầy héo lẳng nhẳng. Cuộc chuyện trò rất vui vẻ và sau khi người đàn ông đã đi rồi, tôi mới biết đấy là MQ, người có dịch một số truyện ngắn của Konstantin Paustovsky.

Tôi cho rằng nếu đã có Vũ Thư Hiên dịch Paustovsky thì người ta không cần bản dịch của ai khác nữa. Bản dịch Bông hồng vàng và Bình minh mưa đã gây ảnh hưởng đến mấy thế hệ viết văn ở Việt Nam. Vợ chồng nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Tú khi ấy cũng biết MQ và cho biết thêm: MQ là người giỏi ngoại ngữ. Anh ấy sống độc thân, hơi thất thường và tự kể là đã nhiều lần không muốn sống.

Lúc ấy tôi đã đọc tập Chiếc nhẫn bằng thép, gồm một số truyện ngắn của Paustovsky, người dịch ghi bút danh là Vũ Quỳnh. Về ngôn ngữ, tiếng Việt của anh nhàn nhạt, không chuyển được vẻ duyên dáng bảng lảng bâng khuâng của Pau. Chỉ nhớ thế, rồi tôi cũng quên con người mà tôi gặp chốc lát.Mãi đến năm 2023 đọc bài của Kim Ân viết từ năm 1998 thì tôi mới biết MQ đã nhảy xuống sông Hồng tự tử hơn ba chục năm rồi. Trước đó, MQ đã mấy lần bày tỏ rằng chỉ muốn chết. Kim Ân viết:

*

Cũng không cần phải là chuyên gia tâm thần học để biết rằng có những người sống mà không muốn sống. Họ không coi cuộc sống có một vẻ đẹp như người đời vẫn quen gắn trong cụm từ “vẻ đẹp cuộc sống”. Có những người tâm trạng u ám chỉ trong một khoảnh khắc, một thời đoạn, nhưng cũng có người triền miên trong cả cuộc đời.

Osho cho rằng những người này vốn có bản năng tự sát. Nhân nhắc lại trường hợp lịch sử một giáo chủ đi truyền đạo và bị giết hại, Osho luận về triệu chứng: “Có lẽ ông có một bản năng tự vẫn. Những người có bản năng tự vẫn thường không đủ can đảm để tự vẫn: nhưng họ có thể xoay xở để người khác mưu sát họ. Và rồi ta sẽ không bao giờ phát hiện ra rằng họ có một bản năng tự vẫn, rằng họ xúi giục ta giết họ, để cho trách nhiệm đổ xuống đầu ta” (Cuộc đời của luận sư Rajneesh Chandra, NXB Trẻ 2007, trang 86).

Từng có một vị nguyên thủ quốc gia, ở giai đoạn cuối đời, phải cùng lúc chống chọi với các đòn tấn công trong và ngoài chính đảng của mình và đứng trước nguy cơ bị ám sát. Cơ quan an ninh quốc gia nhắc nhở bà nên thay đơn vị bảo vệ nhưng bà trì hoãn. Điều đó dẫn đến việc bà bị hai sĩ quan bảo vệ sát hại. Mãi về sau dân chúng vẫn không hiểu được việc bà trì hoãn, không cho đổi sĩ quan bảo vệ khi mà nguy cơ đã rất rõ ràng. Người ta cho rằng lúc ấy bà đã hoàn toàn chán ngán chính trường, bà đã buông xuôi tất cả, muốn ra sao thì ra. Bản năng tự sát vốn nằm im đâu đó bên trong, lúc đó mới thức dậy chăng?

Trong chính trường của một đất nước, các phe phái mâu thuẫn có khi dẫn đến xung đột, huy động cả triệu người xông vào văn phòng chính phủ đập phá, lật đổ giành chính quyền. Có người có lý tưởng có mục tiêu tối thượng là giành chính quyền, đánh đổ cái cũ để thiết lập cái mới theo ý mình. Không loại trừ khả năng có nhiều người hung hãn, bản năng tự sát trong người họ được kích động và phóng đại. Nhiều người coi những cuộc cách mạng là ngày hội, hội được chết, một cảm khoái được quên cái thân này đi, được tuẫn tiết.

Trong lòng những chính thể độc tài, các lực lượng đấu tranh phần lớn phải dùng hình thức đấu tranh bí mật. Nhưng cùng lúc vẫn có những cá nhân cao giọng công khai, có khi hoàn toàn liều thân theo kiểu thách thức chính thể cho mình đi tù.

Trong giao thông hỗn loạn ở các đô thị, không riêng một nước nào, ta vẫn thấy những người xe đạp xe máy xe hơi nghênh ngang giữa lòng đường không chịu nhường đường cho xe sau, thậm chí có những kẻ phóng xe như điên dại cho thỏa chí. Họ như gửi thông điệp cho những người xung quanh: đang muốn chết đây. Có người chỉ là nói liều nhưng cũng có người nói thật tâm trạng khủng hoảng bế tắc của mình.

Cũng như thế là cảm xúc tập thể được kích động, khi đám thanh niên cuồng loạn lao vào những cuộc đua xe “quá nhanh quá nguy hiểm” - tên một bộ phim Mỹ về đám đua xe. Ở Việt Nam từng có những cuộc đua xe máy mà trước khi vào cuộc, đám thanh niên quấn sẵn lên đầu một mảnh khăn tang màu trắng.

Rồi trong quan hệ quốc tế, xung đột giữa các quốc gia nhiều khi bùng nổ thành chiến tranh, đẩy cả biển người ra chiến trường và đổ máu. Có những cuộc chiến chẳng phải mục tiêu tổ quốc cao cả gì mà nó xuất phát từ bản năng tự sát của quốc trưởng. Chỉ có điều quốc trưởng tự sát bằng mạng sống của những sinh linh mù quáng mà thôi.

Ta đang nói về bản năng tự vẫn cho nên không dành nhiều chỗ cho những trường hợp tự sát vì áp lực hoàn cảnh: vì cá cược, vì phá sản, vì thất bại trong công việc, trong tình duyên, trong học hành. Riêng người tự tử vì hổ thẹn gây ra tội lỗi thì hình như vẫn được coi là còn có lương tâm. Lại cũng có những cuộc tự hủy vì bị bức hại như anh bán hoa quả ở Tunisia. Anh bị cảnh sát tịch thu mất xe bán hàng rong. Bị dồn vào con đường cùng có thể làm cả gia đình chết đói, anh đã quay trở lại tự thiêu ngay trước đồn cảnh sát. Vụ tự thiêu của anh ngày 17-12-2010 dẫn đến phong trào Mùa xuân Arab, sự phẫn nộ trước ngang trái và bất công có dịp nổ bùng ra, biểu tình nhanh chóng lan rộng ra khắp khu vực, dẫn đến sự sụp đổ chính quyền ở một số nước Bắc Phi và Trung Đông.

                                                  Tranh của họa sĩ Vincent van Gogh

*

Một người như Hemingway, tài năng, kiêu hùng. Khi xảy ra nội chiến ở Tây Ban Nha, ông tự nguyện sang đấy viết tin và tham gia bảo vệ nền cộng hòa trước sự tấn công của phái quân phiệt nổi loạn. Ông sống một cuộc đời tung hoành, thích săn bắn, từng hào hứng tham gia vào những cuộc đi săn cá mập cá kiếm trên biển. Đẹp đẽ và đào hoa, tuổi trẻ của Hemingway chen chúc những người đẹp. Ấy thế, ông bị sốc khi bước vào tuổi già, một thời đánh đông dẹp bắc, giờ bắt đầu sa sút, dự báo sắp đến thời trí không điều khiển được thân. Tuổi già là con vật bẩn thỉu. Ông nói vậy và kề khẩu súng săn vào bên dưới cằm, tự sát ở tuổi sáu mươi hai. Người ta hiểu câu ông nói chỉ là riêng biệt hoàn cảnh của ông, cho nên thiên hạ chỉ ghi nhận mà không tranh luận. Tất nhiên cũng không thể tranh luận với người chết.

Nhưng cũng có những trường hợp bản năng tự vẫn nổi dậy khi mà đời sống quá đầy đủ quá bằng lặng, đến mức nhàm chán. Không có yếu tố bất ngờ đột ngột thình lình. Mọi sự đều tẻ nhạt, nhàn rỗi, nỗi buồn vô cớ cứ thế dâng đầy. Thế là trong tích tắc chọn ngay giải pháp cuối cùng.

“Giá mà được chết đi một lúc”, câu thơ của Nguyễn Thế Hoàng Linh nói đúng cái ý nghĩ bất chợt nảy ra trong đầu người ta một lúc nào đó. Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.

Vậy nên Nodar Dumbadze, nhà văn người Georgia, mới nói người ta nên ốm thập tử nhất sinh một lần trong đời.

Và thỉnh thoảng cũng nên đi viếng người chết. Xong đám ma, về nhà có người huyết áp tăng vọt, cũng có người sung sướng âm ỉ thấy mình còn sống.

*

Các tôn giáo hầu như đều đồng tình ngăn chặn bản năng tự hủy diệt ở con người. Phần lớn các giáo lý đều khuyên răn sống tốt đời trần thế, tu dưỡng thiện tâm, và hứa hẹn cho người tốt một chỗ ở trên thiên đường. Người tự sát dù có bất cứ lý do gì đều không được lên thiên đường, và họ bị trừng phạt bằng cách thi thể không được táng trong nghĩa trang của giáo xứ. Chỉ có thượng đế mới có quyền cho con người mạng sống hoặc đưa họ đi khỏi cuộc đời. Cho nên người tự sát thực hiện một hành động báng bổ là cướp quyền tối cao của thượng đế.

Nhưng cũng có tôn giáo cho việc tự sát một ngoại lệ: nếu đấy là sự quên thân vì nghĩa lớn, đánh bom tự sát để tiêu diệt một kẻ nguy hiểm hoặc phá hủy một tòa nhà của kẻ thù chẳng hạn. Người tự sát đó được hứa hẹn sẽ lập tức lên thiên đường hưởng lạc với hàng chục mỹ nữ vây quanh.

Đạo Phật là tôn giáo không có thần thánh, không hứa hẹn cho ai lên thiên đường hoặc dọa dẫm họ phải ra khỏi nơi đó, nhưng tất nhiên Phật giáo cũng coi việc tự hủy hoại là vô minh. Trong muôn vạn kiếp, phải khó khăn lắm mới hội đủ nhân duyên để hình thành một kiếp người. Vậy một khi được làm người, người ta phải tranh thủ dùng cơ hội hiếm hoi đó để mà tu tập tìm đường thoát khổ.

Mặt khác, quan điểm của các tôn giáo cũng có độ vênh nhất định trong xã hội hiện đại. Một trong những tình trạng không ăn khớp là khi con người phải chịu nhiều đau đớn bởi bệnh tật. Người bệnh liệt giường trong một thời gian dài hoặc phải chịu đựng cơn đau tinh thần quá mức chịu đựng có được quyền tự quyết định sinh mạng mình hay không? Giúp cho họ một cái chết nhẹ nhàng là nhân đạo hay vô nhân đạo? Hay là tư tưởng còn nước còn tát mới hợp truyền thống và đạo lý, cho dù vô vọng trước thực trạng?

Người ta vẫn thường thầm cầu khấn được khỏe mạnh cho đến giây phút cuối cùng của cuộc đời. Thấy mệt lên giường nằm, tưởng chỉ nghỉ ngơi một lát rồi cứ thế mà đi luôn. Nhẹ bước về trời. Người đời nói: chết như thế là chết tiên.

Nhưng rất ít ai dám nghĩ đến việc một khi mắc bệnh trầm trọng thì được ra đi bằng cách an tử (euthanasia). Người ta vẫn đánh đồng an tử với sát nhân hoặc tự sát, dám tranh giành với đấng tạo hóa quyền định đoạt số phận.

Nhân loại vẫn mãi còn định kiến với việc tự hủy diệt.

Hồ Anh Thái/Báo Văn Nghệ

 

Thứ Tư, 10 tháng 9, 2025

MỘT CHUYỆN TÌNH

 TUÂN NGUYỄN

Tuân Nguyễn (1933-1983)

Trong bất cứ cuộc chuyện trò nào của cha mẹ tôi về bè bạn, tôi cũng thấy hai người nhắc đến một người bạn thân, người mà tôi chỉ gặp từ khi còn rất nhỏ, song ký ức về bác thì vẫn còn nguyên vẹn: khuôn mặt xương xương, ánh mắt sáng ẩn sau gọng kính đen to, chiếc sơ mi màu trắng. Tôi không rõ hình ảnh về bác hằn trong ký ức của tôi từ bao giờ? Đó có thể là ký ức của bé Mi bé tí tẹo tèo teo, bị bác bất ngờ bế thốc lên rồi dí sát mặt vào nựng. Sau này mẹ tôi kể là bà vội giằng tôi lại từ tay bác vì sợ bác làm rơi con. Đó cũng có thể là ký ức khi tôi đã lớn hơn, chừng 10 tuổi, được gặp bác vào dịp bác đến thăm mấy mẹ con sau khi đã mãn hạn tù.
“Em có nghe tin tức gì về Tuân Nguyễn không?”; “Em còn nhớ Tuân Nguyễn không?” – Luôn là những câu hỏi như thế từ cha tôi dành cho mẹ, vào nhiều dịp, nhiều giai đoạn cuộc đời, kể cả khi bác Tuân Nguyễn đã không còn.
Tôi hiểu rằng cha mẹ tôi luôn nhớ về bác, về tình bạn ấy. Sau này cha tôi có viết một truyện ngắn về bác Tuân Nguyễn. Ông nói ông viết vì yêu quí người bạn ấy, và bởi vì cuộc đời bác quá đặc biệt. Cha tôi không dùng từ “khổ”.
Tôi không thể hình dung tại sao một người có khuôn mặt hiền, ánh mắt tựa như đang cười, có đôi chút ngây thơ lại có số phận long đong đến như vậy! Chắc hẳn ánh mắt ấy, cũng như ánh mắt của cha tôi – những con người chỉ biết sống trung thực và thẳng lưng - đã từng băn khoăn tự hỏi “tại sao người ta lại bắt mình?”.
Cuộc đời của Tuân Nguyễn đã được tóm gọn qua mấy dòng bởi nhà báo Ngô Thị Kim Cúc : “Con người ấy sinh ra đời là để yêu cuộc đời và yêu con người, nhưng đã được đáp lại theo một cách hoàn toàn trái ngược. Hay nói như dịch giả Cao Xuân Hạo thì: "Tuân Nguyễn sinh ra ở đời là để đóng vai trò này: Khi có ai đó kêu lên "Trời, sao mà tôi khổ thế?", thì nhìn vào Tuân Nguyễn, sẽ thấy mình chưa phải là người khổ..."”.
Là nhà thơ có tài mà Phùng Quán phải nể phục, Tuân Nguyễn đã không có cơ hội để trọn vẹn với thơ. Gần 10 năm bị lao lý chỉ vì một cuốn nhật ký, ra tù không nhà, không cửa, Tuân Nguyễn đã phải lận đận mưu sinh, từ việc phải làm nghề đánh vécni và dọn vệ sinh ở ga Hàng Cỏ (Hà Nội) để kiếm sống, rồi sau này vào Sài Gòn dịch sách, và lấy báo cho vợ bán. Những tưởng cuộc sống của bác cũng dần ổn định thì ngày 25 tháng 4 năm 1983, trên đường đi lấy báo về, Tuân Nguyễn bị một chiếc xe tải tông vào, được đưa đi cấp cứu tại Bệnh viện Chợ Rẫy nhưng không qua khỏi. Trước khi mất, Tuân Nguyễn có một lời trăng trối: "Đừng bắt tội người tài xế, ông ấy còn phải nuôi 8 đứa con... Lỗi tại tôi... ". Ông vĩnh biệt cuộc đời ở tuổi 50 khi chưa thực hiện được giấc mộng văn chương, khi những đau đớn trong tâm hồn chưa được giải tỏa.
Tôi đã khóc khi nghĩ về cuộc đời của bác, của cô Phương Thúy vợ bác.
Xin chia sẻ cùng mọi người truyện ngắn của cha tôi về một kỷ niệm của bác Tuân Nguyễn - người bạn thân thiết của cha mẹ tôi, gia đình tôi. (Vũ My Lan)
MỘT CHUYỆN TÌNH
1
Ra khỏi cái toa đen nồng nặc mùi nước giải và mùi thuốc sát trùng, khách ngoái nhìn cái đầu máy đang xì xì phả từng cụm hơi nước:
– Ờ, thế là kết thúc rồi, kết thúc thật rồi, một đoạn đời khốn nạn của ta.
Tay nải kẹp nách, anh lững thững bước vào ga. Trên sàn rộng không còn một chỗ trống. Tiếng ngáy đủ mọi cung bậc bay lên vòm trần.
– Mà lạ, sao mình không cảm thấy vui, cũng chẳng thấy buồn. Nhỉ?
Anh vặn người. Mấy đốt sống kêu lục cục. Lúc lắc nhiều giờ trên tàu, anh mệt, anh muốn nằm.
Ngả lưng giữa đống người kia ư? Quang cảnh trước mắt làm anh phát gớm. Chặc lưỡi, anh len ra ngoài.
– Mình đi đâu bây giờ? Không thể đến nhà ai vào cái giờ khuya khoắt này –‘ anh tự nhủ – Làm gì còn ai chờ đợi mình?
Đêm hè. Gió mát. Mấy con chuột cống béo núc chạy loăng quăng trong rãnh hè.
– Này, lượn mãi. Không chán à?
Có tiếng gọi. Tiếng con gái.
– Đi không?
Tiếng gọi rõ ràng hướng về anh. Ngoái lại, anh thấy một người đứng tựa lưng vào tường – một cô gái.
Trẻ, thân hình thanh mảnh, cặp vú nhỏ nhú lên dưới lớp vải xanh mỏng tang. Anh bất giác tủm tỉm: kiểu áo này anh biết, nó mang một cái tên đáng sợ: áo “thắt cổ mổ bụng”.
– Đi đâu cơ? – anh không hỏi cô gái, anh tự hỏi.
– Còn đi đâu nữa? Anh không hiểu à?
-Tôi chẳng có đâu để mà đi, cô ạ.
Cô gái dợm bước về phía anh:
– Sao lại chẳng có đâu để mà đi?
Anh cười. Cái cười vô nghĩa:
– Thật mà.
Giọng bả lả, cô bảo:
– Thì đi với em. Ông anh chờ tàu hở? Hai tiếng nữa mới có tàu xuôi, anh ơi. Còn khối thời giờ.
– Không. Tôi không chờ tàu. Đây là ga cuối của tôi.
– Sao ông anh cứ luẩn quẩn ở đây? Ông anh không vội về nhà?
– Không.
– Sao thế?
Anh lúng túng.
– Tôi vừa ra tù.
Cô không ngạc nhiên. Cô vui vẻ:
– Thế à? Thì đi giải đen với em. Rẻ thôi. Nhé?
Cô túm tay áo anh.
– Không được, cô ạ.
– Sao lại không được?
Anh lúng túng đáp:
– Tôi không có xu nào trong túi.
– Thế thì lượn mãi làm gì?
Anh không tìm được câu trả lời. Anh lặng thinh.
Dưới ánh sáng nhợt nhạt của ngọn đèn đường bị lũ thiêu thân quây thành vồng, anh ngồi bệt trước cửa ga, tựa lưng vào bức tường đá.
Cô gái quan sát anh, rồi đến ngồi bên anh.
– Anh không muốn về nhà?
– Không. Tôi ngồi đây chờ sáng.
– Không về nhà thì anh định đi đâu? – cô gái nhắc lại.
– Tôi đang nghĩ.
– Nghĩ thì có ra được chỗ để về không?
– Rồi tôi sẽ nghĩ ra.
Mười một năm trước anh cũng có nó, cái gọi là nhà – một căn phòng hẹp, trần thấp, bề bộn sách. Anh nhớ về nơi ở quen thuộc một thời gian dài. Rồi anh quên. Mà nghĩ đến nó làm gì chứ! Căn phòng ấy nhà nước cấp cho anh. Rồi nhà nước đưa anh đi tù. Cái phòng hết là của anh.
Hai người im lặng một lúc.
Cô gái ngẩng nhìn bầu trời đen.:
– Khuya rồi đấy.
Anh cũng nhìn theo cô.
– Dễ gần hai giờ.
– Ga có đồng hồ mà. Cô không biết xem đồng hồ?
– Không.
– Hai giờ mười lắm.
Cô gái ngẫm nghĩ. Rồi nói:
– Hay là… thế này…
– Cô bảo sao?
– Ông anh… về với em.
Anh thở dài:
– Tôi không có tiền. Thật mà.
Cô quan sát anh lần nữa. Rồi túm tay áo anh:
– Về với em. Không tiền nong gì hết.
Anh ngơ ngác. Anh không hiểu.
– Em cũng có lúc như anh mà – chẳng biết đi đâu.
– Có tiện không?
– Đừng ngại.
Cô túm tay áo kéo anh đứng lên.
2
Nhà của cô là chái hẹp một căn nhà hẹp, trong đó có một cái giường đơn, đúng hơn là một cái chõng. Chõng có đệm, có chăn. Không khí có mùi ẩm mốc.
Anh quăng tay nải xuống đất, nhìn cô đánh diêm châm ngọn đèn hoa kỳ. Nó lép bép mãi, không chịu bén lửa.
– Cảm ơn cô.
– Anh không có nhà thì đây là nhà.
– Tôi làm phiền cô quá.
Cô sửa lại vạt chăn lơi xuống đất:
– Em cũng đã trải qua cảnh ấy.
– Thật sao?
– Không phải một lần đâu. Anh cứ nằm đây, nghỉ đi.
– Thế cô nằm đâu?
– Chõng rộng. Đủ chỗ cho hai người.
3
Câu chuyện này tôi nghe bạn tôi kể. Lâu lắm rồi.
Tôi muốn ghi lại câu chuyện được nghe trong hình thức một truyện ngắn hay một bút ký, nhưng viết mãi không thành. Dưới gầm bàn đầy những trang giấy vo viên. Trong tay các nhà văn câu chuyện này chỉ một loáng là xong. Tôi thì không thể. Tôi không phải nhà văn. Nhưng không viết nó ra thì tiếc.
– Ông kể tiếp đi – tôi nằn nì – Tôi muốn nghe.
– Ờ, thì kể. Nhưng chuyện khó tin đấy.
– Tôi tin.
Bạn tôi ngần ngừ:
– Nó khó tin, nhưng là chuyện có thật. Tôi nằm xuống cái chõng ấy và thiếp đi ngay lập tức. Giữa đêm thức giấc, tôi thấy có người nằm bên. Là cô gái ấy.
Tôi cười:
– Tôi hình dung được chuyện ắt phải xảy ra.
Anh nghiêm mặt:
– Bậy nào. Tôi biết, ông, và nhiều người nữa, chắc sẽ nghĩ như ông. Rằng tôi sẽ vồ lấy cô ấy, ngấu nghiến làm cái việc con vật đực bị giam hãm lâu ngày sẽ làm. Không, hoàn toàn không phải thế. Đời tù quá dài đã làm tôi quên chuyện ấy. Nói cho đúng, tôi không nhớ tới nó. Khát vọng tự do đã che lấp mọi cảm giác.
Anh lặng đi trong hồi tưởng.
– Đó là một đêm cực kỳ hạnh phúc trong đời người. Nó chỉ xảy ra một lần, nếu anh may mắn gặp nó. Nó giống như một giấc mơ. Hơi thở đều đều của người con gái không quen biết gối đầu trên tay tôi. Nó mới thơm làm sao, mới ấm áp làm sao, mới tinh khiết làm sao. Cái hương ấy chẳng bao giờ tôi quên được. Nó giống hương hoa đồng nội ở những phút hiếm hoi khi con người cảm thấy mình với thiên nhiên là một.
Tôi nghe, chìm trong tưởng tượng.
– Rồi sau đó thì sao?
– Cô giữ tôi ở lại với cô – anh nhớ lại – Tôi mệt. Tôi ngủ ngay lập tức.
Sáng ra, cô bảo:
– Anh cứ ở lại đây. Nhìn anh, em tin anh. Anh là người ngay thật.
– Và anh ở lại? – tôi hỏi, với một chút ngạc nhiên.
Anh gật:
– Vâng. Anh không tin?
– Tôi tin.
– Nói cho đúng, một cơn sốt rét đã giữ tôi lại. Cô gái chạy đi mời bác sĩ. Ông ta đến, làm gì, tôi không biết. Tôi mê man. Khi cơn sốt lui, tôi hiểu: cô gái đã cứu mạng tôi. Mà bằng cái gì?
Anh bặm môi, nói chậm từng tiếng:
– Bằng tiền đi khách, anh ạ. Bằng tiền đi khách, thật vậy. Có cái ơn nào lớn hơn ơn ấy không?
Những gì tôi biết về bạn mình không giống câu chuyện tôi nghe..
Anh có vợ là một nhạc công chơi tam thập lục trong một dàn nhạc dân tộc, con một học giả danh tiếng. Không phải cô gái trong câu chuyện anh kể.
Tôi giục:
– Kể tiếp đi.
– Tôi kể đây. Khỏi bệnh, tôi nói với cô: “Em là người tốt nhất với anh trong đời. Nếu em không chê kẻ vô gia cư này, thì anh xin được gá nghĩa cùng em.
– Cô ấy nói sao?
Cô ấy bảo:
– Không được, anh ơi. Chúng ta không thể thành vợ chồng. Anh khác em. Anh là trí thức. Trong lúc mê man, anh lảm nhảm bằng tiếng Tây. Em không thể làm vợ anh.
– Tại sao?
– Anh không thể có vợ là một con điếm.
Tôi hỏi tiếp:
– Rồi sao?
– Tôi bảo: anh cũng là kẻ dưới đáy. Ta có khác gì nhau.
– Không đâu – cô ấy nói – Anh khác, em khác. Dù trong lúc này chúng ta cùng ở dưới đáy.
– Anh không thuyết phục được cô ấy?
– Tôi đã cố gắng, nhưng vô vọng.
– Rồi anh bỏ đi?
Anh lắc đầu, buồn bã:
– Cô ấy bỏ đi. Đi đâu, không biết. Tôi đã tìm. Không phải nhiều ngày, mà nhiều tháng. Mọi chuyện rồi cũng qua, như cuộc đời vốn thế. Tôi không biết gì hơn. Trong đám cưới với nhà tôi bây giờ, tôi nhận được một bó hoa vô danh do một cậu bé mang tới.
– Là của cô ấy?
– Trong bó hoa có một mẩu giấy.
– Cô ấy viết?
– Không phải. Mẩu giấy là của tôi, trong đó có mấy câu thơ viết vội.
– Thơ thế nào?
– Không ra gì. Không đáng để anh nghe. Điều làm tôi xúc động là cô đã giữ nó. Như một kỷ niệm về tôi. Nay cô ấy trả lại.
Chuyện này xảy ra với một nhà thơ, bạn tôi.
Tôi chỉ ghi lại chuyện anh kể. Không thêm. Không bớt.
Anh là nhà thơ không tăm tiếng. Tên anh không được nhắc đến trong các nhà thơ hiện đại.
Nhưng trong tôi, anh để lại một dấu vết không phai mờ.
Nó được tạc vào ký ức. Rõ nét. Như tạc trên đá.
Vũ Thư Hiên

trái sấu khô

Những trái sấu khô cắt đôi, được sơn thếp vàng, nhìn như hình từ trên xuống 5 vị ngồi kiết già trở thành biểu tượng của พระเจ้าห้าพระองค์ ~ Ngũ Trí Như Lai / Ngũ Phương Phật: một vật thờ và bùa hộ mệnh của người dân Lào và Đông Bắc Thái.



Chủ Nhật, 24 tháng 8, 2025

Cù lần

Cù lần

Truyện ngắn của Hà Hồng Nguyên

Tiếng xe máy nổ ì ạch rẽ ngang con đường dốc đất đầy những đá cục lởm chởm, bụi tung bay túa ra hai bên đường bám vào lá cây lớp đất đỏ quạch, dày bịch loang lổ. Tiếng xe thưa nhỏ dần rồi giảm ga cua vào ngõ nhỏ, theo cái đà xóc nảy của hõm đá ở bờ sân kêu beng một tiếng. Bà nhấn nhá, lom khom cúi xuống tìm cái cần chân chống để dựng xe. Ông trong nhà nhủng nhẳng vọng ra.

– Làm cái gì mà về muộn thế, để mẹ con bác ấy tới chơi đợi cả tiếng đồng hồ.

Bà bước lên bậc thềm, tay vo vo vào vạt áo lau khô nước vừa mới rửa, nhỏ giọng.

– Mẹ con bác đến lâu chưa? Nay em bán rau hơi ế, còn mấy bó cứ cố nấn ná mãi mới về.

Người đàn bà áo hoa ngồi trên băng ghế dài xởi lởi đáp.

– Có lâu gì đâu thím, nghe thấy chú đi viện về, nay cũng mới bảo cháu chở đến chơi. Tình hình chú khỏe hẳn rồi chứ thím?

Bà vừa châm thêm nước trà vào chén cho khách vừa đáp.

– Ông nhà em vẫn vậy, qua đợt này không đỡ chắc lại đưa ra ngoài Hà Nội thôi.

Ông nghe vợ nói liền đưa mắt nguýt dài một cái, hậm hực.

– Chả phải đi đâu nữa sất, lão này già rồi, nghe chừng không còn tích sự, động nhắc đến lại thở ngắn với chẳng than dài.

Bà khách biết ý, thôi không hỏi nữa. Bà nghe giọng chồng giận dỗi cũng chẳng dám thỏ thẻ gì thêm.


Nhà văn trẻ Hà Hồng Nguyên ở Đắk Lắk



Quá trưa, mẹ con bà khách ra về, còn mình ông ngồi lại trên chõng. Bà lại lúi húi về sau dọn dẹp nấu cơm. Đến giờ ăn, bà bưng lên tô cháo bò bằm còn nóng hổi, kéo cái ghế đẩu lại trước mặt chỗ ông ngồi, dùng thìa đảo qua đảo lại cho nhanh nguội, xong xuôi, bà để đó cho ông tự xúc ăn , còn mình lại lủi thủi ra ngoài nhà kho cho con cù lần uống nước. Quê bà gọi con cù lần là con cu li, thuở xưa đi rừng, hễ bắt được cù lần là chẳng ông thợ nào vui bởi người ta quan niệm cù lần mang nhiều điều xui xẻo. Lần đó anh Trung con trai lớn của chồng bà bẫy được nó còn sống, mang về nhà cứ vứt vạ vật khắp nơi, con vật trong lồng vừa đói vừa khát, nhìn vào mắt nó, thế nào bà lại thấy thương thương. Bà bảo anh Trung đưa cho mình, bà thả nó ở nhà kho phía sau chuồng gà. Lạ là mấy lần bà quên không đóng cửa, con cù lần vẫn ở rịt đó không đi.

Phía sau vườn nhà bà có mấy gốc hương to, đàn cháu ông năm đứa nắm tay nhau quây tròn mới vừa vòng ôm một trong 4 cái cây ấy. Ông cũng không biết nó có từ bao giờ, nhưng để giữ được chúng nó nguyên vẹn, ông đã trả giá bằng việc mất hết anh em. Nhà ông bốn anh em trai, ông là con út, hồi xưa mẹ cha chia đất có để lại cho ông mảnh vườn bây giờ ông đang ở vì ông có trách nhiệm chăm nom bố mẹ già. Khi hai cụ khuất núi, đám anh ông chả hiểu kiểu gì đòi chia lại đất. Gỗ hương tự nhiên đắt giá hơn vàng, có người đổi đời thành triệu phú chỉ sau một đêm nhờ bán những gốc hương cổ thụ. Đồng tiền làm mờ mắt, khi giành nhau chán chê không được, người anh thứ 2 vác dao đến nhà ông dọa chém. May mà ông công an thôn đến can kịp chứ không cũng kẻ chết người vào tù. Đến bây giờ, mỗi lần ra sân giếng, bà vẫn rùng mình mãi vì vết chém sâu hoắm in hằn trên cái cột gỗ nơi chái nhà.

Anh em ông từ dạo đó ân đoạn nghĩa tuyệt, coi nhau còn không được bằng người dưng nước lã.

Bà năm nay ngoài 60, nhưng về làm dâu nhà ông mới được 4 năm có lẻ. Tối ngủ, nằm cạnh chồng nhưng bà thấy cái giường cứ rộng thênh thang làm sao. Ông năm nay gần bảy mươi , hơi thở phì phò như trâu đánh chọi, cánh tay ông lúc nào cũng giang ra nhưng bà không giám gối đầu lên đó bởi bà trông nó cảm giác lỏng lẻo và yếu ớt, bà lại sợ ông đau. Lăn qua lăn lại từ tối cho đến gần sáng, gà gáy canh 3, bà trở dậy lo nhúm bếp đun nước để sáng ngày pha chè xanh cho chồng uống. Ngồi bên bếp lửa nóng ran nổ tí tách, bà cời cời que than bó đầu vào trong gối. Cảm giác đời mình đã trôi xa lắc xa lơ từ tận cõi nào.

Lấy chồng, bà đã lặp lại hai từ đó trong giấc mơ trôi dạt dài từ năm này qua năm khác. Năm 20, bà ôm mộng lấy chồng, người thanh niên trai trẻ vạm vỡ bà ước ao được lấy làm chồng năm nào nay qua quãng đời dâu bể đã thành một lão già chưa lụ khụ nhưng đã gần 70 cọc cằn và khó tính. Có ai biết đâu bà đã ôm mộng làm vợ ông từ những năm thanh xuân xa lắc lơ non dại. Ngày đó ông bà thề non hẹn biển, cứ ngỡ chỉ cần túp lều tranh nhưng hai quả tim vàng. Đùng một cái, cha mẹ bắt ông cưới vợ, vợ ông là người môn đăng hộ đối cha mẹ ông chọn lựa. Thân bà bần hàn côi cút, bà lấy tư cách gì bước qua cửa nẻo nhà ông.

Hôm chia tay, chàng thanh niên trẻ trung phong độ nói với bà là anh ta không yêu người cha mẹ anh ta chọn, anh ta chỉ yêu bà thôi. Nếu có thể, sau này anh ta vẫn muốn cùng bà gặp gỡ, không có phận nhưng anh ta vẫn muốn cùng bà nối duyên. Bà lặng im không nói, nước mắt theo bóng trăng chảy xuống thành hàng, người đàn ông bà yêu đi lấy vợ, lại còn ích kỉ muốn cả cúc cả mai, anh ta lấy vợ rồi còn muốn bà tiếp tục gặp gỡ, như thế chẳng phải muốn bà làm người thứ ba sao.

Ông có gia đình, bà cũng cứ ở không như thế, cũng có nhiều người tới nhà bà dạm ngõ, nhưng người một nơi tim bà một nẻo, bà không mang được tim về, đành để nó chết chìm bên người đàn ông đã thành gia lập thất, để cuộc đời mình cũng chết chìm luôn theo. Con ông hết đứa này đến đứa khác thay nhau chào đời, bà cũng hết lần này đến lần khác quặn thắt ruột gan. Bà không trông mong gì ở ông, cũng chưa bao giờ có suy nghĩ dám cùng ông quá phận, chỉ là bà cứ ở thế đấy. Tim bà chết rồi, ngoài ông ra thì nó có sống lại được vì ai nữa đâu.

Ấy thế mà đùng một cái, vợ ông đổ bệnh, vật vờ ba năm thì khuất núi. Bà cũng chẳng dám nghĩ ngợi mơ tưởng gì xa xôi. Nhưng đột nhiên, mãn tang vợ, ông đến nhà bà xin cưới. Ừ thì bà vui nhưng cũng tủi đấy, người làng bảo người ta ăn ốc bắt bà đổ vỏ, bà về đấy hầu hạ ông với đám cháu con ông thì có khác gì con cu li, con ở đợ. Miệng bà cười chua xót nhưng đáy lòng mâu thuẫn, bà có thể ở không vì ông cả đời như thế, đời bà bà còn không tiếc, bà tiếc gì hầu hạ ông, hầu hạ con ông.

Lấy chồng, bà cũng lấy hết can đảm để bước vào cuộc trường chinh vật chất, đất đai nhà cửa bà cắm ngân hàng hết để trả nợ cho thằng con chồng vì nó làm ăn thua lỗ, không có tiền đền bù người ta kiện ngồi tù như chơi. Ừ thì bà thiệt thật đấy, nhưng về ở cùng chồng, nhà cửa đất đai bà cũng để không để trống, vả lại con ông cũng có khác chi đâu con bà, bà thương yêu chúng nó, sau này bà già yếu, bà sợ gì chúng nó không phụng dưỡng, chăm sóc bà như chúng nó chăm ông.

58 tuổi lấy chồng nhưng đâu ai biết bà mới chỉ thuộc về ông có mỗi một lần vào đêm trước hôm ông đi lấy vợ. Còn bây giờ lấy được chồng, nhưng ngủ với ông chồng già nhạt nhòa chăn chiếu, cảm giác liêu phiêu lơ lửng mà mấy bà bán cá miêu tả đâu không thấy, bà cứ thấy hụt hẫng hoài một giấc mơ, giấc mơ về chàng thanh niên trẻ trung vạm vỡ thổi sáo trúc véo von trên bến sông trăng năm nào. Ngày đó, ông lịch lãm, trẻ trung và ấm áp trong chiếc áo màu vàng nhạt, ông thích nói với bà về ngôi nhà gỗ nhỏ ba gian, với cánh cổng cao qua đầu trồng đầy hoa giấy cùng những đứa trẻ, con ông bà đứa đầu tiên sẽ là một cô công chúa, nó đẹp đẽ và có đôi mắt long lanh giống như bà.


Tranh của họa sĩ Phương Bình



Lấy chồng, đêm tân hôn, ông vặn vẹo ngủ say như chết, nửa đêm tỉnh lại, ông mò mẫm làn ngực còn đang căng bóng của bà, được một lát, hơi lửa heo heo mà chú rể đã như đứa trẻ con no sữa gục đầu ngủ mất. Bước vào cuộc sống hôn nhân lạ lẫm với người đàn ông bà thầm nhớ trộm thương suốt mấy chục năm ròng cũng không dập tắt được hết lửa lòng cùng những lo toan cơm áo gạo tiền của cuộc sống. Đám con ông đứa có chồng, đứa lấy vợ nhưng kinh tế thỉnh thoảng vẫn về ngửa tay xin ông. Lấy bà về tiền nong ông đưa bà giữ hết, đám con thấp thỏm nhìn ông nháy nháy mắt với bà, bà tần ngần móc hầu bao xòe vào tay chúng, nay 1 triệu mai 3 triệu, những đồng tiền mặn mòi mồ hôi nồng nồng mùi đất của bà cứ thế ngon lành nhảy vào túi đám con.

Hôm nay anh Trung đến chơi từ tờ mờ đất. Thấy lạ, ông nheo nheo con mắt bảo bà xuống bếp đun ấm chè xanh. Nay Trung vớ vụ gì mà mặt mày tươi tắn lạ, xởi lởi chìa tay ra khoe bố.

– Hôm nọ con nhờ người mua mãi mới được hai củ sâm, biếu bố. Tốt lắm đấy, bố bảo dì mài ra mà uống.

– Ô! Hôm nay mặt trời mọc đằng tây à? Anh lại biếu bố anh quà cơ đấy.

Trung chữa ngại, xun xoe chạy sang ngồi gần bố, đưa tay xoa nắn chân ông.

– Bố cứ nói thế cho xa cách nào. Con là con trai bố, có đồ ngon không cho bố thì còn cho ai.

Ông bề ngoài cười cợt nhưng trong ruột mát lịm. Con ông nó biết quan tâm ông rồi, sâm khó kiếm như thế mà nó cũng lùng được về để báo hiếu cho bố đấy.

Sau hôm đó, Trung sang chơi với ông thường xuyên hơn, hai bố con cứ thậm thà thậm thụt chuyện to chuyện nhỏ trên nhà. Bà dưới bếp lò dò bê mâm cơm lên, anh Trung im bặt

Xong bữa, ông bảo với bà nay Trung đưa ông lên thị trấn làm thủ tục cho người ta thuê đất, có người trên thị trấn muốn thuê mảnh đất của ông mở xưởng gỗ, giá cả rất hời, nay Trung chở ông đi để làm hợp đồng.

Thấy bà lưỡng lự mãi chưa bê mâm đi, ông bảo Trung về thay quần áo trước. Trung đi rồi, ông nhỏ giọng trấn an bà.

– Bà đừng nghĩ ngợi, con tôi cũng giống như con bà, nó có phân biệt gì đâu mà bà hay cả nghĩ.

Thấy bà vẫn im lặng, ông tiếp tục.

– Cho thuê 3 năm chúng ta lấy lại đất, vừa không phai vất vả, lại để ra được một món.

– Nhưng còn mấy cây hương, ông mất công giữ chúng thế, giờ đất đấy cho thuê thì thế nào?

– Tôi cho thuê đất thôi chứ có bán cây đâu, cây vẫn ở nguyên đấy. Thằng Trung làm việc với họ rồi, không ai động đến cây đâu mà bà sợ.

Thấy chồng chắc chắn thế, bà thôi không nói nữa. Nhưng nửa tháng sau khi hợp đồng đã ký, có một nhóm người bê cưa lốc, máy múc vào xới tung vườn nhà ông, ông chạy ra ngăn thì họ bảo ông bán cây cho họ rồi, trong hợp đồng mua bán rõ rành rành có chữ kí của ông.

Ông chết sững, lờ mờ hiểu ra điều gì đó. Hôm Trung đưa ông đi, nó giục ông kí hợp đồng thuê đất mà cứ vội vội vàng vàng, ông bảo nó bình tĩnh để ông đọc lại đã, Trung lại thầm thì vào tai giục ông kí nhanh đi không người ta lại đổi ý, hợp đồng hợp điếc Trung đã đọc qua hết cả, chẳng có gì cần lấn cấn nữa đâu. Yên tâm, ông kí nhanh rèn rẹt, xong xuôi đâu đấy, Trung chở ông ôm cục tiền 100 triệu về nhà, ông cứ tưởng mình trúng mánh, ai ngờ đâu thằng con trời đánh nó lừa nó bán mất mấy cây hương quý của ông hẳn 600 triệu, nó lừa, nó ẵm của ông hẳn 500.

Sau vụ bán cây của bố, Trung đi đâu bặt vô âm tín, gọi điện không được, lò dò đến nhà nó ông mới biết vợ nó đã ôm con về ngoại cả tháng nay. Phẫn uất vì con, ông đổ bệnh nặng. Con ông ngoài thằng Trung ra thì cũng còn hai đứa con gái, nhưng chúng đối với cha không mặn cũng chẳng nhạt, bố ốm, thỉnh thoảng lắm chúng mới ghé về thăm, quẳng cho ông được vài cân trái cây với lon sữa. Còn đâu để một mình bà lo tất. Nhà ông nghề nông rặt, ruộng vườn đất đai nhiều, bà vừa lo đồng áng heo gà, về nhà lại tất bật chăm ông.

Ông ốm, bà không ra đồng làm xa được nữa, công việc ngoài đồng bà thuê khoán cho người ta, ở nhà mò mẫm trồng thêm vài luống rau tăng thu nhập với tiện thể chăm sóc ông cho tiện. Càng ngày ông càng khó tính, phẫn uất vì con cộng thêm bất lực bệnh tật khiến ông càng ngày càng trái tính trái nết. Lắm hôm thay bỉm cho chồng, ông nặng quá bà không sao nhấc cái mông ông lên được, ì ạch mãi đâm ông nổi quạu, người ông ốm đấy nhưng cái tay ông khỏe, ông đẩy một cái bà ngã sóng soài xuống nền gạch. Ông lầm bầm trong miệng.

– Đồ vô dụng, để lão già này tự thay, tao không khiến.

Ông khua tay sờ soạng, lần mò nhấc đít kéo cái bỉm ra, tay khườ khoạng phải mớ chất thải dây ra thối khắm, ông càng cú tiết hơn đem cả cái bỉm quăng xuống trước mặt bà. Bà bàng hoàng đi ra từ cơn mê mộng, người đàn ông bà dành cả đời để tôn thờ như thần phật nay còn đâu, trước mắt bà chỉ còn lão già ỉ lại, lọm khọm, cục cằn và thối nát. Ngày bà lấy ông, đám cháu bà khuyên lên khuyên xuống. Một tay bà chăm bẵm đàn cháu từ ngày bé nên đứa nào cũng thương bà như thương mẹ ruột. Nhưng tình cảm là chuyện riêng tư của bác, đàn cháu không có tư cách gì cấm cản nên khuyên bác không được cũng đành ngậm ngùi theo dõi đằng sau. Chúng dăm ba hôm lại dấm dúi cho bà ít tiền để bà tẩm bổ. Nhưng tính bà ky cóp tằn tiện, được tấm được món thì hết đứa lớn đến đứa bé con chồng hỏi vay. Giờ sổ đỏ mảnh đất thằng con cắm ngân hàng còn chưa lấy về được, còn ông coi bà không khác kẻ hầu người hạ chứ đối đãi kiểu như vậy có tí gì là tình là nghĩa của một cặp vợ chồng cần đối đãi với nhau đâu. Bà lập cập ngồi dậy, nhặt miếng bỉm chồng quăng dưới đất cuộn tròn lại, run rẩy bước vào nhà vệ sinh. Có thứ gì đó rơi xuống thấm vào môi vào mắt cay xè, mặn chát.

Con cù lần kêu lên rát rạt, biết nó đói, bà lấy cái ống bơ đựng đầy gián đất hôm qua dọn trong kho, bắt ra vài con cho nó nhấm đỡ. Cù lần mở to đôi mắt long lanh vô tội, ươn ướt nhìn bà. Tối đó, bà đem nó ra cửa rừng phía sau thôn văn hóa, thả cho nó chạy đi, con vật quen hoạt động trong đêm tối, chỉ chờ có thế mắt sáng rực leo tót lên cây, hòa vào đám lá mơn man, xào xạc. Ánh đèn bà soi bóng nó cứ lấp loáng dần, mờ nhạt rồi thưa hẳn. Cù lần mất hút vào đêm đen.

HÀ HỒNG NGUYÊN

Thiên đường phàm tục

 

Thiên đường phàm tục

DƯƠNG THÀNH VŨ

 

Đội khai thác vật liệu và chuẩn bị mặt bằng xây dựng thị trấn đến huyện lỵ vào một sớm mùa đông núi rừng còn giấu mình trong màn sương và trên cao là ánh sáng trắng toát.

 

Minh họa: Đinh Cường

 

Để khỏi ngủ qua đêm ngoài trời, đội trưởng ra lệnh cho mọi người bắt tay vào dựng chỗ ở. Nhờ nền đất có sẵn và cầu kiện lắp ghép đơn giản, khi mặt trời xế bóng, sương mù dâng lên phủ kín thung lũng, chúng tôi đã che xong lán trại. Đêm xuống, trong ánh sáng lắt lay của ngọn đèn dầu, tiếng gió gào thét man rợ va vào vách tôn mỏng manh; toàn đội họp để nghe phân công nhiệm vụ trong những ngày tới. Sau đó hai ba người dồn chung một giường ngủ cho ấm.

 

Năm giờ sáng tiếng kẻng chói tai lôi chúng tôi ra sân tập thể dục theo loa phóng thanh huyện. Tôi kinh ngạc thấy đội trưởng quần đùi áo may-ô đang chạy tại chỗ trong biển sương lạnh buốt. Tập thể dục xong bọn tôi vội tràn vô bếp tập thể sưởi ấm và chờ nhận phần ăn sáng; tay cán bộ kỹ thuật thì về phòng ở trên ban chỉ huy đội nấu nước trà; riêng anh đội trưởng còn chạy một vòng quanh huyện trước khi nhảy xuống suối tắm, sau đó mới lên uống nước trà khan với tay cán bộ kỹ thuật.

 

Đội trưởng 30 tuổi, văn hóa lớp 10, vào đảng năm 18 tuổi, sĩ quan chuyển ngành, có vợ con ở ngoài Bắc, mấy năm qua chỉ bày tỏ tình cảm với nhau bằng những lá thứ đựng trong phong bì làm bằng giấy viết đơn đóng khuôn dấu đen thui, trước khi tới tay người nhận; dáng người cương nghị, đôi mắt bừng bừng như mắt thánh tử đạo, bộ râu quai nón rất đẹp nhưng luôn cạo nhẵn dù anh hết lòng ngưỡng mộ bộ râu Phi-đen.

 

Tay cán bộ kỹ thuật xấp xỉ tuổi tôi, có bằng trung cấp xây dựng và trình độ chính trị đủ để đấu tranh quyền lợi cho bản thân, lừ đừ biếng nhác theo quán tính bao cấp, răng hơi hô, đôi mắt phản trắc, áo quần tóc tai nghiêm chỉnh.

 

Còn chúng tôi gồm 22 mạng, đủ loại lý lịch đa đoan, lắm thành phần xã hội, trình độ lộn xộn, ốm yếu như ánh sáng đèn màu.

 

***

 

Tất cả chúng tôi được phân thành hai tổ lao động mỗi tổ 10 người và tổ cấp dưỡng 2 người. Tôi được cử làm tổ trưởng tổ một. Nhiệm vụ hai là đào đất san mặt bằng lổn ngổn hàng rào thép gai, cùng hệ thống hầm hào phòng thủ thay cho chiếc máy ủi đất của công ty bị đồng chí nào đó gỡ mất con heo đầu nằm bẹp dí, khiến anh thợ lái đi phất phơ cả mấy tháng nay ở thị xã, tất nhiên là vẫn lãnh lương đủ. Chúng tôi nghi ngờ chính hắn muốn vô hiệu hóa phương tiện làm việc của mình. Để động viên tinh thần anh em, trong buổi họp anh đội trưởng còn đọc cả thơ: "Chân dép lốp mà lên tàu vũ trụ. Đời vui thế khi ta làm chủ". Rồi lại: "Có sức người sỏi đá cũng thành cơm”. Thơ thẩn bao giờ cũng bay bổng tuyệt vời hơn nai lưng ra mà cuốc đất.

 

Đào đất là công việc quá nặng nhọc đối với dân thành phố, nhưng điều chúng tôi ngán hơn là những cạm bẫy chết người, sót lại sau chiến tranh còn dấu mình dưới mặt đất. Dù anh đội trưởng quả quyết đã rà mìn cẩn thận ở khu vực thi công, anh em trong tổ vẫn chống cúp ngao ngán nhìn nhiệm vụ cách mạng giao phó. Tôi phải tỏ ra dũng cảm. Thấy tôi làm, tổ viên lần lượt làm theo. Bánh xe số phận bắt đầu khởi động, trở thành ý chí tập thể buộc mọi người tuân phục. Tất nhiên anh em không sợ tôi, họ sợ bản án vô hình treo lơ lửng trên đầu sẵn sàng bổ xuống cùng lời luận tội đanh thép. Và hình như nỗi đe dọa dấu mặt còn khủng khiếp hơn bản án nghiêm khắc được tuyên bố công khai theo tinh thần pháp luật.

 

Lê Công Hoàng là người đầu tiên noi gương tôi. Hoàng là dân Đại chủng viện Sulpice ở Huế. Được chuyển vào Giáo hoàng học viện - Đại chủng viện Pio X - nhờ vào kết quả học tập, sắp được thụ phong linh mục thì cách mạng vô sản và vô thần thắng lợi. Anh ta bỏ chủng viện về nhà sau đó lên đây gọi là "nhận thử thách của Chúa". Chàng hăng hái cũng chẳng rụt rè sợ hãi, trước khi bổ cúp xuống hắn chỉ lầm bầm bằng giọng trang nghiêm:

 

- Tất cả do ý chí của Thượng Đế!

 

Theo gương vị linh mục chưa có văn bằng là thiên thần sa đọa Ngọc Hạ. Vốn con nhà giàu chỉ vì hấp thụ thứ cặn bã của lối sống cũng như tiêu hóa một cách ngu dốt triết học phương Tây hiện đại mà bỏ nhà, bỏ học đứng ra lập "Băng dấn thân" với tuyên ngôn hành động nghe như đang vận động tranh cử làm nghị sĩ quốc hội. Đến ngày giải phóng miền Nam các thành viên của nó đã biến thành ma cô, đĩ điếm hoặc bụi đời, nghiện hút xì ke. Tất nhiên Ngọc Hạ cũng không thoát khỏi định mệnh ấy.

 

Cựu thủ lĩnh "Băng dấn thân" chẳng thèm cầu cứu Đấng Tối Cao cũng không than thân trách phận, chỉ liếc nhìn tôi bằng đôi mắt đẹp và buồn.

 

Các thành viên còn lại lặng lẽ cam chịu. Chú nhóc An rơm rớm nước mắt, chú đang học lớp II, vì cha là thiếu tá đang bị cải tạo còn mẹ quen ăn không ngồi rồi nay không nuôi nổi con ăn học nên chú phải lên đây kiếm cơm. Ba cô gái thuộc xóm nhà thổ bị giải tán hình như ngẫm ra làm lại cuộc đời coi bộ không hấp dẫn, vui vẻ như trong sách báo phim ảnh cách mạng. Một cô vốn là dân tiểu thương, không biết các ông cán bộ phường vận động tài tình như thế nào mà cô ta hăng hái bỏ sạp hàng xén đang phát tài ở chợ thị xã xung phong lên đây, mới giáp mặt thực tế đã vỡ mộng mất hết khí thế tiến công cách mạng. Một tay côn đồ anh chị từng ăn cướp, chém người vào tù được cách mạng đại xá nhưng vẫn không khoái đổ mồ hôi để hoàn lương. Người cuối cùng là Nguyễn Xuân Tính vừa mới được thăng cấp trung sĩ nhất chưa kịp "rửa lon" và lãnh lương mới thì toàn bộ Quân lực Việt Nam cộng hòa xách súng chạy dài. Hắn vừa làm vừa càu nhàu:

 

- Giọng này bỏ xác ở đây chứ chẳng chơi.

 

Tay anh chị được thể để theo:

 

- Lý lịch tao mà ngon lành tao không ngu gì lên đây.

 

Hắn vừa nói vừa liếc dò phản ứng tôi. Trong tổ lý lịch tôi ngon lành nhất, có cả một ông chú là cán bộ cách mạng mà cho tới lúc cách mạng thắng lợi tôi mới khai báo. Số phận tôi cũng may mắn suông sẻ nhất nếu không kể đến chuyện tự dưng bỏ học ngang xương (dù hai năm nữa là hoàn thành chương trình đại học) để làm theo khẩu hiệu: "Đâu cần thanh niên có, đâu khó có thanh niên”. Thành thật mà nói lúc ấy tôi hãnh diện lắm, chỉ sau này khi hiểu thêm cuộc đời tôi mới đủ tấm lòng cảm thông, chia sẻ nỗi bất hạnh, tôn trọng ước mơ của từng số phận con người; không còn nhìn họ qua lý lịch để phân loại đối tượng chính trị. Tôi cũng hiểu thêm rằng cách mạng trước nhất là một bi kịch của con người trên bình diện nhân loại. Trước bi kịch ấy chiến sĩ cách mạng phải có cái Tâm lớn để có thể yêu một nhân loại cụ thể có đủ khuyết tật của con người, thay vì thứ tình yêu nhân loại trừu tượng, nhân dân huyễn hoặc. Nhớ lại hôm ấy tôi thấy thật may mắn đã tảng lờ lời khích bác của tay anh chị nhắm vào tôi, chú tâm làm công việc bình thường của mình không lên giọng chính trị với hắn.

 

***

 

Qua một ngày làm việc không có sự cố nào xảy ra mọi người yên tâm hơn. Hôm sau làm được một chặp Nguyễn Xuân Tính hét tướng lên: "Có xác người!" rồi lôi trong lòng đất ra chiếc giày đinh còn dính nguyên đoạn xương ống chân. Hắn ngắm nghía chiếc giày bốt-đờ-sô rồi phán:

 

- Cỡ giày bự chang này chắc là của tụi Mẽo!

 

Tôi cho anh em ngưng làm việc về báo với anh đội trưởng. Anh lên ngay hiện trường và ra lệnh đào xác chết lên để đem chôn. Xác chết đúng là lính Mỹ xương cổ còn đeo tòn ten thẻ bài ghi tên họ số quân. Đào rộng ra một đoạn nữa thì gặp hai bộ xương người Việt Nam nằm chồng lên nhau. Nhờ những mảnh quân phục rách bươm, đôi giày đinh cỡ nhỏ, thẻ bài và đôi dép lốp cùng cái nịt nhựa màu đà, chúng tôi nhận ra hai bộ xương đó của một người lính Sài Gòn và một người lính giải phóng. Từ ngực trở lên cả hai bộ xương còn nguyên vẹn chỉ có phần dưới là trộn lẫn với nhau. Có thể hình dung khi người lính giải phóng xung phong tiêu diệt người lính Mỹ rồi đánh xáp lá cà ôm vật người lính Sài Gòn thì một trái bom hạng nặng, hoặc một quả đại pháo chụp lên đầu họ. Nhìn đống xương lẫn lộn anh đội trưởng đâm ra khó xử, bởi khó biết chắc lóng xương nào là của đồng chí mình để quy tập về nghĩa trang liệt sĩ, còn lóng xương nào là của lính ngụy để sai chúng tôi chôn trong rừng cùng cha lính Mỹ. Thấy anh thừ người ra suy nghĩ tôi dè dặt góp ý:

 

- Thôi thì sống thù chết bạn, chôn chung cả hai vào một chỗ cũng được.

 

Anh đội trưởng vụt quắc mắt nhìn tôi bừng bừng lửa giận làm như tôi vừa nhục mạ anh không bằng. Anh quát:

 

- Mày câm mồm lại!

 

Rồi ngồi xổm cúi nhặt từng lóng xương cẩn thận ráp vào phần trên người lính giải phóng cho thật khớp. Chúng tôi nín thở nhìn. Bỗng anh ngẩng lên truyền lệnh:

 

- Cả tổ về nghỉ sáng nay. Bảo thằng Kỷ (tay cán bộ kỹ thuật) lên đây gặp tôi.

 

Chúng tôi về đến lán trại được vài giờ đồng hồ thì nghe tiếng nổ. Tổ hai cuốc phải trái mìn cóc làm cho bốn mạng bị thương. Lính huyện đội liền rà mìn lại - lần này thì anh đội trưởng đích thân theo dõi và tự kiểm tra lại các ngóc ngách bằng kinh nghiệm lính đặc công của mình - cuối cùng đã lôi ra từ hiện trường làm việc của tổ tôi 2 trái mìn ba chấu, một trái mìn chống tăng có gài kèm một trái mìn cóc để bẫy cả người. Quả là phước đức ông bà để lại, nếu không có những xác chết chắc chắn chúng tôi sẽ toi mạng cả lũ. Đêm đó có người bí mật lên thắp hương tạ vong linh ba người chết. Tôi không biết con người có lòng kia, kiếm hương ở chỗ nào, bởi trong huyện chẳng có hàng quán chợ búa, còn cửa hàng thương nghiệp thì không bán cái món mê tín ấy.

 

Dù đã rà đi soát lại kỹ càng nhưng ấn tượng vụ nổ vẫn chưa thể phai mờ trong tâm trí, chúng tôi vừa làm vừa run nên năng suất không thể nào cao được. Nếu công an không cẩn thận đóng chốt kiểm soát ở cửa ngõ ra vào huyện sau khi tai nạn xảy ra thì rất nhiều người đã chuồn về thị xã! May sao trong tình trạng gần như bế tắc thì Nguyễn Xuân Tính đề xuất một sáng kiến tuyệt vời.

 

Số là trong căn cứ quân đội miền Nam và Mỹ còn cả ngàn đầu đạn cối 105 ly chưa sử dụng. Nguyễn Xuân Tính bảo rằng chỉ cần mua ở bộ đội làm đường ngòi nổ và dây cháy chậm là có thể dùng số đầu đạn đó để đánh đất, vừa an toàn lại vừa có năng suất cao. Anh đội trưởng hưởng ứng ngay. Hai người lính từng coi nhau là tử thù sẵn sàng tiêu diệt nhau lúc ấy hợp sức lại cùng làm công việc có ích cho dân tộc hơn chuyện bắn giết. Và thành quả của thứ văn minh giết người được chúng tôi dùng vào việc chuẩn bị mặt bằng xây dựng thị trấn tương lai một cách rất hiệu quả.

 

***

 

Với thời gian sóng gió ban đầu lắng xuống. Cuộc sống của chúng tôi bước vào nhịp đơn điệu tẻ ngắt của một vùng đất không có sân khấu nghệ thuật, không có chợ búa quán hàng, không có sách truyện báo chí giải trí... Nối liền chúng tôi với thế giới bên ngoài là những chuyến xe năm thì mười họa lên huyện mang theo những vật dụng tối cần thiết cho sự tồn tại của con người và hệ thống truyền thông chỉ nhằm tới một mục đích duy nhất là cung cấp cho mọi công dân một niềm tin không có quyền hoài nghi, chối bỏ về một thiên đường trong cõi đời phàm tục ở ngày mai... Vẫn mỗi sáng tinh mơ bị lôi dậy trong cái lạnh khủng khiếp ra sân tập thể dục với anh đội trưởng áo may-ô quần đùi đang chạy tại chỗ trong biển sương mù mịt; vẫn túm tụm hơ lửa ở bếp tập thể nhìn anh đội trưởng lao xuống suối tắm; vẫn từng đêm tán gẫu phi thuốc lào quốc doanh hoặc nghe anh đội trưởng vẽ vời về một kỷ nguyên cho phép mọi người tiêu xài hưởng thụ tùy thích không tính tới khả năng làm việc cống hiến cho đời, để rồi sáng thức dậy xơi một miếng bánh luộc làm bằng bột mì tí tẹo như voi phất lá tre, đánh vật với ngọn đồi quỉ quái...

 

Với thời gian trong công trường đã xuất hiện những cặp tình nhân hứa hẹn tặng cho nhau một đám cưới tập thể. Tay cán bộ kỹ thuật cũng đã thay đổi chính kiến theo tán tỉnh một cô xuất thân từ chốn lầu xanh. Còn trái tim tôi thì ôm ấp hình bóng Ngọc Hạ, có điều cô nàng lại dâng tâm hồn mình cho đức cha chưa được thụ phong mà do thân hình cao lớn trắng trẻo như Tây nên tôi đặt cho hắn biệt danh "Thực dân kiểu cũ". Chỉ riêng anh đội trưởng vẫn sống như vị chân tu giữa đám con gái lượn lờ. Có lần vui vẻ tôi nói đùa: "Anh cũng nên kiếm một em cho đỡ nhớ nhà". Anh quắc mắt: "Mày đừng bố láo! Mất búa liềm như chơi!".

 

Cùng với thời gian anh đội trưởng hiểu chúng tôi hơn, đã không còn nhìn chúng tôi chỉ là đám thanh niên hư hỏng do nhiễm nọc độc văn hóa Mỹ - Thiệu. Với tinh thần cầu tiến, anh đã nhờ tôi và tay "Thực dân kiểu cũ" dạy cho anh học ngoại ngữ (chúng tôi có nhã ý mời tay cán bộ kỹ thuật cùng học nhưng hắn phán: "Tôi không học thứ tiếng của bọn đế quốc xâm lược”. Sau đó viết đơn tố cáo chuyện ấy với công an). Do vốn tiếng Anh của tôi tồi tệ nên anh đội trưởng cũng nhận được một cách tồi tệ, với môn tiếng Pháp thì tình hình tuyệt diệu hơn, bởi tiếng Tây của tay sinh viên Đại chủng viện thì không chê vào đâu được.

 

Dẫu sao cũng phải công tâm mà nói thời gian ấy đối với chúng tôi thật đẹp, cuộc sống đáng tin cậy. Tôi nhớ một hôm cửa hàng thương nghiệp cao hứng bán mỡ heo cho đội. Thế là món cá khô nướng mặn chát trường kỳ kháng chiến được thay thế bằng món cá rán mỡ tuyệt trần. Nguyễn Xuân Tính vừa cắn một miếng cá vào miệng đã hét tướng lên bằng ngôn ngữ lính tráng:

 

- Mỡ quyết định chiến trường!

 

Té ra con người cũng cần mỡ như cần tình yêu và lý tưởng cách mạng. Thật ra chẳng phải cửa hàng bấy lâu thiếu thịt mỡ heo, họ chỉ thiếu một tấm lòng với chúng tôi. Điều kỳ lạ là mọi người hình như coi đó là chuyện bình thường, nhất là những cán bộ có cỡ thường xuyên nhận thịt tươi thay vì cá khô như chúng tôi. Làm sao chúng tôi có thể xây dựng được một nền văn minh cao hơn trò kinh doanh mua bán kiểu dân chủ tư sản bằng tâm hồn ích kỷ, cục bộ và nhẫn tâm? Từ đó chúng tôi khôn ra, thường bí mật cứ ngồi trong tổ đánh cá bẫy chim trong giờ lao động nhằm cải thiện bữa ăn. Đội trưởng có biết việc ấy nhưng, thấy chúng tôi xanh xao quá nên giả lơ không biết, còn với tay cán bộ kỹ thuật thì phải hối lộ mới xong. Tất nhiên anh đội trưởng không đụng tới khoản thức ăn tay cán bộ kỹ thuật xoáy được của chúng tôi, nhưng cũng không dám phê bình hắn, bởi anh cũng có lỗi trong việc buông lõng chúng tôi. Nhìn anh ăn uống kham khổ chúng tôi không đành lòng kiếm cách mời anh dự một bữa ăn tươi nhưng không những từ chối anh còn phê bình chúng tôi thẳng thừng. Lòng kiêu hãnh của anh quả ghê gớm.

 

Để nâng cao chất lượng bữa ăn tập thể, anh đội trưởng làm theo cách của anh: Tăng gia rau màu và mỗi chủ nhật một mình anh vào rừng kiếm củi cho bếp tập thể (trong lúc đó chúng tôi mạnh ai lo kiếm riêng thức ăn cho mình). Có lần muốn lập công tôi xin đi với anh nhưng anh gạt phắt:

 

- Mày chưa có tinh thần tự giác lao động đâu... Đừng có giở trò xum xoe cơ hội!

 

***

 

Chúng tôi sống yên ổn như thế hơn một năm. Vào một buổi chiều tay cán bộ kỹ thuật gọi cả hai tổ về ban chỉ huy đội bốc hàng từ những chiếc xe vận tải đầu tiên chở vật liệu xây dựng từ công ty lên cho đội để chuẩn bị khởi công xây dựng công trình. Xe nhiều mà người bốc dỡ ít nên có ba xe phải ở lại.

 

Đêm hôm đó cánh lái xe chiêu đãi cho cả đội một bữa liên hoan trang trọng tưng bừng có cả rượu, thịt gà, khô mực... thuốc đầu lọc ngoại nhập thơm phức đựng trong hộp in màu sắc trang nhã, lịch sự bọc trong giấy bóng trong suốt, khiến cho bao thuốc Sông Cầu vốn quá sang trọng đối với chúng tôi trở nên lọ lem, tồi tàn nằm bên cạnh. Không quen uống rượu nên mới làm mấy ly cả bọn mặt mày đỏ gay chuyện trò rôm rả. Đội trưởng trong đà phấn khởi cũng mày tao chi tớ ngất trời, anh còn hăng hái góp vào một chuyện tán gái rất lính. Tay cán bộ kỹ thuật từ khi có "bồ" bớt đi vẻ hung hăng con bọ xít của kẻ tự cho ta lập trường đầy mình coi thiên hạ như cỏ rác. Lúc này hứng chí bên người yêu hắn cũng góp váo một điển hình tiêu cực của một vị thuộc loại bất khả xâm phạm trong huyện ủy, đội trưởng phải tốp hắn lại. Nguyễn Xuân Tính có vẻ là một thiên tài kể chuyện tiếu lâm khiến cho bàn tiệc hứng thú sôi động. Cánh lái xe thỉnh thoảng xài ngôn ngữ "Đan Mạch" dù có đầy phụ nữ trước mặt. Qua câu chuyện của họ chúng tôi mới biết bên ngoài chuyển động ghê quá. Cán bộ cách mạng cũng nhiều tay chơi bạo hơn cả thương gia người Hoa Chợ Lớn. Trong xã hội mới cũng diễn ra đủ trò bi hài oan trái, thậm chí hối lộ cũng có giá cả công khai... Chỉ khác xã hội cũ ở chỗ báo đài ta hoàn toàn không thông tin, không lên án chuyện đó, ở đâu, lúc nào cũng nói tới thành công tốt đẹp, thắng lợi rực rỡ, gương mặt chiến sĩ thi đua... Đến lúc đó chúng tôi mới hiểu tại sao qua những thành tựu vĩ đại được công bố đều đặn trên báo như thế mà chúng tôi càng ngày càng đói rách hơn.

 

Ngọc Hạ mặt mày rạng rỡ và có vẻ chú tâm theo dõi cánh lái xe mô tả cảnh ăn chơi ngất trời của những tay cán bộ "trúng mánh". Nàng hỏi ngây thơ như thiên thần:

 

- Sao Nhà Nước không bắt họ đi cải tạo?

 

Tay anh chị ngứa nghề định nói gì đó nhưng liếc thấy cặp mắt nảy lửa của đội trưởng ném sang, hắn im re. Một tay lái xe khoái chí bảo:

 

- Cô em ở trong xó rừng này ngố quá. Nhà Nước là ai? Là người như cô em và anh đây - hắn cười hô hố - khi những đồng chí kính mến đó chịu nhận quà, chịu ăn nhậu thì ổn cả. Cô em nghĩ coi mấy chục năm gian khổ rồi bây giờ phải hưởng thụ gấp kẻo về hưu thì có mà xơi rau muống... Làm cách mạng chứ đâu phải đi tu mà chê tiền chê gái...

 

Đội trưởng thấy chói tai chỉnh ngay:

 

- Yêu cầu đồng chí nói năng cẩn thận, đừng bôi bác chế độ.

 

Tay lái xe vẫn cười:

 

- Làm gì mà nóng tính vậy ông anh...

 

Đội trưởng cắt ngang:

 

- Thôi khuya rồi anh em về nghỉ lấy sức mai còn lao động.

 

Thế là bữa tiệc đang hào hứng tự nhiên tan sòng. Trước khi giải tán tay lái xe khá điển trai nháy mắt với Ngọc Hạ một cách đểu cáng:

 

- Cô em theo anh đi... Thích thứ gì anh chìu thứ ấy.

 

Ngọc Hạ trân trân nhìn hắn. Hắn mỉm cười rút trong túi một hộp nhỏ, dúi vào tay nàng:

 

- Tặng cô em làm kỷ niệm sơ ngộ.

 

***

 

Tôi biết Ngọc Hạ không ưa gì tay lái xe ấy. Nhưng một cô gái như nàng trong tình cảnh thiếu thốn trăm bề khó dũng cảm vứt hộp quà đựng chai nước hoa Thái Lan, xà phòng Luxe, phấn son Lào cùng vài thứ lỉnh kỉnh cần thiết trong việc trang điểm nhan sắc. Nó như một món quà được bà tiên nhân từ tặng cho nàng trong một giấc mơ đẹp đẽ. Về giá trị thì khỏi nói, Ngọc Hạ chỉ sờ tới được sau hai năm làm việc cật lực và không tiêu pha một xu.

 

Hôm sau đi làm, thiên thần Ngọc Hạ toát ra một mùi thơm lạ lùng và quyến rũ đối với cộng đồng huyện lỵ. Nàng đã đánh phấn ngay trước khi đi ngủ vào tối qua dù chẳng ai đi trang điểm khi sắp chui vô giường tập thể. Nhưng ban ngày thì làm việc túi mũi ngoài trời các cô phải lấy khăn bịt mặt như hiệp sĩ trong xi nê để bảo vệ da mặt thì đánh phấn sao được. Còn chờ tới chủ nhật thì quá sức chịu đựng đối với nàng. Hôm đó Ngọc Hạ làm việc uể oải, đến giờ giải lao giới nữ bao quanh nàng cùng săm soi ngắm nghía mình trong chiếc gương nhỏ xíu xinh xinh của nàng. Tự dưng tôi ước ao bà chủ tịch Hội phụ nữ huyện bỗng thích làm dáng hơn chuyện họp hành, hô hào khẩu hiệu. Khi cái đẹp trong thực tế không được coi trọng thì sự tha hóa sẽ nảy mầm. Tôi nghĩ rằng lý tưởng cách mạng không phải là cái đẹp duy nhất trên đời. Nguyễn Xuân Tính nhìn đôi mắt long lanh hơi sâu hơn ngày thường do được tô bút chì đen ở mi mắt của Ngọc Hạ, phán một câu xanh dờn.

 

- Giọng này trước sau gì "bả" cũng chuồn theo mấy cha lái xe.

 

Nghe hắn nói hốt nhiên một nỗi buồn chụp xuống hồn tôi. Hình như đến lúc ấy tôi mới cảm nhận rõ ràng sẽ mất Ngọc Hạ. Không phải mất vào tay con người có nghị lực, có học thức, tự trọng, vị tha... như Lê Công Hoàng mà mất vào tay một thằng buôn lậu, ăn cắp, trơ tráo... Sự sỉ nhục ấy quá lớn lao đối với tôi. Tôi thổ lộ ý nghĩ ấy với Lê Công Hoàng thì hắn nói:

 

- Tao có đọc câu này của một nhà văn Nga: "Con người sinh ra để sống chứ không phải để chuẩn bị sống". Tất nhiên đó là quan niệm vô thần. Tuy nhiên sẽ tai hại nếu chỉ lo xây hội trường Đảng cho hiện đại thay vì đầu tư xây nhà ở cho dân chúng. Bởi tất cả mọi công trình chính trị đều sẽ sụp đổ nếu không được xây dựng trên nền móng tình cảm của nhân dân. Đừng nên có ảo tưởng ai cũng khoái nhìn những hội trường, nhà truyền thống nguy nga hơn có một ngôi nhà ấm cúng...

 

***

 

Những đoàn xe vẫn nối đuôi nhau đổ vật liệu vào kho của công trường mang theo những thông tin mới mẻ và những gói quà cho Ngọc Hạ làm xáo trộn cuộc sống yên tĩnh của chúng tôi. Và điều tôi linh cảm về Ngọc Hạ đã xảy ra. Một đêm có cánh lái xe ngủ lại, với tinh thần cảnh giác cao, tay cán bộ kỹ thuật đã rình bắt tại trận Ngọc Hạ "hủ hóa" với chàng lái xe thường tặng quà cho nàng.

 

***

 

Sáng hôm sau tôi được triệu lên ban chỉ huy đội với tư cách tổ trưởng bị can. Ngọc Hạ và tay lái xe đang ngồi trước "vành móng ngựa" mà quan tòa là anh đội trưởng và tay cán bộ kỹ thuật bí thư chi hội thanh niên của chúng tôi. Ngọc Hạ cúi gằm mặt còn tay lái xe thì bình thản ngó bâng quơ tờ báo, ảnh lãnh tụ cùng những khẩu hiệu dán trên tường gỗ xù xì, nứt nẻ. Thái độ xấc láo của hắn làm anh đội trưởng điên tiết, mặt đỏ bừng, mắt bốc lửa. Thấy tôi vào anh đội trưởng lên tiếng, giọng hơi run vì quá giận:

 

- Đồng chí Phú làm thư ký biên bản!

 

Tôi nhanh nhẩu "vâng ạ" rồi ngồi vào vị trí của mình mở hết tốc lực ghi lại những lời lên án đanh thép của anh đội trưởng và lời rao giảng đạo đức rỗng tuếch của tay bí thư thanh niên dành cho hai đối tượng. Ngọc Hạ khóc tấm tức từ câu luận tội đầu tiên còn gã lái xe vẫn tỉnh bơ cho đến phút ký vào biên bản. Ký xong hắn liếc sang tay cán bộ kỹ thuật kiêm bí thư thanh niên chưởi đổng:

 

- Đ. M... chỗ người ta nởm nhau mà cũng chõ mắt vào...

 

Nói xong hắn nhanh chóng ra xe rồ máy phóng thẳng. Anh đội trưởng và tay cán bộ kỹ thuật nhìn theo hắn tóe lửa, nhưng ý thức được quyền hạn ít ỏi của mình nên cả hai nín thinh. Tôi nghe anh đội trưởng văng tục trong cổ họng, chắc không kềm chế được cơn giận. Chờ cho gã tài xế đã lái xe ra đường, tay cán bộ kỹ thuật mới phán:

 

- Đồ giặc lái!

 

Còn lại một mình Ngọc Hạ phải gánh chịu tất cả sự phẫn nộ của hai vị cán bộ phụ trách. Lạ một điều lúc đó Ngọc Hạ không khóc nữa. Có lẽ sự xúc phạm quá đáng đã đánh thức con người bụi đời lì lợm trong tâm hồn của cựu thủ lĩnh "Băng dấn thân". Hình như sự nhục nhã đã làm nàng oán ghét người kết tội thay vì hối lỗi như lúc đầu. Khi giải tán "phiên tòa" đội trưởng ra lệnh:

 

- Đồng chí Phú cho cô Hạ nghỉ không hưởng lương hai ngày để làm kiểm điểm tự giác nhận mức độ kỷ luật.

 

Trên đường về lán trại dù lòng rối như tơ vò tôi cũng cố an ủi Ngọc Hạ:

 

- Ngọc Hạ cứ yên tâm... anh em trong tổ chẳng ai ghét bỏ Ngọc Hạ... còn anh đội trưởng tuy nghiêm khắc nhưng rất tốt, biết thương người lỡ lầm...

 

Ngọc Hạ cắt ngang giọng ráo hoảnh:

 

- Hạ không cần ai thương hại, Hạ có quyền sống cho riêng mình chứ không chỉ sống cho ý muốn người khác…

 

Tôi biết Ngọc Hạ nói thế do kiêu hãnh hơn thật lòng. Điều đáng nói là ngay trong tôn giáo cũng có những bài học, lời khuyên về việc đối xử những người lỡ lầm, sa đọa rất quí báu mà vì thành kiến chúng ta không cần biết tới, trong lúc ấy ta lại sản sinh ra những "nhà giáo dục" thích hô những khẩu hiệu trống rỗng. Trước khi chia tay về lán nữ Ngọc Hạ ngước nhìn tôi bằng đôi mắt sâu thẳm long lanh nước mắt và nói:

 

- Anh tha lỗi cho em... Em không xứng đáng với tình yêu mà anh dành cho... em trước sau cũng chỉ là một con điếm tầm thường...

 

- Không... không phải...

 

Ngọc Hạ nở nụ cười méo xệch đẫm nước mắt, cắt ngang lời tôi:

 

- Anh đừng an ủi em vô ích. Em có còn là đứa trẻ thích lời phỉnh nịnh ngọt ngào nữa đâu... Anh hãy nhớ em từng là thủ lĩnh "Băng dấn thân"... Anh Phú ạ... con người trong thực tế tầm thường hơn con người trong tư tưởng nhiều. Từ lâu em cũng muốn vươn lên sống một cuộc đời đẹp, một tình yêu đẹp..., đời người ai mà không ước mơ như thế... Ai mà lại điên khùng thích làm ma cô đĩ điếm... Em từ bỏ con đường sa đọa để trở lại làm một con người bình thường chứ không phải để làm một nhà tu khổ hạnh hay là một thánh tử đạo cho cách mạng. Tại sao chúng ta cứ phải hy sinh cho nghèo nàn lạc hậu? Tại sao nước người ta cũng như nước mình mà họ giàu có còn mình chỉ đói rách? Vậy ta ưu việt ở chỗ nào?... Đúng ra khi lên đây em cũng tin nhiều điều, em cũng cảm thấy mình tầm thường ích kỷ khi nghĩ tới sự sung sướng cho bản thân... Nhưng bây giờ thì em mới biết mình bị lừa dối... người ta cũng áp phe, cũng chơi bạo, cũng sống như ông hoàng, cũng tiêu xài như điên... còn bọn mình thì chịu đói khát cực khổ, ngay cả miếng thịt tươi cửa hàng cũng dành ưu tiên cho ai đó... Còn cái thằng cán bộ kỹ thuật vô loại ấy nữa. Hắn có ra chó gì mà lớn tiếng mắng nhiếc em: "Cô là đồ đĩ điếm cặn bã... là con chó hoang đứng trong hàng ngũ của giai cấp công nhân... Xin lỗi, cái thứ giai cấp công nhân như hắn em...”

 

Ngọc Hạ càng nói càng giận run người, càng làm cho tôi hoang mang. Đến chiều đi làm về chúng tôi biết tin Ngọc Hạ bỏ trốn. Chẳng ai ngạc nhiên, chỉ thấy đổ vỡ điều gì đó trong lòng.

 

***

 

Tối hôm ấy trời bất thần đổ mưa. Cơn mưa sao mà buồn. Tôi, Hoàng, Tính kéo nhau lên chỗ ở anh đội trưởng và tay cán bộ kỹ thuật phi thuốc lào cho đỡ nản. Anh đội trưởng âu sầu ngồi một mình với điếu cày mù mịt khói. Tay cán bộ kỹ thuật đang hồi say đắm yêu đương nên hễ rảnh là tếch đi hẹn hò với cô nàng cấp dưỡng. Một người đang yêu như hắn mà đủ nhẫn tâm rình mò bắt cho được người khác làm tình thì kể cũng hiếm có.

 

Thấy chúng tôi lên anh đội trưởng hơi vui. Anh nói:

 

- Các cậu ngồi chơi... Cậu Phú đấu với mình ván cờ.

 

Tôi chẳng còn tâm trí đâu mà cờ với quạt nên lắc đầu. Anh đội trưởng ỉu xìu nhồi thuốc vào nỏ rít một hơi rồi chuyền cho chúng tôi. Im lặng một hồi lâu anh đội trưởng mới nói:

 

- Tụi mày tưởng tao không có những cái riêng tư sao? Tao cũng có tâm tư tình cảm chứ phải gỗ đá gì mà không biết cảm thông với buồn vui người khác. Có điều tao là thằng Cộng sản, tao sống khác tụi mày. Mày thử nghĩ coi, Đảng đứng lên dành độc lập tự do cho ai? Cho cả dân tộc, cho chúng ta, cho cô Ngọc Hạ. Tụi mày phải công nhận cách mạng đã biến cô ấy từ một người sa đọa thành một công nhân xã hội chủ nghĩa sống có ước mơ, có lý tưởng, có phẩm chất tốt đẹp và có ích cho xã hội... cô ta có biết đâu đã có giấy triệu tập cô đi học trung cấp kế toán từ mấy hôm nay. Tao đang chuẩn bị một cuộc liên hoan và công bố bất ngờ thì xảy ra sự việc ấy... Phải, nếu như tao chịu khó lưu tâm tới quan hệ giữa cô Hạ và thằng lái xe khốn kiếp thì đâu đến nỗi nào và nếu như thằng lái xe không làm tao điên tiết thì tao đâu có làm cho cô Hạ phải xấu hổ tới độ bỏ trốn... Trong tụi bây đứa nào xung phong về thị xã tìm cô Hạ đưa cho nó cái giấy triệu tập thì tao sẽ bố trí cho đi công tác thị xã một tuần.

 

Nguyễn Xuân Tính thắc mắc:

 

- Ra Hạ vừa bị kỷ luật vậy sức mấy công ty còn cho đi học.

 

Đội trưởng cười không được tươi:

 

- Tao có cách của tao...

 

- Kể cả dàn xếp với thằng Kỷ? - Tôi độp vào.

 

- Với thằng đó thì dễ thôi... tụi bây cố gắng giúp tao, cô Hạ mà đi làm điếm là tao có tội với Đảng... Nhân đây tao cũng nhắc là phải có lòng tin tuyệt đối...

 

Anh nói say sưa, giọng đều đều như nhà sư thuyết pháp. Anh cố níu giữ lại những gì có thể được để mang cho chúng tôi niềm tin về một thiên đường giữa cõi trần gian phàm tục mà chỉ có những người cộng sản mới đủ sức xây dựng...

 

Khi viết những giòng này sau mười mấy năm với những biến động sâu sắc của xã hội, tôi còn biết thêm rằng có nhiều đồng chí quyền cao chức trọng từng được anh ngưỡng mộ và kính mến đã sống không xứng đáng với niềm tin cùng với sự hy sinh của anh.

 

Vỹ Dạ 1989

D.T.V

(TCSH39/09&10-89)