Tuyên
đỉnh - Đỉnh đặt hàng thứ ba bên phải tượng trưng cho sự tinh thông
BÁCH
Bách, tục danh bá mộc, còn gọi
là trắc bách diệp. Các loại cây đều hướng theo phía mặt trời
mọc, duy có cây bách “đơn lẻ” cứ chỉ về hướng tây, cho nên người xưa mới nói,
loại cây này có đức trinh chính.
Theo Đông y,
thường dùng cây bách ngâm rượu uống để đuổi tà khí, gọi là bách tửu. Hột bách bổ tâm,
kiện tỳ, trị nhiễm chất độc, tê thấp. Người xưa nói: “Xích Tông Tử ăn hột bách,
khi răng rụng, răng mọc trở lại”. Hái lá mới nẩy mầm đem dầm thay nước khử vị
đắng, khi mới ăn, vị đắng chát, nhưng trộn mật ong vào hoặc hòa với thịt xay
của quả táo mà ăn càng tốt, để lâu dễ ăn mà lại không biết đói, vào mùa đông
không biết lạnh, mùa hạ không biết nóng. Không rõ thực hư, nhưng là loại cây có
đặc tính kỳ lạ. Năm Minh Mạng thứ 17, đúc xong Cửu đỉnh, cho khắc hình tượng
cây bách vào Tuyên đỉnh.
NGOAN
Ngoan, tức là một loại rùa biển (41) khá lớn
sống chủ yếu ở vùng biển sâu, nơi có dòng hải lưu mạnh. Thịt của nó rất thơm
ngon, có nhiều chất bổ dưỡng và là dược liệu quí dùng để làm thuốc trị bệnh.
Thời xưa, người ta xem con ngoan này cũng thuộc “họ nhà rùa linh”. Vùng biển
các tỉnh từ Quảng Ninh đến Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Trị, Đà Nẵng, Quảng Nam,
Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bà Rịa - Vũng Tàu, và Côn Đảo của nước ta có nhiều giống
họ nhà ngoan sinh sống.
(41). ĐNTLCB, Sđd, phiên là con giải. Theo Hán Việt
tự điển của Thiều Chửu và một số Từ điển Hán Việt của các tác giả
khác, thì giải là con cua biển, điền giải là
cua đồng. Theo hình trên, thì con “giải” này là ngoan, một loại rùa biển.
LAM GIANG
Lam Giang, tức sông Lam, con sông lớn nhất ở tỉnh Nghệ An, còn có
tên Ngàn Cả hay sông Cả; nước sông trong xanh
nên còn gọi là Thanh Giang, Thanh Xuyên, Thanh Long, sông Rum. Sông
có hai nguồn: một là nguồn Hiếu, hai là nguồn Tương. Nước nguồn Hiếu phát
nguyên từ động Thanh, huyện Quế Phong, chảy qua huyện Quì Châu, về Quì Hợp,
Nghĩa Đàn, sang Tân Kỳ, Anh Sơn; nước nguồn Tương từ nậm Gióng, tỉnh Xiêng
Khoảng, xứ Ai Lao chảy vào biên giới nước ta ở xã Mỹ Lý, huyện Kỳ Sơn, rồi chảy
qua huyện Tương Dương, sang Con Cuông, xuống Anh Sơn gặp nguồn Hiếu. Từ đây hai
nguồn hợp làm một dòng chính chảy về Đô Lương, qua Thanh Chương, Nam Đàn, xuôi
về Dũng Quyết thành phố Vinh, vòng qua Đức Thọ, Nghi Xuân, Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh
rồi thong thả đổ ra biển Cửa Hội. Thực ra tên sông Lam thường để dùng để chỉ
khúc sông Cả từ chỗ hợp với sông La ở chợ Tràng cho đến Cửa Hội. Hệ thống chi
mạch của sông Lam gần như chảy qua hầu hết các huyện của tỉnh Nghệ An và một
phần của Hà Tĩnh. Trong suốt hành trình, nó lại được tiếp thêm nguồn nước từ
các sông ngòi khác đổ vào, tạo cho con sông thành một dòng chảy mạnh, một nguồn
mạch đáng kể; sông Lam đã bồi đắp phù sa cho cả đồng bằng xứ Nghệ từ bao đời nay.
Trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, sông Lam là trận địa, là chứng
nhân lịch sử oai hùng. Đại Nam nhất thống chí đã viết về cảnh đẹp trù phú của
sông Lam: “Ở đây, nước sông trong mát, cây cỏ tươi xanh, gần có phố, xa có
thôn, phong cảnh như tranh vẽ, thật là một nơi danh thắng ở châu Hoan. Bài thơ
“Qua đò Phù Thạch” của Nguyễn Trung Ngạn đời Trần có mấy câu rằng: “Trào
sinh, trào lạc đông tây thủy / Vân hợp, vân khai thượng hạ san / Ngư đĩnh phù
trầm yên cảnh ngoại / Tăng gia ẩn ước họa đồ gian” (Thủy triều lên
xuống phía đông phía tây; Mây hợp mây tan ở trên núi dưới núi, Thuyền chài chìm
nổi ngoài cảnh khói mù; Nhà chùa tờ mờ trong khoảng tranh vẽ)”…
Năm Minh
Mạng thứ 17, 1836, đúc xong Cửu đỉnh, cho khắc hình tượng sông Lam vào Tuyên
đỉnh; năm Tự Đức thứ 3, 1850, cho liệt vào hàng các con sông lớn của nước nhà,
được chép vào điển thờ, hàng năm sai quan sắm lễ vật đến tế thần sông.
Từ những
làng mạc nằm dọc theo hai bờ sông Lam, rất nhiều nhân tài tuấn kiệt của đất
nước đã sinh ra và lớn lên, mang theo nỗi khát vọng ngàn đời của dòng sông bồi
đắp phù sa cho ruộng đồng tươi tốt mà dấn thân làm nên sự nghiệp lưu truyền sử
xanh.
ĐỊA ĐẬU
Địa Đậu, tức là đậu phụng, vì củ của nó có hình dáng như mắt
con chim phụng, nên gọi thế, cũng gọi là đậu lạc, lại có tên là lạc hoa
sinh. Thành phần dinh dưỡng của đậu phụng rất cao, có lợi cho thể lực, thổi
xôi hoặc rang hay luộc, làm thực phẩm để ăn đều tiện, người ta có thể hoặc ép
dầu thắp đèn, nấu chè, làm bánh kẹo đều được, là một loại ngũ cốc cho mối lợi lớn
của nhà nông; thân cây và bã đậu phụng đóng thành bánh đem bón ruộng rất tốt;
trong ngành công nghiệp chế biến, dầu phụng được dùng làm dung môi trong việc
chế dầu tiêm, dầu xoa ngoài, dầu bôi máy, xà phòng... Ở Việt Nam, ruộng đồng
tỉnh nào trồng cũng được, rất ích lợi.
THỈ
Thỉ, tục danh con heo, tức con lợn, còn gọi là trư,
là đồn, là khải, là trệ, là phần. Sách
Lễ ký chép là cương lạp. Nó là con vật nuôi cung cấp nguồn thực phẩm và rất có
ích với đời sống con người. Theo Đông y, thịt heo nạc có vị ngọt, hơi mặn, tính
bình, tác dụng tư âm nhuận táo, dùng cho các trường hợp trị nhiễm trùng, sốt
cao, mất nước, táo bón, tiểu đường, suy kiệt thiểu dưỡng. Là con vật đem lại
nguồn thu nhập cho các ngành công nghiệp thuộc da; ngoài ra nó còn được nuôi để
hiến tế thần linh, dâng cúng gia tiên hàng năm. Ở nhiều nơi như vùng Hoa Lư,
Ninh Bình, vì kiêng tránh nên gọi là “Ông Lợn”. Thỉ (hợi) được xếp cuối cùng
trong địa chi 12 con giáp.
ĐẠI LĨNH
Đại
Lĩnh, tức
núi Đại Lãnh, dãy mạch của nó chạy dài rất xa, đứng sừng sững vững
chắc như bức trường thành trên ranh giới giữa hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa.
Trong dãy núi này có ngọn Thạch Bi Sơn, thường gọi núi Đá Bia, ngọn
cao nhất thuộc hệ Đèo Cả; nơi đây một thời quá vãng từng là mốc giới biên viễn
của nước Đại Việt. Có câu chuyện lịch sử ghi lại sự tích núi Thạch Bi, tương
truyền vào năm 1471, ở miền phương Nam người Chiêm nổi loạn, xua quân đánh ra
các trấn huyện Thuận Hóa. Nhằm để “sắp xếp lại trật tự” ở biên cương, từ Thăng
Long, vua Lê Thánh Tông đã thân chinh, dẫn đầu đại binh vào tiễu phạt. Trên
đường hành quân, trong một buổi chiều hoàng hôn, ông đã dừng chân ở dưới rặng
núi này ngắm cảnh, làm thơ; nhận thấy nơi đây mạch núi liên hoàn, ngọn cao ngọn
thấp, chỗ lồi chỗ lõm ăn ra tận biển trông như trận địa được trời ban. Là bậc
minh vương, có tầm nhìn chiến lược, nhà vua đã ngự chế, sai người trèo lên tạc
vào phiến đá trên cao để khẳng định chủ quyền đất nước. Vì thế núi ấy được gọi
là núi Đá Bia.
Ngọn này có
độ cao 706 mét, trên đỉnh mây mù thường xuyên che phủ tạo nên cảnh vật kỳ ảo,
trông thật hùng vĩ. Những ngày trời quang mây tạnh, đứng ở núi này có thể nhìn
rộng ra xa cả vùng biển đảo mênh mông thuộc chủ quyền của Việt Nam. Ngay dưới
chân núi là Vũng Rô rất sâu và kín gió, những thuyền bè đi biển gặp bão tố có
thể chạy vào trú ẩn rất thuận tiện, được an toàn.
Vì đắc lợi
nhiều mặt của dãy Đại Lãnh, năm Minh Mạng thứ 17, đúc xong Cửu đỉnh, nhà vua
cho khắc hình tượng dãy núi này vào Tuyên đỉnh.
Những năm
kháng chiến vệ quốc ở thế kỷ XX, nhờ địa thế dãy Đại Lãnh che chở, biển sâu
Vũng Rô trở thành căn cứ bí mật cho những con tàu hải quân không số của cách
mạng được các chiến sĩ quả cảm bí mật tập kết vũ khí từ miền Bắc chuyển vào
miền Nam để phục vụ công cuộc kháng chiến…
Đá lấy ở dãy
Đại Lãnh là loại đá tốt được dùng nhiều trong xây dựng các công trình cao cấp,
rất bền vững. Rừng sâu ở núi này có nhiều muông thú và lâm đặc sản, dược liệu
quí hiếm. Biển Vũng Rô có nhiều loại cá, tôm, cua, mực… ngon nổi tiếng.
Nói
đến dãy Đại Lãnh, núi Đá Bia, người dân hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa thường
xem nó như ngọn chủ sơn uy linh trấn giữ non nước cả vùng, là biểu tượng văn
hóa lịch sử nổi tiếng từ ngàn xưa. Chính vì những kỳ tích hiếm có ấy mà vào năm
2008, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ra quyết định công nhận núi Đại Lãnh -
Thạch Bi Sơn là thắng cảnh cấp quốc gia.
TRÂN CHÂU HOA
Trân Châu
Hoa, còn gọi
là kê cước lan, kim tác lan, tục danh là bông sói
trắng, nhiều nơi quen gọi là bông hòe, có câu “hoa
hòe hoa sói” là chỉ hoa này. Trân châu mọc lên thành bụi, hình hoa giống ống
chân gà, sắc trắng mà thơm. Lại có một loại sắc vàng, tục danh sói vàng,
nơi miền núi sơn dã đều có mọc. Là một loài hoa quí, người Việt trồng nhiều để
làm cảnh. Theo các nhà Đông y, thành phần của hoa trân châu có thể làm thuốc
chữa trấn tĩnh, trị bệnh suy huyết ở trên đầu và mặt, nhức buốt không ngủ, chữa
viêm niêm mạc miệng khá hiệu nghiệm.
LÊ THUYỀN
Lê
Thuyền, một loại thuyền
đi biển có 12 tay chèo, được sản xuất khá nhiều dưới thời vua Gia Long, Minh
Mạng. Năm 1835, đóng một chiếc thuyền lê nhỏ cho Viện Cơ mật. Hễ vua đi tuần
đường thủy nơi nào thì đáp đi hộ giá.
Loại thuyền
này có thể dùng đi lại trên biển khi có gió to hay vùng sông nước lớn chảy
xiết, khá an toàn. Những người buôn đò dọc đi dài ngày có khi cũng đóng thuyền
buôn theo mẫu thuyền lê này để tiện bề đi lại.
Lê thuyền
cũng là loại phương tiện đi lại bằng đường thủy tiện lợi của người Việt từ xưa.
VÂN
Vân,
tức mây. Một hiện tượng thời tiết tụ nước do thay đổi nhiệt độ
nóng, lạnh mà tạo thành; mây nhờ gió mà di chuyển từ nơi này đến nơi khác khắp
cả bầu trời; lại có một loại “mây bụi” trong không gian. Mây là bản chất tự
nhiên của vũ trụ, có mây thì có mưa. Hết mưa trời lại nắng. Theo Kinh
Dịch, mây thuộc quẻ Truân, do ngoại quái là Khảm,
nội quái là Chấn mà thành. Khảm nghĩa là thủy cũng là thuộc
tượng nước đứng đầu mọi tượng của vũ trụ (mà thủy cũng bắt đầu từ vân: mây).
Không có mây thì cũng chẳng có mưa.
LONG NHÃN
Long Nhãn,
tục danh quả nhãn, còn gọi viên nhãn, lệ chi nô, vì
mãn mùa lệ chi thì long nhãn chín, cho nên gọi tên ấy. Quả giống quả lệ chi mà
nhỏ, tròn như hòn đạn. Vị ngọt, có thể trấn kinh và cường khí. Có loại nhãn
sinh, trái giống như mắt rồng. Đông y dùng quả nhãn bào chế thuốc chữa an thần
khỏi mộng mị. Trong Đại nội Huế trước đây có thứ nhãn lồng điện Phụng Tiên ngon
hơn cả. Miền Bắc có giống nhãn lồng tỉnh Hưng Yên là tuyệt hảo. Nam Bộ có nhãn
hạt tiêu là nổi tiếng. Y học cổ truyền dùng hạt nhãn khô xay mịn để trị bệnh
hôi nách xông mùi khó chịu. Gỗ của cây nhãn rất cứng, sắc thơm có thể dùng được
nhiều trong việc tạc tượng thờ và đồ gia dụng.
NỎ
Nỏ, tức cây cung;
một loại vũ khí thô sơ nhưng quan trọng trong việc đánh trận từ xa. Từ lâu đời,
nỏ là vũ khí dùng trong quân đội và cũng sử dụng để tự vệ hoặc đi săn. Các loại
cung nỏ chỉ khác nhau ở chỗ bắn xa, gần mà vẫn chính xác, đấy là do người sáng
chế. Theo truyền thuyết, nước Việt ta nổi tiếng có cây nỏ thần thời An Dương
Vương do tướng Cao Lỗ chế tạo, bắn một phát được nhiều mũi làm cho quân Nam Hán
khiếp sợ. Sau cũng vì chuyện tình mà mất cảnh giác, nỏ thần hết hiệu nghiệm,
dẫn đến mất nước. Ngày nay người vùng miền núi cao vẫn còn dùng. Thể thao hiện
đại có môn thi bắn nỏ.
NHĨ HÀ
Nhĩ Hà, còn
gọi là Nhị Hà, tức sông Hồng, lại gọi sông Cái, Hồng
Hà; con sông mang sứ mệnh lớn lao của cả xứ sở bao gồm những hệ thống chi
lưu phức tạp và dài nhất Việt Nam. Sông bắt nguồn từ Vân Nam, Trung Quốc, chảy
vào biên giới nước ta tại xã A Mú Sung, huyện Bát Sát, tỉnh Lào Cai, rồi chảy
sang tỉnh Yên Bái, xuống Phú Thọ, qua Vĩnh Phúc, băng ngang phía bắc thành phố
Hà Nội, men theo ranh giới tỉnh Hưng Yên và Hà Nam, xuôi về miền quê lúa Thái
Bình, ôm lấy mấy huyện của tỉnh Nam Định trước khi thong dong đổ ra cửa biển Ba
Lạt. Hệ thống chi lưu sông Hồng chằng chịt cuồn cuộn ngầu đỏ phù sa nuôi sống cả
vùng châu thổ rộng lớn, tạo nên bản sắc riêng có của nền văn hóa lúa nước giàu
âm điệu của dân tộc Đại Việt từ mấy ngàn năm trước.
Theo
cuốn Địa chí tỉnh Vĩnh Phú, do Ty Văn hóa Vĩnh Phú, xuất bản năm
1974, thì đoạn mang tên sông Hồng được tính từ điểm hòa nước của sông Thao,
sông Đà, sông Lô và các sông suối lớn nhỏ khác tại Ngã ba Hạc, tức Bạch Hạc,
ngã ba Việt Trì ngày nay rồi dung dăng chảy về xuôi. Từ đây trở đi, dòng sông
mới chính thức mang tên sông Hồng (Nhĩ Hà). Thời xa xưa, sông này còn có tên Diệp
Du, cuối thời nhà Lê đầu thời nhà Nguyễn gọi là sông Bạch
Hạc; đoạn từ Yên Lãng đến Hải Bối (thuộc Hà Nội) gọi là sông Tráng
Việt; lại có tên Phú Lương; từ Hải Bối trở đi mới gọi là sông Nhị, hoặc Nhĩ
Hà.
Ngã ba Hạc
xa xưa còn có tên nữa là Tam Giang. Đời nhà Trần đặt làm lộ Tam
Giang; thời thuộc Minh đặt phủ Tam Giang, đều có gốc từ đây - nơi có ba dòng
sông lớn đổ nước vào hòa làm một.
Sông Hồng có
nhiều đoạn, nhiều bãi bồi, bãi cạn từng diễn ra những trận đánh giữ nước oanh
liệt của dân tộc ta suốt hơn ngàn năm chống giặc phương Bắc xâm lược. Nổi tiếng
nhất là trận Đông Bộ Đầu (gần Long Biên ngày nay) vào năm 1258, chiến thắng
quân Nguyên Mông lần thứ nhất. Sông Hồng được các nhà khoa học quân sự xem như
trời ban cho một hệ thống hào rãnh tự nhiên để bảo vệ Kinh thành Thăng Long
trước các cuộc tấn công của kẻ thù. Sông Hồng hiền hòa bồi đắp phù sa; sông
Hồng quật khởi và oai hùng, khát vọng và là niềm tự hào, nguồn cảm hứng vô tận
về sáng tạo nghệ thuật của các văn nhân, nghệ sĩ Việt Nam. Có thể nói sông Hồng
là dòng sông chủ của nước Việt ta tự bao đời nay.
YẾN OA
Yến Oa, tục danh chim yến, còn
gọi là ất điểu, huyền điểu, chí điểu, du ba, thiên nữ oa, là ý
nhi. Ở đây được hiểu là tổ chim yến. Chim yến có mấy loại: loại trắng,
lông như sợi tơ bạc; loại đen đậm, lưng bụng màu nhạt hơn; thứ nữa đến loại
vàng nhạt, thường gọi yến hàng và yến núi. Chim
yến ăn rêu đá ở bãi biển, rồi nhả ra làm tổ treo lủng lẳng ở vách đá, đến mùa
thu người ở hải đảo thường dùng cái cần dài móc xuống để lấy. Theo các nhà y
dược, tổ của yến hàng ăn được, tổ của yến núi không
ăn được. Yến sào có công dụng tiêu đàm, chữa hen suyễn, thổ huyết, chữa gầy
yếu, bổ dưỡng; là món quí nhất trong bát trân, ngày xưa chỉ vua, quan, nhà đại
phú mới có dùng. Chim yến ăn chủ yếu là côn trùng có kích thước nhỏ, và bắt mồi
trong khi đang bay. Chúng sống thành đàn và làm tổ san sát có khi tới hàng ngàn
tổ ở trên các đảo ngoài biển. Riêng yến núi có thể làm tổ ở
trong các hang đá ven biển. Hải phận tỉnh Thừa Thiên không có đảo lớn, hằng năm
cứ đến sau mùa thu người ta thường thấy ngoài cánh đồng có hàng đàn chim yến bay
lượn, trẻ chăn trâu đánh bẫy được cũng nhiều. Sách Lễ ký chép
rằng: “Tháng giêng chim huyền điểu bay đến, tháng 8, chim huyền điểu bay đi”,
tức giống chim yến này. Thịt của chim yến có thể dùng làm thuốc chữa lở loét,
và bệnh trĩ, nhưng ăn quá nhiều thì tinh thần dễ mỏi mệt. Đối với những người
biểu tà, vị hư hàn thì không dùng được.
Ở nước ta,
vùng biển từ tỉnh Quảng Ninh, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, trở vào Quảng Trị,
Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Côn Đảo, Phú Quốc, Thổ Chu, Hà Tiên có
nhiều yến hàng sinh sống; vùng biển đảo tỉnh Bình Định, tỉnh
Khánh Hoà có nhiều yến núi, hàng năm hai tỉnh này khai thác yến núi
được khá nhiều. Đây là mối lợi riêng của những tỉnh có nhiều chim yến sinh
sống; chim yến sinh sống và làm tổ ngày càng nhiều chứng tỏ môi trường ở đây
trong lành, ít bị xáo trộn. Ở tỉnh Khánh Hòa hiện nay có nghề nuôi chim yến
trong nhà.
Ngày nay,
mọi người có thói quen, món ăn thì gọi “yến sào” tức là ăn cái tổ của con chim
yến, lại có thứ nước giải khát cũng gọi nước yến, còn chim thì quen gọi én; đã
có nhiều bài hát, bài thơ ngợi ca cánh chim én tuyệt hay; thấy chim én bay lượn
ở đất liền người ta như thấy mùa xuân lại về.
KHƯƠNG
Khương, tục danh là cây củ gừng, là
thứ cây rất dễ trồng; ở nước ta xứ nào trồng cũng được. Gừng có tính cay nồng
hay chế ngự được các chứng tà nên gọi là khương (có người đọc là cương)(42).
Thứ củ non gọi là tử khương, thái mỏng rim mật ăn rất ngon,
thường gọi mứt gừng. Củ già là mẫu khương, càn khương. Trong
bào chế, gừng là vị thuốc quí được gia giảm theo bệnh. Ngoài ra, gừng còn trộn
lẫn để làm gia vị nước chấm ăn với những món nhiều đạm. Ở Cố đô Huế, món mứt
gừng ngày Tết ngon nổi tiếng khắp nước.
(42).
Chữ khương phạm huý (Hiếu Khương Hoàng đế, thân phụ của vua
Gia Long) Đại Nam nhất thống chí, Sài Gòn, xb (1962), chép
là cương.
DUỆ SƠN
Duệ Sơn, tục danh núi Duệ, thường gọi là
núi Lễ, núi đứng chân ở phía nam huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế, hình núi
hơi nhọn, dáng đẹp, phía đông núi gối đầu lên sông Tả Trạch. Núi Duệ như vị
thần canh giữ, đứng trấn trị phía đầu nguồn sông Hương, làm án che chở cho vùng
đất tọa lạc Văn Miếu và Võ Miếu. Núi Duệ cùng với Thương Sơn, núi Ngự Bình được
xem là những ngọn chủ sơn tụ khí của linh mạch xứ Huế.
Những người
đi rừng nói rằng, dưới chân Duệ Sơn xưa kia có nhiều cây thạch xương bồ mọc,
bây giờ thi thoảng mới gặp.
Năm Minh
Mạng thứ 17, đúc xong Cửu đỉnh, cho chạm hình tượng núi Duệ vào Tuyên đỉnh; năm
thứ 20 nhà vua lại ban sắc lệnh cho việc tế thần núi Duệ hàng năm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét