Thuần
đỉnh - Đỉnh đặt hàng thứ ba bên trái tượng trưng cho sự tinh khiết
HOÀNG OANH
Hoàng
Oanh, tục
danh chim vàng anh (37), còn gọi là hoàng
ly, thương canh, thanh điểu, hoàng bá lao; chim có sắc vàng, lông và đuôi
có lẫn sắc đen, tiếng kêu của nó tròn trặn như thanh âm dệt cửi, người ta cho
là thứ chim có tiếng kêu ứng theo thời tiết. Người xưa nói: “Hữu minh
thương canh”, tức là chim này. Theo các nhà Đông y, thịt của hoàng
oanh có công dụng bổ tỳ; ăn nhiều làm cho người ta “hạ hỏa” bỏ được tính ghen
tuông và hay giận hờn. Hoàng oanh là giống chim đẹp, rất ưa nhìn.
(37). ĐNNTC,
Sài Gòn XB (1962); Hà Nội (1969); Thuận Hóa (1997) và (2006), đều chép
hình vàng anh ở Tuyên đỉnh. Thực tế hình chim này khắc ở Thuần đỉnh.
LY NGƯU
Ly
Ngưu, tục danh
con bò tót, còn gọi là con mao tê, con min, thuộc bộ
ngón chẵn, là một giống bò hoang, bò rừng, sức rất khỏe, đuôi rất dài, ngày xưa
người ta dùng làm ngù cờ. Bầy đàn của bò tót rất ít, khoảng từ 5 đến 25 con. Da
của nó có thể chế biến làm đồ dùng trong mỹ nghệ trang sức rất tốt. Thịt của bò
rừng có nhiều chất bổ, tăng cường sinh lực, hợp cho cơ thể của người suy nhược,
sừng của bò tót có giá trị thẩm mỹ cao và là một loại dược liệu rất quí.
Hiện
nay, rừng nước ta (ở vườn quốc gia Cát Tiên) vẫn gặp, nhưng cá thể loại bò tót
này còn quá ít, có nguy cơ tiệt giống nòi, nên rất cần được bảo vệ.
CẦN GIỜ HẢI KHẨU
Cần Giờ Hải
Khẩu, tức cửa
biển Cần Giờ, tức cảng Cần Giờ, còn gọi là cửa Ô
Cấp. Cửa này có độ rộng trên 5 dặm, khi nước lên buổi sáng thì sâu 5 trượng
5 thước, nước lên buổi chiều sâu 4 trượng. Cảng khẩu sâu rộng nên rất thuận lợi
cho thuyền bè ra vào, là một cửa cảng lớn, nằm sát nách trung tâm phố thị tỉnh
Gia Định xưa, nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh. Do tính chất quan trọng của cửa
biển này, năm Thiệu Trị thứ 2, triều đình nhà Nguyễn cho xây thành, đắp lũy tấn
bảo để canh gác. Cửa biển Cần Giờ có vị thế chiến lược kinh tế, quốc phòng và
lịch sử phong phú của vùng đất Nam Bộ ngay từ buổi đầu mở cõi.
QUỲ HOA
Quỳ
Hoa, còn gọi
là nhung quỳ, hay ngô quỳ, tức hướng dương,
vọng nhật quỳ hoa, thục quỳ, thái dương hoa... có nguồn gốc xa xưa từ
Trung Mỹ; hoa vàng đóa lớn, hạt dùng ăn được như hạt dưa. Có thể dùng làm thuốc
trị ngộ độc nhẹ, chữa cao huyết áp, chóng mặt, đau răng, viêm khớp, rất tốt cho
tim mạch; vỏ cây dùng làm dây rất bền. Cổ nhân nói: loại nhung quỳ trồng ở vùng
Tây Thục, có đến 5, 6 chục loại, hình thái trăm cách, có những sắc hồng, tím,
trắng, đen, tím đậm, tím nhạt, hồng đào, và tím màu da cà; đến tháng 5 nở nhiều
hoa, nhưng chẳng ngoài mấy sắc ấy. Lại có tên là nhất trượng hồng,vừa
đẹp vừa có giá trị thiết thực trong đời sống. Tuy giống hoa có gốc từ
châu Mỹ, nhưng người Việt Nam rất ưa chuộng.
Năm
Minh Mạng thứ 17, đúc xong Cửu đỉnh, cho khắc hình tượng hoa quỳ vào Thuần
đỉnh.
NAM MỘC
Nam Mộc (楠木), tức cây gỗ sao, còn
gọi gỗ sến; theo Tự điển sở dĩ viết chữ nam vì cây
mọc ở phương Nam. Khi cưa ra, mặt tròn hướng tâm giống hình ngôi sao nên gọi
tên vậy. Sách Gia Định thành thông chí chép rằng: nam mộc có
bốn loại là nam xanh, nam vàng, nam tôm và nam đá. Cây to vòng và cao hơn trăm
thước, thớ thịt gỗ đông đặc là thượng phẩm, cho nên xưa nhà Nguyễn có lệ cấm
dân không được dùng. Rừng sâu các tỉnh từ Thừa Thiên trở vào Nam đều có, nhưng
đường xa khó lấy; rừng Nam Bộ bằng phẳng dễ khai thác, nên phần nhiều lấy ở
đấy, ngày trước có những hộ dân mấy đời chuyên làm nghề lấy gỗ nam mộc cho
triều đình.
THẠCH HÃN GIANG
Thạch Hãn Giang, tức là sông Thạch Hãn, thời
Trần có tên Thái Già; sông chảy qua hai huyện Triệu Phong và
Hải Lăng của tỉnh Quảng Trị. Phát nguyên từ vùng núi cao huyện Hướng Hóa, giáp
với nước Lào. Sông chảy theo hướng tây bắc đến bãi Ái Tử, lại chảy chừng 33
dặm, thì có nước nguồn Viên Kiệu chảy vào, rồi chuyển sang phía đông nam chừng
10 dặm, qua cửa Ngưu Cước, tục gọi nguồn Trang, lại 17 dặm, qua bến Lương Mai,
lại 14 dặm qua bến Trinh Thạch, lại 2 dặm, thì có ba dòng khe từ phía nam qua
phường Trà Trì chảy vào, lại chảy 17 dặm qua khe Trái, chảy 15 dặm qua phía
đông chợ Như Lệ, 16 dặm qua xã Thạch Hãn. Ở đây, có một thân đá nhô lên trên
mặt nước, nằm ngang từ trái sang phải, cốt đá chập chùng, nên có tên Thạch Hãn.
Sông lại chảy 10 dặm qua bến đường quan ở phía tây thành cổ Quảng Trị, lại 3
dặm nữa thì đến ngã ba làng Cổ Thành, đến địa phận hai làng An Tiêm và Xuân Yên
thì chia làm hai nhánh: một nhánh chảy về phía đông nam vào sông đào Vĩnh Định;
một nhánh chảy về phía đông bắc 11 dặm, qua ngã ba Vĩnh Phước, tục gọi bến
Quyết, lại chảy 9 dặm qua ngã ba Dã Độ, tục gọi ngã ba sông Tương, lại 7 dặm
qua ngã ba Giáo Liêm, lại chảy 10 dặm nữa mới ra biển Cửa Việt, tổng cộng dài
khoảng 155 cây số. Sông bắt nguồn rất xa, nước trong và ngọt, ngạn ngữ có
câu: “Bất vi xạ não, diệc thị trầm đàn; bất vi quỳnh tương diệc thị cam
lễ”, nghĩa là: Chẳng phải xạ hương long não, thì cũng trầm hương đàn
hương; chẳng phải quỳnh tương thì cũng cam lễ. Câu này thực tả phẩm chất của
nước sông Thạch Hãn.
Năm Minh
Mạng thứ 17, đúc xong Cửu đỉnh, khắc hình tượng sông Thạch Hãn vào Thuần đỉnh;
năm Thiệu Trị thứ 2, xa giá Bắc tuần, khi qua sông này nhà vua có thơ đề vịnh;
năm Tự Đức thứ 3, 1850, liệt vào hàng các dòng sông lớn trong điển thờ.
Sông Thạch
Hãn là chứng nhân lịch sử giữ nước, sau Hiệp định Paris, con sông từng được
“chọn” làm giới tuyến tạm thời của một giai đoạn ngắn ngày từ mùa hè năm 1973
đến mùa xuân 1975 giữa hai miền Nam - Bắc Việt Nam.
Ngày nay,
mỗi lần ngang qua Thạch Hãn, nhìn dòng sông trầm lặng chảy êm, người ta lại
thấy gợi lên câu thơ đầy bi cảm của người lính giữ thành cổ Quảng Trị thời
chống Mỹ:
“Đò xuôi
Thạch Hãn xin chèo nhẹ,
Đáy sông còn
đó bạn tôi nằm
Có tuổi hai
mươi thành sóng nước
Vỗ yên bờ
mãi mãi ngàn năm”... (Lê Bá
Dương)
Sông Thạch
Hãn vốn nổi tiếng với các thứ cá, tôm, cua, ốc rất nhiều; đầu nguồn sông lại có
giống chạch chấu (người Quảng Trị gọi là chình), mình dài và thịt rất ngon.
Cùng với núi Mai sông Hãn chính là thủy mạch linh diệu của miền Ô châu.
HOÀNG ĐẬU
Hoàng
Đậu, tục
danh đậu vàng còn gọi là đậu nành, loại đậu
thường dùng làm tương và làm thuốc tăng lực (38), rất dễ trồng, đất vùng nào
trồng nó mọc cũng tốt. Đậu nành còn
dùng làm thức ăn cho người bị bệnh thấp khớp, bệnh gút, người mới ốm dậy, người
lao động quá sức.
Đối
với những tu sĩ Phật giáo, loại đậu này nhiều chất đạm được dùng nhiều trong
nhà chùa, để chế biến món ăn chay, làm nước uống giải nhiệt rất tốt.
(38).
Các bản dịch ĐNNTC đã xuất bản trước đây, không thấy chép hình cây đậu này ở
đỉnh nào. Trên thực tế hình cây đậu vàng được chạm vào Thuần đỉnh.
ĐỈNH
Đỉnh, tức là thuyền, một
loại thuyền đua nhiều tay chèo, được sản xuất nhiều dưới thời Gia Long và Minh
Mạng; đây là một loại thuyền vừa dùng để đua trong các lễ cầu mưa, các ngày lễ
hội, vừa dùng trong chiến đấu được trang bị cho quân đội nhà Nguyễn. Thuyền này
có tốc độ lướt sóng khá nhanh, hoạt động thuận tiện trên tất cả các loại hình
đường thủy.
Mỗi lần xa
giá xuất hành bằng đường thủy thì chung quanh thuyền ngự có nhiều thuyền này đi
hộ tống tăng vẻ oai nghi.
PHONG
Phong, tức gió, hiện tượng thiên nhiên được
hình thành tạo nên giữa hai vùng chênh lệch nóng, lạnh, không khí chuyển động
mạnh. Gió thổi mạnh thì thành bão. Theo Kinh Dịch, gió thuộc về quẻ Tốn (Tốn vi
phong).
Gió có gió Tây Nam, gió mùa Đông Bắc, gió chướng, gió heo may, gió nóng,
gió ấm, gió nồm... Nhờ có gió mà bốn mùa đổi thay theo chu kỳ vận hành theo quy
luật tạo thành thời tiết. Gió thuộc về bản chất tự nhiên của vũ trụ, tạo nguồn
năng lượng dồi dào tự tạo ra sức mạnh vô biên.
BẠNG
Bạng, tục
danh con ngao, chủng loại ngao rất nhiều, sinh sản rất nhanh, sông
biển nước lợ các tỉnh đều có. Người làm nghề bắt ngao lâu năm nói: xem
con bạng, với con cáp cùng một loại mà hình dáng khác nhau, con dài gọi
chung là bạng, con tròn gọi chung là cáp; thịt của ngao ăn ngon và mát, nhiều
chất bổ dưỡng, vỏ có thể nung vôi rất tốt, tục gọi vôi hàu. Lại có con ngao ở
đầm Hậu Ngư (tức đầm Sam) tự thân nó sinh ra thứ phân châu, tức trân châu.
Khoảng đời Minh Mạng, triều đình có sai người lặn xuống đầm tìm ngọc châu,
nhưng ngọc còn non, nên sau lại thôi.
TẢN VIÊN SƠN
Tản Viên
Sơn, tức núi Tản Viên; núi ở địa giới hai huyện Tùng Thiện và Bất
Bạt tỉnh Hà Tây cũ- nay thuộc thành phố Hà Nội; núi có ba ngọn cao vót, hình
tròn như cái tán; trên núi có dựng đền thiêng. Nhà bác học Lê Quí Đôn từng viết
rằng, núi Tản Viên ở địa giới các huyện Bất Bạt và Minh Nghĩa (tức huyện Tùng
Thiện), mạch núi từ Mường Thanh liên tiếp chạy dài, đến đây thì nổi vọt ba ngọn
thành hàng ở giữa hai sông Thao và sông Đà. Cảnh sắc hai bờ lưu vực xanh tươi,
hình thế cao cả, như trấn giữ đất nước; ngọn giữa rất cao, có đền thờ Thượng
Đẳng thần, ở đỉnh núi, sườn núi và chân núi có các đền Thượng, Trung và Hạ, núi
cao sát trời xanh, suốt ngày có mây bao phủ. Theo Bắc Thành địa dư
chí của Lê Đại Cương thời nhà Nguyễn, núi này ở bốn mặt có sông bao
bọc, cây cối um tùm, hình thế đẹp sáng, trên núi có giống cỏ kỳ lạ, có
tên “vô phong độc dao” (không có gió mà cỏ vẫn lay động); thân
cỏ có hai nhánh, tự chụm vào nhau và tự tách ra. Tương truyền, người ta đeo thứ
cỏ này (như đeo bùa) trong mình thì duyên vợ chồng ngày càng thắm thiết và son
sắt hơn.
Năm Minh
Mạng thứ 17, đúc xong Cửu đỉnh, cho khắc hình tượng núi Tản Viên vào Thuần
đỉnh; năm Tự Đức thứ 3, 1850, liệt Tản Viên vào hàng danh sơn, chép trong điển
thờ, hàng năm triều đình sai quan sắm lễ vật đến tế thần núi.
Núi Tản Viên
ngày nay thuộc xã Thủ Pháp, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội, nằm ở cuối tây nam
tỉnh Hà Tây cũ, giáp tỉnh Hòa Bình, nên núi còn được gọi là núi Ba Vì. Núi có
ba đỉnh cao (núi Ông, núi Bà, núi Chẹ), đỉnh núi cao nhất là 1296m ngày đêm mây
phủ, ngọn giữa có hình thắt cổ bồng, trên tỏa ra như cái tán nên gọi là Tản
Viên. Núi thiêng này là ngọn danh sơn rất nổi tiếng của nước Việt Nam từ cổ xưa.
Tương truyền núi Tản Viên là nơi vua Hùng chấp thuận cho thần Sơn Tinh chọn để
đóng đại bản doanh dàn quân chống nhau với thần Thủy Tinh, tranh tài lấy nàng
Mỵ Nương xinh đẹp, và nhờ sơn thần hỗ trợ, Sơn Tinh đã thắng Thủy Tinh. Trên
núi bây giờ vẫn còn đền thờ thần Sơn Tinh trị thủy.
Người xưa
còn nói rằng, những lễ vật mà thần Sơn Tinh đem dâng lên vua Hùng, như “Gà chín
cựa, ngựa chín hồng mao” đều được lấy từ vùng rừng núi này. Đúng là “Ba
Vì cao ngất tầng mây/ Sơn Tinh chuyện cũ đến nay vẫn còn”.
Theo các nhà
địa lý cổ, Tản Viên là núi tổ của hệ sơn mạch nước ta, chân núi, lưng chừng núi
đều có nhiều huyệt kết tụ thành linh khí phù hợp với âm trạch. Ai có đức lớn
được trời giúp mới mong tầm ra một huyệt mộ an nghỉ ngàn thu tại vùng sơn địa
này.
ĐÀO
Đào, tục
danh là đào đất, chữ Hán là Xích ty đào. Thơ của
vua Minh Mạng có bài Vịnh xích ty đào lược chú rằng: Loại đào này thân cây
thấp, lá dày lớn, sắc lục sáng ngời, hoa đỏ tươi có tơ rủ xuống, nên gọi tên ấy
(xích ty đào, tức đào tơ đỏ). Quả đào trên dẹt dưới rộng, vỏ đỏ, ruột trắng như
bông, không được thơm ngọt lắm, nhưng trông có vẻ khả ái, đem sánh với các loại
đào khác thì đào này tốt đẹp hơn, tưởng như ở phương Bắc không có thứ thổ sản
ấy. Quả đào đất là một loại dược liệu của thuốc Nam, dùng bồi bổ sức khỏe. Ở
vùng Tây Bắc của Việt Nam trồng nhiều giống đào này.
ĐĂNG SƠN NGƯ
Đăng Sơn
Ngư, tục danh con cá rô (40); có mấy loại: còn nhỏ
thì gọi rô răm, già thì gọi rô xù. Sau này (khoảng
1950) người ta nhập một loại nữa từ Phi Luật Tân về nuôi có tên gọi là rô
phi, sản lượng thịt cá rô rất cao và ngon. Mình cá rô rất nhiều nhớt.
Nước khô thì lấy mang chống xuống đất mà đi trên cạn. Sống chủ yếu ở đồng
ruộng, sông ngòi, ao cạn, nó có thể nhảy xa bằng vây. Mùa mưa rào, nó thường
ngược dòng nước chảy, phi lên bờ, chống vây nhảy đi nên có tên như vậy.
Năm Minh
Mạng thứ 17, đúc xong Cửu đỉnh, cho chạm hình tượng con cá rô vào Thuần đỉnh.
(40). ĐNNTC, Sài Gòn XB, (1962), chép là Quá sơn ngư. Có lẽ do chữ đăng
phạm húy tên vua Kiến Phúc (tức Nguyễn Phúc Ưng Đăng) mà phiên trại chữ đăng ra
chữ quá.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét