Thứ Ba, 27 tháng 3, 2018

Phạm Hoài Nhân: Ao Bà Om - Trà Vinh

Phạm Hoài Nhân: Ao Bà Om - Trà Vinh: Ao Bà Om thuộc xã Lương Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh, nằm dọc theo quốc lộ 53, cách trung tâm thị xã Trà Vinh khoảng 7km. Gọi ...

Thứ Hai, 26 tháng 3, 2018

Sông Nile êm đềm


Sông Nile êm đm
Đến với châu Phi thì sẽ phải đến với sông Nile, dòng sông dài nhất châu Phi và thứ hai trên thế giới. Với châu Phi nóng bỏng thì dòng sông chảy ngược từ nam lên bắc này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, là cái nôi của sự sống, là sự khởi đầu của nền văn minh Ai Cập. Nile bắt nguồn từ hồ Victoria. Từ hồ này, Nile Trắng chảy qua Sudan đến Khartoum rồi hòa với Nile Xanh thành dòng sông Nile rộng lớn, tiếp tục chảy qua Ai Cập rồi đổ vào Địa Trung Hải.


Sau một đêm ngồi tàu hỏa từ Cairo, đến với thành phố miền nam Aswan, nơi mà dòng sông Nile bị ngăn lại bởi đập thủy điện High Dam, được ghi nhận là đập lớn nhất thế giới khi hoàn thành vào năm 1971. Thăm công trình đài kỷ niệm ghi nhận sự đầu tư của nước Nga cho High Dam, một công trình đồ sộ và ấn tượng đúng theo phong cách Nga.


Sông Nile và các loại du thuyền

Sau High Dam, dòng sông Nile êm đềm trôi với phong cảnh hai bên bờ đẹp và bình yên. Những đàn lạc đà lững thững ven bờ, những giàn hoa giấy rực rỡ sắc màu, những bờ lau vàng nhạt, những cánh buồm trắng, những núi cát vàng xa xa...Phòng cabin du thuyền thuộc loại river view nên có thể ngồi cửa sổ ngắm phong cảnh với camera trong tay, hoặc cũng có thể lên boong tàu lộng gió nằm dài trên ghế sofa cạnh bể bơi.


Những đàn lạc đà lững thững ven bờ



Ngắm sông Nile êm đềm từ cửa sổ cabin du thuyền



Những bờ lau xưa


Những giàn hoa giấy rực rỡ sắc màu

Từ Aswan đáp du thuyền đi Luxor là một trải nghiệm thú vị. Được thư giãn trên du thuyền, lại có thời gian thăm thú những điểm du lịch dọc theo sông. Từ Aswan đến Luxor có khá nhiều điểm du lịch hấp dẫn: Philae Temple, Abu Simbel Temple, Kom Ombo Temple, Edfu Temple, Edna City, Karnak Temple, Luxor Temple, The Valley of the Kings, Deir Al Bahari Temple. Hầu hết các di tích này đều là di sản văn hóa thế giới được UNESCO công nhận.


Philae Temple


Philae Temple

Philae Temple là đền của Isis, nữ thần tình yêu trên đảo Philae. Ngôi đền Philae là một trong những công trình kiến trúc in dấu thời gian có từ nền văn minh cổ xưa được bảo tồn tốt nhất tại Ai Cập.



Abu Simbel Temples


Đền lớn thờ Vua Ramses II


Trước đền nhỏ thờ thần Hathor và Nữ Hoàng Nerfertari
Abu Simbel là hai ngôi đền trong núi đá đẹp nhất Ai Cập thờ Vua Ramses II và Nữ Hoàng Nerfertari. Abu Simbel nằm cách Aswan khoảng 300km, gần biên giới Sudan, bên bờ tây của hồ Nasser. Hai ngôi đền này rất cổ xưa, được xây dựng trong vòng 20 năm và hoàn thành năm 1244 BC. Đền lớn thờ Vua Ramses II, đền nhỏ thờ thần Hathor và Nữ Hoàng Nerfertari. Khi xây dựng High Dam, người ta đã phải di dời hai ngôi đền Abu Simbel vào năm 1968.


Kom Ombo Temple


Kom Ombo by night
Kom Ombo là ngôi đền thờ hai vị thần quan trọng của người Ai Cập – thần cá sấu Sobek và thần chim ưng Haroeris. Đến Kom Ombo khi trời về chiều, ngôi đền trong ánh nắng hoàng hôn in bóng trời xanh. Thăm đền vào buổi tối cũng thú vị khi đền được chiếu sáng khá ấn tượng.


Edfu Temple


Edfu Temple


Với tượng thần Horus
Xây cùng thời với đền Kom Ombo (năm 180 - 145 BC), nhưng ngôi đền Edfu là một trong những di tích cổ được bảo quản tốt nhất Ai Cập. Ngôi đền này nằm bên bờ Tây sông Nile trong thị trấn Edfu cổ. Trên bức tường Edfu có khắc hình thần Horus và trên các cửa vào là những tượng thần Horus. Rời du thuyền, được di chuyển tới đền Edfu bằng xe ngựa là một trải nghiệm dễ thương.


Cặp bến Edna


Luxor Temple by night
Đền Luxor nằm trên bờ phía đông của sông Nile ở Luxor (Thebes cổ) được xây dựng từ năm 1100 BC đến năm 1600 BC bởi Tutankhamun và Ramesses II. Ở Luxor, có một loạt những ngôi đền lớn bao gồm Temple of Seti I ở Gurnah, đền thờ Hatshepsut tại Deir el Bahri, đền thờ Ramesses II và đền thờ Ramesses III tại Medinet Habu. Hai đền chính ở bờ phía đông là Karnak và Luxor.

In Luxor Temple


Karnak Temple
Khu đền Karnak như một bảo tàng ngoài trời với bốn khuôn viên rộng lớn, là một trong hai điểm du lịch hấp dẫn nhất Ai Cập cùng với các kim tự tháp. Hiện chỉ có khu vực Amun Re lớn nhất đang mở cho du khách. Ba khu vực khác, Mut, Montu, và đền thờ Amenhotep IV hiện đang đóng cửa. Khu vực lớn nhất của khu đền Karnak được dành riêng cho Amun-Re, vị thần chính của Theban Triad. Đá sa thạch xây dựng ngôi đền này, kể cả các cây cột khổng lồ, được vận chuyển từ Gebel Silsila cách 161 km về phía nam sông Nile.

Những nhân sư Ai Cập


Deir Al Bahari Temple.
Deir el-Bahari theo tiếng Ả Rập là Tu viện biển, là một tổ hợp các đền thờ nằm bên bờ phía tây sông Nile, đối diện thành phố Luxor. Công trình đầu tiên được xây dựng tại đây là đền thờ xác của Mentuhotep II vào thế kỷ 15 trước Công nguyên. Trong triều đại thứ mười tám, đền thờ Amenhotep I và Hatshepsut cũng được xây dựng tại địa điểm này.
Trung tâm của khu đền là ngôi đền thờ Hatshepsut, nữ hoàng duy nhất trị vì Ai Cập, được thiết kế và thực hiện bởi Senenmut, nhà quản lý và kiến ​​trúc sư của Hatshepsut. Ngôi đền thờ Hatshepsut cao 30m được xây dựng trong vách đá là một công trình độc nhất vô nhị của Ai Cập cổ đại.

Flying over Valley of the Kings
Thung Lũng các Vị Vua là điểm nhấn đặc biệt ở thành phố Luxor, nơi có các lăng mộ cổ của các Pharaoh. Sau khi bay khinh khí cầu ngắm nhìn từ trên cao, còn được tham quan một số lăng mộ của các Pharaoh trong thung lũng. Bay khinh khí cầu ở Luxor là một trải nghiệm thú vị, tuy cảnh quan ở đây không đẹp lắm.
Chuyến du thuyền từ Aswan đến Luxor quả là một hành trình tuyệt vời mà bất cứ du khách nào thăm Ai Cập cũng phải trải nghiêm.


Certificates of Baloon Flying



Thứ Sáu, 23 tháng 3, 2018

Chopin's Nocturne in C-sharp Minor

rédéric François Chopin(1810-1849)

Nocturne (là từ tiếng Pháp, có nghĩa là “thuộc về ban đêm”; tiếng Latinh: nocturnus; Hán Việt: dạ khúc, được lấy cảm hứng hoặc có liên tưởng đến đêm. Nocturne lần đầu tiên được sử dụng vào thế kỷ thứ XVIII.
Rất nhiều nhà soạn nhạc danh tiếng thế giới viết về thể loại nhạc này, mỗi tác giả là một nét âm nhạc, cá tính tinh thần riêng. Phong cách của Chopin trong các bản dạ khúc mang màu sắc buồn sâu lắng, lan tỏa một sức mạnh tinh thần cao thượng, có thể còn là những xúc động bi thương, hoặc là những lời than thở, nhớ thương. Các tác phẩm đó rất phong phú về hình tượng, sức tưởng tượng mãnh liệt, với một nội dung cực kỳ sâu sắc.
Chopin đã viết tổng cộng 21 bản nocturne. Quá trình sáng tác thể loại này của ông kéo dài từ năm 1827 đến năm 1846.
Trước hết, chúng ta cùng thưởng thức bản số 2, là bản nổi tiếng nhất và quen thuộc nhất, ông sáng tác năm 1830-1832 dưới giọng Mi giáng trưởng, xuất bản năm 1833. Dưới đây là bản phối Violon và piano, khiến âm nhạc càng thêm da diết…

Jacobsen-Chopin Nocturne Op. 9 No. 2:


------

Bản Nocturne No. 20 cung Đô thăng thứ của Chopin được chọn sử dụng làm nhạc nền cho phần đầu và lúc kết thúc của bộ phim cảm động: The Pianist(2002), kể về niềm tin, nghị lực sống mãnh liệt của người nghệ sĩ Do Thái. Trong lúc cùng khổ và tuyệt vọng nhất, chính âm nhạc của nghệ sĩ dương cầm người Do Thái đã xóa tan sự giết chóc, ranh giới quốc gia trong tâm hồn viên sĩ quan phát xít Đức – thay vào đó là sự đồng cảm và lòng nhân ái trong tâm hồn.

Nocturne No. 20 cung Đô thăng thứ được Frédéric Chopin sáng tác năm 1830 còn có thể gọi là bản là nocturne xa xứ, vì ông viết bản này trước khi rời đất nước Ba lan ngày 2 tháng 11 năm 1830, và mãi mãi không quay trở lại. Vài năm sau khi Chopin qua đời, năm 1870 bản dạ khúc này mới được xuất bản.
“The Pianist”: Chopin Nocturne C sharp minor



Nocturne No. 20 cung Đô thăng thứ mở đầu bằng một đoạn ngắn phần giới thiệu, giai điệu chậm rãi, trang nghiêm, u buồn, sầu não.
Tiếp theo, chủ đề chính u sầu được trình bày với những nốt láy duyên dáng, gợi nhắc không khí tĩnh mịch của đêm tối.
Và, bầu không khí xúc cảm dần dần sáng sủa hơn nhưng vẫn không thể nào xua tan được tính chất hoang vắng cô liêu mà giai điệu mở đầu tạo thành.
Chủ đề chính trở lại ở nửa sau bản nocturne nhưng giờ đây nó day dứt hơn. Nỗi buồn dần trở thành nỗi thất vọng tràn trề khi âm nhạc dịu dàng tắt lặng kết thúc tác phẩm.


Daniel Barenboim (1942) Nhà soạn nhạc kiêm nghệ sĩ piano gốc Nga và Israel trình bày.



Và  đây là phần trình bày của Władysław 
"Wladek" Szpilman (1911-2000) - nghệ sĩ dương cầm và nhà soạn nhạc cổ điển người Ba lan gốc Do Thái.  Władysław "Wladek" Szpilman được biết đến rộng rãi khi bộ phim “The Pianist” (Nghệ sĩ dương cầm) năm 2002 do Roman Polanski làm đạo diễn  dựa trên cuốn hồi ký "The Pianist" kể lại sự tồn tại của ông  trong thời gian Đức chiếm đóng Warsaw và Holocaust được phát hành. Nhưng khi bộ phim được công chiếu thì ông đã không còn nữa.

Joshua Bell - Nocturne in C Sharp Minor


Thứ Bảy, 10 tháng 3, 2018

Romance



(Hàng này cháu gái tấu bản nhạc này qua piano, tìm hiểu thật thú vị)
BẢN TÌNH CA KHÔNG TÁC GIẢ 
(theo Đọt Chuối non)

 Ai đã từng cầm cây guitar, có ý luyện classic thì thế nào cũng biết bài Jeux interdits (còn gọi là Romance). Có lẽ nhiều người nghĩ rằng đây là bài nhạc không lời soạn riêng cho guitar chứ không biết rằng đó là ca khúc với lyrics bằng những thứ tiếng khác nhau. Ngay ai là tác giả của nhạc phẩm này vẫn còn tranh cãi cho dù tác phẩm được phổ biến khắp nơi.

 Bài này là nhạc phim của phim Pháp, tựa đề “Jeux interdits”(Trò chơi cấm), do René Clément đạo diễn, được phát hành năm 1952, Romance thường được hiểu là “Tình ca” .Thuật ngữ này xuất hiện ở Tây Ban Nha thoạt đầu mang ý nghĩa “Bài hát thế tục” được sáng tác bằng tiếng Tây Ban Nha để phân biệt với các ca khúc Tôn giáo bằng tiếng Latinh. Dần dần, ngôn từ Romance được phổ biến, phát triển rộng rãi ra ngoài biên giới Tây Ban Nha và trở thành tên gọi cho một thể loại thơ ca trữ tình và một thể loại âm nhạc dành cho giọng ca. Trong âm nhạc Pháp thế kỷ 18, Romance đồng nghĩa với “Chanson” – đơn giản là một bài hát không cần bè đệm đàn. Thời gian sau đó, ngôn từ này được hiểu đồng nghĩa với “giai điệu” và chỉ đến đầu thế kỷ 19, Romance mới được khẳng định như thể loại ca khúc nghệ thuật hàn lâm, nhất thiết phải có phần đệm.

 Cho tới bây giờ, Romance vẫn có nhiều tên gọi khác nhau như: Estudio en Mi de Rubira (Bản Étude cung Mi của Rubira), Spanish Romance, Romance de España, Romance of the Guitar, Romanza và Romance d’Amour. 

 Về tác giả thì có khi từng nơi, từng lúc được xem là của Antonio Rubira (?-?), David del Castillo (?-1937), Francisco Tárrega (1852-1909), Fernando Sor (1778-1939), Daniel Fortea (1878–1953), Miguel Llobet (1878-1938), Vicente Gómez (1911-2001) và Narciso Yepes (1927-1997). Đây hầu hết là những nhà soạn nhạc và biểu diễn guitar nổi tiếng của Tây Ban Nha. Vì có quá nhiều tác giả gán cho nó, nên nhiều năm qua từ Anónimo (khuyết danh) thường đặt kề bên để trở thành bản Anónimo Romance (Anonymous Romance) – Bản Tình ca không tác giả. 

 Tuy nhiên có mấy dấu hiệu sau đây liên quan tới các danh cầm: Narciso Yepes, Vicente Gomez, Antonio Rubira, Ferdina Sor và xứ sở Ukraina. 
 Năm 1952, đạo diễn Pháp René Clément, cho ra mắt cuốn phim trắng đen tựa là Jeux Interdits (Trò chơi cấm). Ngay phần giới thiệu âm nhạc cho phim, có ghi tên Narciso Yepes, với ngụ ý rằng Yepes là tác giả bản Romance.
 Bộ phim Jeux Interdits đã “chở” Romance đi khắp nơi, vô tình gieo vào suy nghĩ của khán giả trên khắp năm châu, Yepes là tác giả bản Romance. 
 Ngày 19 tháng 6 năm 1982, trên kênh radio “Nuestra Programa”, Đài Phát thanh Quốc gia Tây Ban Nha, có cuộc phỏng vấn giữa các phóng viên Fernando Argenta & Araceli Gonzaslez Campa và Narciso Yepes. 

 Nhạc sĩ Narciso Yepes đã khó khăn khi biện minh để tái xác nhận Romance do ông sáng tác vào sinh nhật 7 tuổi của mình (1934), như một món quà tặng mẹ. Và vì không thể chứng minh được mình là tác giả nên khi phải giải thích nguồn gốc bản nhạc trước đại chúng, có khi ông phải gọi nó là bản Anónimo Romance. Thế nhưng ngày nay ở Tây Ban Nha, Yepes đã có được xác nhận tác quyền. 

 Các bạn nghe danh cầm Štěpán Rak:




Andre Rieu đầy lãng mạn trong “Romance” (Yeux Interdits):





Nghệ sĩ Guitar Narciso Yepes:





Qua tiếng đàn guitar.