Dụ đỉnh - Đỉnh đặt hàng thứ tư bên trái tượng
trưng cho sự phong phú
TÒNG
Tòng, vì phép kiêng tránh kỵ
húy nên đọc là tùng, tức cây thông. Người xưa
nói: tùng là bậc trưởng trong trăm loại cây, nửa bên phải chữ tòng có chữ công.
Lại nói: cây tùng già thì dư khí kết tụ thành thứ phục linh, được ngàn năm thì
nhựa tòng hóa thành thứ hổ phách. Xưa ở đàn Nam Giao, Sơn lăng và núi Ngự Bình,
chỗ nào cũng có trồng tùng thành rừng. Đốt cây tùng ngâm rượu để trị bệnh yếu
chân, lá tùng đốt lấy khói xông trị bệnh phù thũng, chữa cảm cúm, nhức mỏi;
tùng chi (nhựa tòng) gọi làtùng hương, hay gọi là lịch
thanh chữa nhọt mủ, ghẻ lở. Người xưa bảo, cây tùng, biểu tượng cho sự
trường tồn vĩnh cửu, tượng trưng cho bậc quân tử.
DƯƠNG
Dương, tức là con
dê, còn gọi là cổ, yết; sách Lễ ký chép
là nhu mao, thiếu lao. Sách Chu Dịch chú rằng, con dê mắt
không có con ngươi mà vẫn nhìn thấy được. Lại có một giống đại vĩ
dương, đuôi rất to. Ngày xưa nhiều nhà trước thuật đi lại thường dùng
dê kéo xe. Con dê là nguồn thực phẩm dồi dào, dễ nuôi, ở các tỉnh bán sơn địa
và miền núi cao đều có. Một con dê đực có thể giao phối liên tục với nhiều dê
cái. Ngạn ngữ có câu “Dâm như dê” là vậy. Thịt và xương dê có nhiều chất bổ âm
dương, tăng cường sức lực, gân cốt người già, giảm thị lực, lại có dược tính
chữa bệnh gầy còm, kích thích sinh dục.
Dê
(mùi) được xếp đứng thứ tám trong địa chi 12 con giáp. Năm Minh Mạng thứ 17,
đúc xong Cửu đỉnh, cho khắc hình tượng con dê vào Dụ đỉnh.
ĐÀ NẴNG HẢI KHẨU
Đà
Nẵng Hải Khẩu,
tức Cửa biển Đà Nẵng, còn gọi là Cửa Hàn, lại
gọi Vũng Thùng, Vịnh Hàn, trước đây thuộc tỉnh Quảng Nam, nay
phân địa giới thuộc về thành phố Đà Nẵng. Ấy là chỗ sông Cẩm Lệ từ huyện Hòa
Vang chảy ra vũng Hàn đổ vào cửa ấy; cửa lạch rộng 105 trượng, thủy triều lên
sâu 5 thước 5 tấc, thủy triều xuống sâu 4 thước 5 tấc. Đầu đời Gia Long đặt một
viên thủ ngự, một viên hiệp thủ và 17 người thủ binh; năm Minh Mạng thứ 9 cấp
cho ngựa trạm để chạy cấp báo; mấy năm sau lại đặt vọng lâu ở tấn sở, cấp cho
kính thiên lý để xem xét ngoài biển. Về quân sự, nơi đây từng diễn ra các trận
đánh ác liệt, trong lịch sử cận đại, hễ phe nào chiếm được cửa biển Đà Nẵng thì
hầu như phe đó làm chủ cả vùng. Chẳng hạn, vào năm Đinh Tỵ, khi quân của Nguyễn
Vương tiến vào Đà Nẵng, chúa Nguyễn sai các tướng Nguyễn Văn Khiêm và Ô Lý Vi
(Olivier) chế tạo thuyền sam dùng hỏa công bắn mạnh vào thuyền của quân Tây Sơn
đóng ở Cửa Hàn, hai bên kịch chiến mấy ngày mới phân thắng bại, tức là chỗ này.
Năm 1822, người Pháp cho tàu chiến có tên Cléopâtre đến Việt Nam, vào cửa biển
Đà Nẵng, dâng thư xin yết kiến vua Minh Mạng. Năm 1825, thủy quân Pháp lại đem
hai tàu chiến vào Đà Nẵng, đưa đồ phẩm vật và quốc thư, xin yết kiến nhà vua,
nhưng cả hai lần đều bị triều đình Huế cự tuyệt, phải trở về. Tuy không được
nhà vua chấp thuận nhưng họ đã kịp để lại nhiều giáo sĩ cùng đi, ở lại đi giảng
đạo các nơi. Năm 1858, khi quân Pháp tấn công vào Đà Nẵng, họ đã theo cửa biển
hóc hiểm này đổ quân lên bộ nhưng bị chống trả quyết liệt.
Thương
nhân nước ngoài khi đến buôn bán ở Đàng Trong, họ thường ghé vào Cửa Hàn, làm
nơi trung chuyển đến Phú Xuân.
Ngày
trước các thương gia hay sứ thần nhà Nguyễn rời Huế bằng đường biển đi ra nước
ngoài, họ phải vào Đà Nẵng để “xem xét thời tiết, lắng nghe tin tức”, tiếp thêm
lương thực, chất đốt, rồi mới dong buồm ra khơi.
Năm
Minh Mạng thứ 17, đúc xong Cửu đỉnh, cho khắc hình tượng cửa biển Đà Nẵng vào
Dụ đỉnh.
Ngày
nay, cửa biển Đà Nẵng trở thành một trong những cửa biển có cảng nước sâu lớn
trong khu vực và quốc gia, tàu thuyền nhiều nước trên thế giới tấp nập vào ra
ăn hàng. Cửa biển này đồng thời là một vị trí xung yếu về quốc phòng, an ninh
của khu vực miền Trung và cả nước. Thành phố Đà Nẵng có nhiều lợi thế từ cửa
biển này để có cơ hội phát triển, nhanh chóng trở thành một trung tâm kinh tế,
chính trị, văn hóa, du lịch của miền Trung và cả nước.
THUẤN HOA
Thuấn
Hoa, tức hoa
thuấn, tục danh hoa bụt, người Huế quen gọi bông bụt,
có nơi gọi là dâm (hay râm) bụt, nó còn có các tên là đăng uyển hoa,
xuyên phiêu lý hoa, xuyên can bì; do đặc tính sớm nở chiều rụng nên
lại có tên nữa là nhật cập, triêu khai mộ lạc hoa. Theo các
nhà y học cổ truyền, các thành phần của cây mộc cận như bông, lá, rễ hoa có rất
nhiều dược tính quí, người ta lấy để làm thuốc dùng trị viêm da đầu, chữa mụt
nhọt, đang nung mủ, khô thuốc lại thay, mụn nhọt sẽ đỡ nhức và chóng vỡ mủ; lại
chế thuốc chữa cầm máu, kích thích lưu thông máu, giải nhiệt, lợi tiểu, an
thần, điều kinh và chữa mẩn ngứa. Xem trong tập Thiệu Trị thánh
chế, thơ Vịnh hoa mộc cận (một âm là cẩn) có lược chú
rằng: Ngoại quốc đồ nói: nước quân tử nhiều hoa mộc cẩn, nhân dân dùng
ăn. Quần phương phổ nói: hoa này có hai loại: loại hoa trổ năm
cánh, nhị vàng; lại có loại hoa nhiều cánh chồng lên nhau, mà tơ nhỏ, đều có
những sắc màu hồng, phấn hồng và trắng hồng mà thôi.
Thơ
Quốc âm của Nguyễn Trãi viết về Cây mộc cận như sau: “Ánh nước hoa in một đóa
hồng / Vết nhơ chẳng bén, bụt làm lòng / Chiều mai nở chiều hôm rụng / Sự lạ
cho hay tuyệt sắc không”.
Hoa
dâm bụt rực rỡ, tươi thắm, lưỡng tính, màu đỏ, rất dễ trồng, người ta thường
trồng bằng cách giâm cành, giữ đất ẩm một thời gian thì các chồi nẩy mầm. Trồng
mộc cẩn làm hàng rào quanh vườn nhà ở thôn quê trông rất đẹp mắt. Bây giờ có
nhiều người thích chơi mộc cẩn, đem trồng vào chậu để thưởng lãm xem cũng rất
thanh nhã.
Có
người nói, không nên gọi tên là hoa dâm bụt: mà gọi là râm bụt thì hay hơn, vì
chữ dâm (chỉ là đồng âm thôi) dễ bị hiểu nhầm. Nhưng cũng có người lại bảo,
ngày xưa các cụ đặt tên để gọi chắc cũng có ý thâm hậu lắm, nay cứ thế mà gọi
thôi. Duy ở miền Nam quen gọi là dâm bụp.
Nói
về mộc cận, Kinh Thi có câu: Hữu nữ đồng xa, nhan như thuấn hoa (Nghĩa là: có
cô gái đi cùng xe, nhan sắc như hoa thuấn). Thuấn hoa tức hoa mộc cẩn này. Bản
thảo cứu hoang nói: hái lá non mộc cẩn luộc chín dầm nước lạnh rửa sạch rồi
trộn muối ăn được. Lá bạch mộc cẩn cũng vậy. Đúng là Nhan như thuấn hoa - mặt
người (con gái) đẹp như hoa thuấn - hoa bụt. Nên ngày trước ngạn ngữ thường nói
“mặt hoa da thuấn” (không phải “mặt hoa da phấn” như bấy lâu vẫn gọi), để ví
như cái đẹp của làn da mịn màng, tự nhiên, thoang thoảng mùi hương của người
con gái đẹp.
CÁP
Cáp, tức khôi cáp, tục
danh con sò (huyết), còn gọi là ngõa ốc tử, ngõa lũng
tử (44). Sách Gia Định thành thông chí chép rằng: loại
huyết cáp, tức sò huyết ở vùng biển nhiều bùn lầy, tròn như cái chén uống rượu,
vỏ nhăn nhíu, lô nhô cắm trong cát, chỗ nông chỗ sâu, thành từng hàng, vị ăn
rất ngon lại có mùi thơm.
Ở
cửa biển Tư Hiền, cửa Thuận An, đầm Lăng Cô, tỉnh Thừa Thiên Huế; đầm Ô Loan,
tỉnh Phú Yên đều có nhiều sò huyết. Lại có một loại gọi là thạch
hoa, cũng thuộc loại sò; một loại nữa là trinh, tục
gọi trùng trục. Loại sò được xem là vị thuốc có công dụng chữa
bệnh sản hậu hiệu nghiệm và trị chứng bệnh gầy còm rất tốt.
(44).
Đại Nam nhất thống chí, Sđd, phiên là con hến?
VỆ GIANG
Vệ
Giang,
tức sông Vệ, nằm về phía tây nam tỉnh Quảng Ngãi. Sông có hai
nguồn: một nguồn từ núi Đồng Khố, tỉnh Bình Định chảy sang; một nguồn ra từ
KBang, tỉnh Gia Lai chảy về hòa vào nhau tại địa phận huyện Ba Tơ. Từ đây sông
mở lòng rộng hơn rồi chảy qua huyện Nghĩa Hành, xuống Mộ Đức, men theo rìa huyện
Tư Nghĩa đổ ra biển Cửa Lờ; một nhánh hòa nước với sông Trà Khúc đổ ra Cửa Đại.
So với sự kỳ vĩ của sông Trà Khúc ở Quảng Ngãi thì Vệ Giang chưa bằng, có lẽ vì
những chiến trận ở đầu nguồn thời Nguyễn Ánh tiến quân chiếm lại Phú Xuân mà Vệ
Giang được nhà vua lựa chọn? Sông Vệ có thứ cá bống cát và con dắc (một loại
hến) ngon nổi tiếng.
BẠCH ĐẬU
Bạch Đậu, tục danh là đậu trắng, còn
gọi là phạn đậu, mầm non của cây đậu trắng có thể dùng làm rau để
ăn thường ngày; hạt đậu trắng có thể để dùng làm tương, chế gia vị. Ở Thừa
Thiên Huế người ta hay dùng đậu trắng chế làm đậu hũ, sữa đậu, nước giải khát
mùa hè và các món chay khác rất ngon hợp cho trẻ con và người già. Lúc quả đậu
còn non có thể ăn cả vỏ. Đậu trắng có nhiều dược tính, các nhà Đông y dùng đậu
trắng để chế làm thuốc chữa trị thông tiểu, giảm nhiệt, mất ngủ, kích thích
tiêu hóa, rất hiệu quả.
Cây đậu
trắng dễ trồng, thổ nhưỡng tỉnh nào trồng cũng tốt cả.
PHÁC ĐAO
Phác Đao, cây siên đao (có
sách ghi là cây phạng?), một loại đao trung bình được sản xuất rất nhiều dưới
triều Gia Long và Minh Mạng. Loại đao này mặt lưỡi rất sắc, thường được trang
bị cho binh lính trận mạc và lực lượng hộ giá vòng ngoài; cũng có loại phác đao
được lấy để làm dụng cụ của những người khai hoang, mở núi. Nông dân dùng làm
cái phạng để phát bờ ruộng trước khi bắt đầu canh tác trồng trọt vào mỗi vụ
mùa.
Dưới triều Tự Đức, mở khoa thi Tiến sĩ Võ, trong môn thi có bài múa dùng
phác đao để thí sinh thể hiện tài nghệ.
LÔI
Lôi, tức là sấm sét.
Theo Kinh Dịch, sấm thuộc về quẻ Chấn tức chấn động. Người xưa
thường bảo: mấy đời sấm trước có mưa. Sấm tháng ba. Sấm núi, sấm biển... Thiên
lôi, tức ông thần sấm nhà trời.
Những nhà
nghiên cứu thiên văn địa lý nói rằng, nghe tiếng sấm có thể đoán biết “bệnh
trời”; người cầm quân đôi khi cũng mượn “uy” tiếng sấm sét để “điều hành quân
lệnh”. Tiếng sấm (có cả tiếng sét) là hiện tượng tích điện của thiên trung. Từ
mùa xuân sang mùa hạ, mùa thu qua mùa đông thường có nhiều luồng sấm sét nổ rầm
trời, cũng là hiện tượng tự nhiên của vũ trụ.
PHÙ LƯU
Phù
Lưu, tục
danh cây trầu không, còn gọi là củ tương, hay là
thổ tất bạt, ở nước ta chỗ nào trồng cũng mọc. Lá trầu có rất nhiều dược tính,
các nhà Đông y dùng làm thuốc chữa trị chứng chướng lệ, và trừ ác khí trong
bụng; ăn lá trầu với cau chống được sốt và làm tăng hơi thở, dùng nhiều thì ít
bị sâu răng, nhưng dùng quá nhiều trầu thì dễ có nguy cơ ung thư miệng. Từ đó
có câu nói: “Tân lang phù lưu khả dĩ vong ưu” (Trầu cau làm
quên ưu phiền). Cũng như quả cau, trầu là một vật phẩm truyền thống dùng để
dâng cúng thần linh, tiếp khách mở đầu câu chuyện. Miếng trầu cau xe duyên mà
nên vợ chồng.
Ô THUYỀN
Ô Thuyền,
tức là loại thuyền đi biển, sơn màu đen, cánh buồm cũng đen (đen như mực);
thuyền có 12 tay chèo, được sản xuất nhiều dưới triều Gia Long và Minh Mạng. Vào
thời trước nữa, loại thuyền được sơn màu đen thường do bọn cướp biển phía Bắc
hay sử dụng để dễ dàng hoạt động và lẩn tránh quan quân tuần tiễu (Cho nên
trong dân gian còn lưu truyền: Giặc Tàu Ô).
Triều Nguyễn
sơ có trang bị loại thuyền này cho quân tuần tiễu dọc bờ biển. Loại ô thuyền
này vừa có buồm vừa có tay chèo nên tốc độ lướt sóng nhanh.
VĨNH ĐIỆN HÀ
Vĩnh Điện
Hà, tức sông Vĩnh Điện, con sông đào ở tỉnh Quảng Nam.
Cửa sông khai đào ở làng Câu Nhi cũ chảy về phía bắc đến làng Cổ Mân, hợp với
sông Cẩm Lệ rồi đổ ra Cửa Hàn, tức cửa biển Đà Nẵng ngày nay. Nguyên trước đây
đường sông này vốn nhỏ hẹp lại quanh co khuất khúc, lâu ngày bị đất cát bồi
lấp, thuyền bè khó đi, năm Minh Mạng thứ 5, 1824, thể theo ý nguyện của nhân
dân trong địa hạt, nhà vua sai cai bạ Lê Đại Cương, dựa vào con lạch cũ mà đào
và nới rộng ra từ làng Câu Nhi đến làng Cẩm Sa dài thêm hơn 850 trượng, cho tên
gọi là sông Vĩnh Điện. Cầu bắc qua sông ấy cũng gọi là cầu Vĩnh Điện. Buổi ấy
đào xong, nhưng thế sông còn nông hẹp chỉ có thể đi lại bằng thuyền nhỏ được;
đến năm Minh Mạng thứ 6, nhà vua lại sai thống chế Trương Văn Minh chỉnh lý
đường sông lúc trước, rồi đào dời xuống hơn 40 trượng nữa, mở riêng một cửa
sông để tiếp nước sông cái, chăng dây nắn lại dòng cho thẳng, lấy dân phu trong
hạt hơn 8000 người tích cực đào. Nhớ buổi Trương Văn Minh nhận lệnh và từ biệt
vua vào Quảng Nam đào sông, vua Minh Mạng dụ rằng: “Đây là việc trọng yếu về
vận tải đường sông ở phía nam kinh kỳ, trước kia người thừa biện không biết làm
cho nên nay bất đắc dĩ phải đào vét thêm, mong lợi cho dân, chẳng phải muốn
nhọc sức dân đâu. Ngươi đến Quảng Nam nên triệu các phụ lão lấy ý ấy bảo cho họ
biết, khiến họ báo lại cho con em vui vẻ đến làm”. Khi Thống chế Trương Văn
Minh vào Quảng Nam, vua thấy gần tiết mưa lụt, liền sai lấy thêm 1000 dân phu
để góp sức cố làm. Qua hai tháng thì xong. Vua sai đem bò rượu đến khao thưởng
mọi người.
Từ khi con
sông này được đào nới rộng ra, luồng lạch thông thoáng, đường thủy đi lại thuận
tiện, tôm cá cũng có chỗ mà sản sinh nhiều thêm. Con sông đào này quả thực đã
đem lại nhiều mối lợi cho giao thương, đồng ruộng và người xứ Quảng. Để giữ cho
con nước ở đây thông hoạt, luồng lạch dễ đi, hàng năm quan lại địa phương thay
phiên thị sát, thấy đoạn nào sạt lở, bồi lấp thì phải gấp rút cho người nạo vét
ngay.
Sông
Vĩnh Điện ngày nay, có đoạn chảy qua thị trấn Vĩnh Điện, huyện Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam và một đoạn qua huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng.
LÊ
Lê, theo Đại
Nam nhất thống chí thì cây hoa này hay say trăng dựa gió, tiêu sái
tinh thần chẳng hoa nào sánh kịp. Mùa xuân, vào tháng 2 tháng 3, trăm thứ hoa đã
nở hết, mới thấy hoa lê trang sức sắc đẹp, lạnh lẽo mùi hương, tự cam quạnh quẽ
một mình. Người rành hoa biết rằng: hoa lê có hai loại, cánh hoa tròn mà thư
thái thì quả ắt ngọt, cánh hoa khuyết mà chau lại, thì quả ắt chua. Quả lê bổ
mát, dùng nhiều da dẻ mịn hồng, lợi tiểu.
Ở Việt Nam,
vùng Tây Bắc thuộc xứ lạnh trồng nhiều thứ hoa lê này, vì hợp thổ nhưỡng nên
cho quả rất ngon.
TỬ TÔ
Tử
Tô, còn gọi là xích tô, hay tía tô, lá
có mùi thơm, dùng ăn sống; có thể trị được tất cả các chất độc của cá trạnh.
Lại có một loại gọi là bạch tô, lá hai mặt đều trắng, giống rau
húng. Lá tử tô dùng xào tái ăn, hoặc nấu chín ăn đều được, nhưng người ta
thường dùng ăn sống nhiều hơn; hạt tử tô nghiền lấy nước nấu cháo ăn cũng ngon.
Các nhà Đông y cho biết, tía tô có dược tính điều hòa cơ thể để chữa ho, an
thai, giải ngộ độc cua cá... Tía tô dễ trồng, gieo bằng hạt, giữ ẩm một thời
gian thì nẩy mầm. Ở Việt Nam, đất tỉnh nào trồng cũng được, nhưng hương vị ngon
và chứa nhiều dược tính là tía tô miền Bắc.
HẢI VÂN QUAN
Hải
Vân Quan, tức cửa quan Hải Vân, xây năm 1826, nằm về phía đông nam huyện Phú
Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế, trên đỉnh đèo của núi dãy Hải Vân, chỗ xây cửa có độ
cao hơn 496m so với mặt nước biển, đèo dài chừng 25 cây số. Nguyên phía trước,
phía sau đều xây một cửa quan, trên ngạch phía trước đề ba chữ Hán “Hải Vân
Quan”, trên ngạch phía sau đề sáu chữ Hán lớn “Thiên hạ đệ nhất hùng quan” (Cửa
ải hùng vĩ nhất dưới gầm trời). Cửa trước, cao và dài đều 15 thước, ngang 17
thước 1 tấc; cửa sau cao 15 thước, dài 11 thước, ngang 18 thước 1 tấc, cửa cuốn
theo kiểu tò vò đều cao 10 thước 8 tấc, ngang 8 thước 1 tấc. Phía trái, phía
phải cửa quan, xếp đá làm tường, trước sau tiếp nhau. Cửa được xây dựng từ năm
Minh Mạng thứ 7, ban đầu đặt một viên phòng thủ úy, và biền binh thường trú,
mỗi tháng một lần thay đổi phiên; năm thứ 17, 1836, thì tăng lên 2 viên phòng
thủ úy mỗi tháng thay đổi một lần, còn biền binh thì cứ 15 ngày thay đổi; lại
được triều đình phát cho “Bản vẽ hiệu cờ” của các nước ngoại dương để tiện theo
dõi; lại cấp cho ống nhòm thiên lý để quan sát ngoài biển xa. Phàm thuyền nước
ngoài vào cửa biển Đà Nẵng thì phải báo trước cho cửa quan này. Sách Đại
Nam nhất thống chí nói rằng: “Núi Hải Vân là chỗ giáp giới giữa tỉnh
Quảng Nam và Thừa Thiên, trước kia, ranh giới ở xứ Thạch Bàn và phía bắc đèo có
khắc chữ vào mốc gỗ, đến khi xây cửa quan trên đèo thì chuẩn định từ cửa quan
trở về bắc thuộc quản hạt phủ Thừa Thiên, ngoài cửa quan trở về phía nam thuộc
quản hạt tỉnh Quảng Nam”. Nay phần Nam cửa Hải Vân của quản hạt Quảng Nam thuộc
về thành phố Đà Nẵng.
Đèo Hải Vân quanh co cao ngất, hiểm trở, trên như chạm
tới trời xanh, đỉnh gần như quanh năm mây phủ, dưới chân nhúng biển khơi lại có
hang Dơi, chỗ ấy sóng gió nguy hiểm hay gây tai nạn cho tàu thuyền qua lại. Xưa
có câu: “Đi bộ thì khiếp Hải Vân / Đi thủy thì sợ sóng ngầm hang
Dơi”. Thời chúa Nguyễn làm chủ Đàng Trong, đèo này còn hoang sơ, khó
đi, khi thiền sư Thích Đại Sán từ Quảng Nam ra Huế yết kiến chúa Nguyễn Phúc
Chu, vượt đèo bằng cáng, ông gọi đèo bằng cái tên Ngãi Lãnh vì hai bên hoa ngãi
nở vàng đường nên lại gọi tên là Ngãi Vàng.
Quan
ải Hải Vân và đèo núi Hải Vân không những có vị trí quan trọng về mặt quân sự
của khu vực biển miền Trung mà còn là chỗ ngắm cảnh độc đáo giữa mây trời hùng
vĩ, là một di tích lịch sử văn hóa quan trọng, nơi phân chia khí hậu hai vùng
Bắc - Nam khá rõ rệt.
ANH VŨ
Anh
Vũ, tục danh con vẹt (45). Nguyên thuở xưa giống
vẹt quen sống nhiều ở các gò thuộc xứ Hạ Châu, tỉnh Phúc Kiến; Tân Gia Ba
(Singapore ngày nay), có người mang về dâng lên vua. Giống chim này lông trắng
toát; cũng có một loại lông đủ năm sắc, gọi là ngũ sắc anh vũ. Mép
miệng đỏ, mỏ quắp xuống, lưỡi giống lưỡi trẻ con, phần chân trước hai ngón, sau
hai ngón, tính sợ lạnh, người rành các giống chim nói, con lớn gọi là anh
mẫu, con nhỏ gọi là anh ca. Sách An Nam
chí chép rằng: đời Hán Vũ Đế, người ở quận Giao Chỉ đem dâng chim anh
vũ biết nói; đời Đường Trịnh Quán, nước Lâm Ấp dâng chim anh vũ năm sắc, tức
loại chim này. Vua Minh Mạng chú ở bài Vịnh ngũ sắc anh vũ có
nói, đầu đời Trung Hưng, người ở xứ Gia Định đem dâng lên mấy con, nuôi ở trong
cung, có một con rất tinh thông, đêm nằm trong lồng, thấy mèo bò đến, nó liền
giả tiếng người giận dữ mắng chửi; mèo sợ lẻn tránh không dám đến gần; khi thấy
chó ngủ, thì bay lẻn xuống để mổ, chó giật mình tỉnh dậy chạy cuống cuồng, chim
liền nhảy lên bàn, dở trò cười ngặt nghẽo. Sách Lễ ký lại chép
rằng: chim anh vũ biết nói (nói như vẹt); mặc dù vậy nhưng nó
chẳng rời ra khỏi loại phi điểu tức là giống chim này. Lại có một loại lục
anh vũ, tục gọi chim vẹt mỏ đỏ tứccon két, lông
xanh biếc, nếu cắt bớt ngọn lưỡi đi cũng có thể tập nói được tiếng người.
Như
vậy, từ xa xưa rừng núi nước ta trước đã có nhiều chim anh vũ sinh sống, sau
lại nhập thêm một vài giống cùng họ mà thôi, nên sử sách mới chua thế. Hoặc nó
di cư từ vùng này sang vùng khác một cách tự nhiên trước những thay đổi của hệ
sinh thái và môi trường tự nhiên.
Chim
vẹt dễ sống, thích ăn các thứ trái cây, rừng các tỉnh nước ta đều có. Hiện nay,
nhiều người chơi chim thường thích nuôi chim vẹt, vì nó không kén ăn, lại có
sức chịu đựng, mà hình dáng cũng đẹp, rất ưa nhìn, nuôi lâu nhiều con biết bập
bẹ tập nói tiếng người. Cảnh nhà có nuôi vẹt thật là vui.
(45).
ĐNNTC, Sài Gòn xb (1962); Hà Nội xb (1969); Nxb Thuận Hóa (1997) và (2006), và
một số sách khác đều chú hình chim anh vũ ở Tuyên đỉnh. Chúng tôi đối chiếu
thực tế với Cửu đỉnh thì hình chim này được chạm vào Dụ đỉnh.
THẠCH THỦ NGƯ
Thạch
Thủ Ngư, tục danh cá úc (46); một loại cá mà trên
đầu của nó có chấm đá, vảy nhỏ, thịt nhiều và ngon. Các thứ cá khác đều có máu,
duy cá thạch thủ không có máu như ta thường thấy, do vậy mà ngày trước nhà chùa
gọi nó là bồ tát ngư, thế mà khi đến tuần chay có người vẫn ăn
cá này. Do cá không có máu, đầu cứng như đá cho nên gọi là cá thạch
thủ, tức cá đầu đá. Không hiểu thịt của cá thạch thủ có dược tính gì
nhiều, nhưng rõ ràng là một loại cá “có cái đầu” khá kỳ lạ.
Năm
Minh Mạng thứ 17, đúc xong Cửu đỉnh, cho chạm hình tượng con cá thạch thủ vào
Dụ đỉnh.
(46).
ĐNTLCB phiên là con cá lành canh? Có sách ghi là cá mú?
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét