Thứ Bảy, 23 tháng 3, 2024

Ngôi chùa Phật giáo Bắc Bộ

 

Ngôi chùa Phật giáo Bắc Bộ

          Về kiến trúc công trình chùa Bắc Bộ: Cơ bản, ngôi chùa được xây dựng có vị trí đắc địa, có núi sông, hay ở những nơi cao, thoáng, những nơi có cảnh thiên nhiên đẹp, lại có môi trường xã hội thuận tiện cho các chư tăng tu dưỡng và giáo hóa chúng sinh. Thiền sư Pháp Loa đã nói rõ: “Khi đã liễu ngộ chính tông rồi thì phải chọn cảnh chùa mà trụ trì, tránh những nơi nước độc non thiêng. Cảnh có bốn điều: Một là nước, hai là lửa, ba là lương thực, bốn là rau. Đây là bốn điều cần. Lại cũng nên biết cảnh không gần nhân gian mà cũng không xa nhân gian, vì gần thì ồn ảo mà xa thì không ai giúp đỡ cho. Cảnh có thể trú là chỗ yên nghiệp, để dưỡng thân, nuôi tính, tâm linh sáng suốt, trường dưỡng thảnh thai, để được chứng đạo, ấy là cứu cánh”.

Chùa Keo (huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình)

          Cấu trúc chùa thường bắt đầu từ Tam quan với ba cửa biểu hiện ba cách nhìn huyền diệu của Phật giáo về thế gian. Một số chùa lớn như chùa Keo ở Thái Bình sau Tam quan ngoại còn có Tam quan nội. Qua Tam quan sẽ vào khu vực chính đó là Tam bảo với ba tòa Tiền dường, Thiêu hương và Thượng điện, gắn với nhau theo kiểu chữ Công và chữ Đinh tạo một không gian nội thất chung, cũng có khi theo kiểu chữ Tam. Ngoài ra có nhiều khu vực phụ mà đa phần là hành lang hai bên và thường có hậu đường ở đằng sau. Hành lang thường bày tượng La hán. Hậu đường có thể chia từng phần nhà Tổ, nhà Tăng và điện Mẫu. Ngoài ra một số chùa lớn thờ thêm các vị Thánh có nhiều gắn bó với Phật giáo, khi đó trong chùa có thêm một số tòa nhà nữa phân bố theo kiểu Tiền thần hậu Phật, hoặc Tiền Phật hậu Thánh, như chùa Keo Thái Bình – Nam Định, chùa Bối Khê – Hà Nội, chùa Trăm gian – Hà Nội,… Hầu hết các chùa có chuông đồng khá to treo ngay ở Tiền đường, một số chùa xây gác chuông kết hợp với Tam quan như chùa Đậu – Hà Nội, hoặc riêng trên trục chính của Tam bảo ở phía trước như chùa Bút Tháp – Bắc Ninh, hoặc ở phía sau như chùa Keo – Thái Bình, có khi lại có thêm cả gác khánh, gác trống xây đối diện với gác chuông như chùa Ninh Hiệp – Hà Nội có Gác chuông – Gác khánh, chùa Thầy – Hà Nội có gác chuông – Gác trống. Chùa còn xây tháp, một số chùa, Tháp cũng là nơi thờ Phật được xây cao trội lên và ở phía trước như Tháp Phổ Minh – Nam Định; tháp Cổ Lễ – Nam Định. Tháp là mộ của các sư thì sẽ xây bên cạnh hoặc phía sau chùa.

Tam quan ngoại chùa Keo

          Bài trí tượng thờ: Các lớp tượng cũng được phân bố theo các lớp kiến trúc tạo nên các con đường ngang dọc trong không gian chùa. Khác biệt trong bài trí tượng thờ không chỉ ở quy mô của Phật điện mà còn do ảnh hưởng của tông phái, do trình độ của người trụ trì, do được cúng tiến…


          
Không có một công thức duy nhất cho bài trí tượng thờ, nhưng có một số điểm chung giữa cách bố trí tượng thờ các chùa đã được các nhà nghiên cứu đi trước đề cập đến như Trần Lâm Biền, Trần Nho Thìn,… Một Phật điện thông thường gắn liền với khu Tam Bảo chữ Công thường được bố trí các tượng pháp theo nguyên tắc các lớp từ ngoài vào trong (cũng là từ thấp lên cao) gồm các nhân vật gần gũi với chúng sinh đến những nhân vật lý tưởng; các lớp luôn lấy hàng giữa dành cho nhân vật trung tâm, hai bên là nhân vật phù trợ theo thứ tự trái trước phải sau (trái, phải theo nhân vật ở giữa, tức nhìn ra cửa).

Hai tượng Hộ Pháp, Khuyến Thiện (trái) và Trừng Ác (đất nung) tại chùa Thầy.

          Tiền đường, là các gian bên trái, trước hết là bộ tượng Hộ pháp gồm hai vị thần bảo vệ pháp báu của Đức Phật đó là vị Khuyến thiện bên trái khuyên mọi người làm điều thiện. Vị Trừng ác bên phải tay cầm vũ khí, giới răn mọi người bỏ ác.

Tượng đức ông

          

Thứ Năm, 21 tháng 3, 2024

Bộ ảnh hiếm ngày xưa của lăng vua Minh Mạng (Hiếu lăng)

Bộ ảnh hiếm ngày xưa của lăng vua Minh Mạng (Hiếu lăng)

– Lăng có cảnh quan đẹp nhất ở đế đô Huế


Lăng vua Minh Mạng (Hiếu Lăng) là nơi yên nghỉ của vua Minh Mạng (1791-1841), vị vua thứ hai của triều Nguyễn. Công trình này được đánh giá là lăng vua triều Nguyễn có cảnh quan đẹp nhất.

Trong 13 đời vua triều Nguyễn, thời vua Minh Mạng trị vì đất nước được đánh giá là giai đoạn thịnh vượng, hùng mạnh nhất. Trong hai mươi năm trị vì, vua đã thay đổi nhiều việc, từ đối nội, đối ngoại cho đến những cải cách kinh tế chính trị xã hội. Với 142 người con, vua Minh Mạng được xem là vị vua có nhiều con nhất sử Việt.

Năm 1820, vua Minh Mạng lên ngôi, chỉ 7 năm sau đó nhà vua đã tính tới việc xây lăng tẩm cho chính mình.

Quan Địa lý Lê Văn Đức đã chọn được một cuộc đất tốt ở địa phận núi Cẩm Kê, gần ngã ba Bằng Lãng, nơi hợp lưu của hai nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch để tạo thành con sông Hương thơ mộng, cách trung tâm thành phố Huế 12 km.

Địa điểm đã được đề xuất từ năm 1827, và phải mất ròng rã gần 14 năm cân nhắc, chọn lựa, đến năm 1840, nhà vua mới quyết định cho xây dựng lăng tẩm của mình ở nơi này.

Vua Minh Mạng cho đổi tên núi Cẩm Kê (thuộc ấp An Bằng, huyện Hương Trà) thành Hiếu Sơn và gọi tên lăng là Hiếu lăng. Đích thân nhà vua xem xét, phê chuẩn họa đồ thiết kế do các quan Bùi Công Huyên, Trương Đăng Quế và Giám thành vệ dâng lên.

Tháng 4 năm 1840, công cuộc kiến thiết Hiếu lăng bắt đầu. Vua sai các quan Lê Đăng Danh, Nguyễn Trung Mậu và Lý Văn Phức điều khiển lính và thợ thuyền lên đây đào hồ đắp La thành. Tháng 8 năm 1840, nhà vua lên kiểm tra thấy công việc đào hồ Trừng Minh không vừa ý nên giáng chức các quan trông coi và đình chỉ công việc.

Một tháng sau, công việc vừa được tiếp tục thì vua Minh Mạng lâm bệnh qua đời vào ngày 28 tháng Chạp năm Canh Tý (tức 20-01-1841) ở tuổi 50.

Vua Thiệu Trị lên nối ngôi, chỉ một tháng sau (tháng 2-1841) đã sai các quan đại thần Tạ Quang Cự, Hà Duy Phiên, Nguyễn Tri Phương chỉ huy gần 10.000 lính và thợ gấp rút thi công tiếp công trình theo đúng họa đồ của vua cha để lại.


Ngày 20-8-1841, thi hài vua Minh Mạng được đưa vào an táng ở Bửu Thành, nhưng công việc xây lăng mãi đến đầu năm 1843 mới hoàn tất. Từ một vùng núi đồi hoang vu đã hình thành một khu lăng tẩm uy nghiêm, được đánh giá là vừa rực rỡ về kiến trúc, vừa hài hòa với thiên nhiên lại vừa sâu sắc bởi giá trị tư tưởng.

Chi tiết về kiến trúc lăng vua Minh Mạng – Hiếu lăng

Lăng Minh Mạng có bố cục kiến trúc cân bằng đối xứng, xung quanh một trục kiến trúc là đường thần đạo, xuyên qua một loạt các hạng mục công trình gồm: cửa chính, sân chầu, nhà bia, sân tế, Hiển Đức môn, điện Sùng Ân (thờ vua Minh Mạng và Hoàng hậu), hồ Trừng Minh, Minh Lâu, hồ Tân Nguyệt (trăng non), cổng tam quan Quang Minh Chính Trực, Trung Đạo kiều và cuối cùng là Bửu thành (mộ vua Minh Mạng).

 



Cổng tam quan Quang Minh Chính Trực, Trung Đạo kiều dẫn ra Bửu thành


Lăng có diện tích 18 ha (nhưng diện tích cấm địa quanh lăng là 475 ha), xung quanh lăng có La thành bao bọc. Cửa chính của lăng tên là Đại Hồng môn, là cửa chỉ để rước linh cữu của vua nhập lăng.


Hai bên cửa chính là hai cửa Tả Hồng môn và Hữu Hồng môn. Hồ Trừng Minh gồm hai nửa nối thông với nhau ở phía sau điện Sùng Ân nơi có ba cây cầu đá bắc qua, giống như hai lá “phổi xanh”, bao bọc lấy điện Sùng Ân và các kiến trúc vòng ngoài nằm trên trục thần đạo (khu vực tưởng niệm). Ở giữa hai hồ Trừng Minh và Tân Nguyệt, trên đường thần đạo, là Minh Lâu. Hồ Tân Nguyệt hình vầng trăng non ôm lấy một phần khu mộ vua (Bửu thành).

 

Bửu thành – nơi an táng vua Minh Mạng

Bửu thành là một quả đồi thông hình tròn, bao quanh bởi tường thành, bên trong, sâu bên dưới là mộ vua. Ở chính giữa hồ Tân Nguyệt có một cây cầu mang tên Trung Đạo kiều, nối Minh Lâu với Bửu thành và đường dạo quanh lăng.


                                                  Minh Lâu

Phía sau Bửu thành là rừng thông xanh thẳm, đem lại một cảm giác u tịch.

Trên mặt cắt kiến trúc dọc theo đường thần đạo, các công trình cao thấp theo một nhịp điệu vần luật nhất quán, âm dương xen kẽ, tạo nên nét đẹp riêng cho công trình kiến trúc lăng tẩm này. Bố cục kiến trúc đăng đối của các hạng mục chính trong lăng đem lại cho lăng một vẻ uy nghiêm cần có của công trình lăng mộ. Tuy vậy, ở ngoài rìa, men theo con đường dạo quanh co vòng quanh hai hồ nước và viền xung quanh lăng, xen lẫn với cây cối có các công trình kiến trúc nhỏ dùng để nghỉ chân ngắm cảnh như: đình Điếu Ngư, gác Nghênh Phong, hiên Tuần Lộc, sở Quan Lan, Tạ Hư Hoài… làm cho toàn bộ quần thể lăng uy nghiêm nhưng vẫn hài hòa với thiên nhiên và duyên dáng tráng lệ.

Trong khoảng diện tích được giới hạn bởi vòng La thành dài 1.750 m là một quần thể kiến trúc gồm cung điện, lâu đài, đình tạ được bố trí đăng đối trên một trục dọc theo đường Thần đạo dài 700 m, bắt đầu từ Đại Hồng Môn đến chân La thành sau mộ vua. Hình thể lăng tựa dáng một người nằm nghỉ trong tư thế thoải mái, đầu gối lên núi Kim Phụng, chân duỗi ra ngã ba sông ở trước mặt, hai nửa hồ Trừng Minh như đôi cánh tay buông xuôi tự nhiên.

Từ ngoài vào trong, các công trình được phân bố trên ba trục song song với nhau mà Thần đạo là trục trung tâm. Xen giữa những công trình kiến trúc là hồ nước ngát hương sen và những quả đồi phủ mượt bóng thông, tạo nên một phong cảnh vừa hữu tình vừa ngoạn mục.

Sau đây là những hình ảnh chi tiết bên trong lăng vua Minh Mạng:

Mở đầu Thần đạo là Đại Hồng Môn, cổng chính vào lăng, xây bằng vôi gạch, cao hơn 9 m, rộng 12 m. Cổng này có ba lối đi với 24 lá mái lô nhô cao thấp và các đồ án trang trí cá chép hóa rồng, long vân… được coi là tiêu biểu của loại cổng tam quan đời Nguyễn. Cổng chỉ mở một lần để đưa quan tài của vua vào trong lăng, sau đó được đóng kín, ra vào phải qua hai cổng phụ là Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn.

                                    Đại Hồng Môn

Sau Đại Hồng Môn là Bái Đình, lát gạch Bát Tràng (sân rộng 45 x 45 m), hai bên có hai hàng tượng quan văn võ, voi ngựa bằng đá đứng chầu.


Hai bên sân Bái Đình là hàng tượng quan văn võ, voi ngựa đứng chầu. Những tượng người và voi ngựa ở đây được điêu khắc theo lối tả chân, gần giống với thực tế



Một vài hình ảnh trên Bái Đình: (chụp năm 1991)

 


Bi Đình nằm trong Bái Đình, hình chụp năm 1942





Cuối sân là Bi Đình tọa lạc trên Phụng Thần Sơn, bên trong có bia “Thánh đức thần công” bằng đá Thanh ghi bài văn bia của vua Thiệu Trị viết về tiểu sử và công đức của vua cha.

 


Bi đình (nhà bia) ở Bái Đình, phía sau Đại Hồng Môn

 

Một khoảng sân rộng tiếp theo chia làm bốn bậc lớn nhằm giảm bớt cảm giác choáng ngợp của con người trước sự mênh mông của kiến trúc, đó là sân triều lễ.

 


Nữ sinh Đồng Khánh đang đi từ sân chầu lên nhà bia ở Bái Đình

Bi Đình được xây dựng theo lối kiến trúc truyền thống của triều Nguyễn. Bộ mái lợp gồm có hai tầng chứa đựng yếu tố âm dương. Trên đỉnh trang trí bình hồ lô và hình rồng

 


Bi Đình, phía xa là Hiển Đức Môn dẫn vô điện Sùng Ân

 


Bên trái là Bi Đình, nhìn về phía Hiển Đức Môn

 

Sau khi đi qua Bái Đình (sân chầu, nhà bia, sân tế) là tới Hiển Đức Môn – mở đầu của khu vực tẩm điện, được giới hạn trong một lớp thành hình vuông biểu trưng mặt đất (từ ý niệm trời tròn, đất vuông).

Hiển Đức Môn, bên trong là điện Sùng Ân



 
Mặt trong của Hiển Đức Môn, nhìn từ điện Sùng Ân

 

Cửa Hiển Đức là cổng chính của khu vực tẩm điện. Đây là cánh cổng thứ hai nằm trên trục Thần đạo, được giới hạn bởi khung thành hình vuông biểu tượng cho mặt đất. Cửa Hiển Đức được thiết kế như một tòa nhà 2 tầng, 3 gian không có chái nằm trên một mặt nền cao hơn 1m so với tầng sân chầu, xung quanh được bó vỉa đá thanh và lợp ngoái ống tráng men. Toàn bộ công trình được chạm nổi và sơn son thếp vàng

Đi qua Hiển Đức Môn là tới trung tâm của lăng: điện Sùng Ân – nơi thờ tự vua Minh Mạng, xung quanh có Tả, Hữu Phối Điện (trước) và Tả, Hữu Tùng Phòng (sau) như những vệ tinh chung quanh.

 




Trong điện thờ bài vị của vua và bà Tá Thiên Nhân Hoàng hậu.

Đi qua điện Sùng Ân để vào khu vực tẩm điện phải qua một cổng nhỏ gọi là Hoằng Trạch Môn, mở ra một không gian của hoa lá và mây nước phía sau.

 


Tất cả những công trình mang tính hiện thực dường như dừng lại ở khu vực tẩm điện. Từ đây, bắt đầu một thế giới mới đầy thư nhàn, siêu thoát và vô biên.



17 bậc thềm đá Thanh đưa ta vào khoảng trời xanh mát bóng cây và ngát thơm mùi hoa dại. Ba chiếc cầu: Tả Phù (trái), Trung Đạo (giữa), Hữu Bật (phải) bắc qua hồ Trừng Minh như dải lụa xanh, đưa du khách đến Minh Lâu – một công trình như đột khởi từ quả đồi có tên là Tam Tài Sơn.



Minh Lâu được xây dựng theo lối “phương đình” tọa lạc trên ngọn đồi Tam Tài. Đây là công trình kiến trúc tiêu biểu nhất, cao nhất và đẹp nhất ở lăng vua Minh Mạng, tên của công trình có nghĩa là lầu sáng

 


Minh Lâu nghĩa là lầu sáng, nơi nhà vua suy tư vào những đêm hè trăng thanh gió mát, là nơi đi về của linh hồn tiên đế, là dấu chấm vuông kết thúc một thế giới hữu hạn; là “bộ ngực kiêu hãnh” của “con người” được ví bởi hình dáng của khu lăng.

 




Minh Lâu là sự thể hiện cách lý giải về vũ trụ và nhân sinh quan của người xưa. Tòa nhà này hình vuông, hai tầng, tám mái, là một biểu trưng của triết học phương Đông.

 


Hai bên Minh Lâu, về phía sau là hai trụ biểu uy nghi dựng trên Bình Sơn và Thành Sơn mang ý nghĩa nhà vua đã “bình thành công đức” trước khi về cõi vĩnh hằng.

 

Phía sau cùng của khu lăng Minh Mạng là một cái hồ hình trăng non tên là Tân Nguyệt ôm lấy Bửu Thành.

 


Cầu Trung Đạo nối Minh Lâu ra Bửu Thành

 

Đây là hình ảnh của thế giới vô biên. Hồ hình trăng non ví như yếu tố “Âm” bao bọc, che chở cho yếu tố “Dương” là Bửu Thành – biểu tượng của mặt trời. Kết cấu kiến trúc này thể hiện quan niệm của cổ nhân về sự biến hóa ra muôn vật. Đó là nhân tố tác thành vũ trụ.

 


Cầu Thông Minh Chính Trực bắc ngang hồ Tân Nguyệt có 33 bậc tầng cấp dẫn vào nơi yên nghỉ của nhà vua, nằm giữa tâm một quả đồi mang tên Khải Trạch Sơn, được giới hạn bởi Bửu Thành hình tròn.

 


Hai đầu cầu vào khu vực mộ vua Minh Mạng là hai Vũ môn với các cột trụ bằng đồng, trang trí rồng uống lượn từ trên xuống, đỉnh cột đặt búp sen bằng pháp lam. Phía trên phường môn có các lớp liên ba, chia ô hộc trang trí với các tấm pháp lam và các hàng chữ Hán” Chính đại quang minh” và” Thông minh chính trực”

 


Hình tròn của Bửu thành nằm giữa những vòng tròn đồng tâm biểu trưng, được tạo nên từ hồ Tân Nguyệt, La Thành, núi non và đường chân trời như muốn thể hiện khát vọng ôm choàng Trái Đất và ước muốn làm bá chủ vũ trụ của vị vua quá cố.

 


Hai bên trục chính của lăng có nhiều công trình phụ đối xứng nhau từng cặp một. Hiện nay, các công trình như Tả Tùng Phòng trên Tịnh Sơn; Hữu Tùng Phòng trên Ý Sơn; Tuần Lộc Hiên trên Đức Hóa Sơn; Linh Phượng Các trên Đạo Thống Sơn; Truy Tư Trai trên Phúc Ấm Sơn; Hư Hoài Tạ trên đảo Trấn Thủy đều không còn tồn tại.

 

Bên cạnh hàng loạt các công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cao còn có gần 600 ô chữ chạm khắc các bài thơ trên Bi Đình, Hiển Đức Môn, điện Sùng Ân và Minh Lâu cũng là những tuyệt tác vô giá. Đó là một “bảo tàng thơ” chọn lọc của nền thi ca Việt Nam đầu thế kỷ 19.  

  

















Một vài hình ảnh trên đường tới lăng Minh Mạng năm 1991:



 









chuyenxua.net biên soạn