Thứ Ba, 25 tháng 10, 2011

Cây trúc trong tứ quân tử

Trúc - tranh của Từ Vị đời Minh
Tứ quân tử
Cơn mưa vừa mới tạnh
Cành trúc ngã bên đường
Quân tử nghiêng mình xuống
Đi qua ta cúi đầu

                  Đông Hồ




 


Mai, lan, trúc, cúc là đề tài quen thuộc trong hội họa Trung Quốc. Bốn chủng loại này đều có tính cách cao nhã. Mai nở vào mùa đông và xuân, chịu đựng lạnh lẽo. Lan kiều diễm mảnh mai, hương thơm thâm trầm. Trúc ngay thẳng, vô tâm, đầy tiết tháo. Cúc trải sương giá mà chẳng héo hon, có ý chí thách đố thiên nhiên. Thế nên các văn nhân Trung Quốc ái mộ mà đặt tên cho bốn loại này là Tứ quân tử.
  
Mai, lan, trúc, cúc bước vào hội họa vì chúng hàm hữu ý vị tượng trưng văn học, tiêu biểu đức hạnh của người quân tử. Đời Tống có Văn Đồng, Tô Thức nổi tiếng về mặc trúc, Thôi Bạch với mặc mai, Trịnh Tư Hữu, Triệu Mạnh Kiên với mặc lan, cho đến Triệu Xương, Hoàng Cư Bảo với mặc cúc. 

Trúc thạch
竹石


咬定青山不放鬆,
立根原在破巖中。
千磨萬擊還堅勁,
任爾東西南北風。
Trúc thạch
Giảo định thanh sơn bất phóng tùng,
Lập căn nguyên tại phá nham trung.
Thiên ma vạn kích hoàn kiên kính,
Nhậm nhĩ đông tây nam bắc phong. 

Đá trúc 
Bám chặt núi xanh chẳng buông rời,
Gốc mọc bền vững nơi vách xa.
Ngàn đập muôn va vẫn cứng chắc,
Bốn bề gió cuộn mặc thổi qua.
Đĩa trà Trúc Thạch
Trúc mai
tranh Thạch Đào đời Thanh
"Trúc là quân tử,     
          mai là giai nhân"

Hoa tre, gọi là “trúc ba” hoặc “trúc cái”
Thời lính của tôi cũng gần một năm (1974) gắn bó với rừng tre Tuyên Quang. Năm đó, khi tôi đến, nhìn xa, tre phủ núi Nà mượt xanh như một tấm lông thú. Rồi sau đó, Tre nở hoa, rừng chuyển màu vàng lúa chín, tre chết đứng. Người Cao lan (Sơn dương) gọi là rừng "quy", khoảng 100 năm một lần. Cả rừng, tre già, tre cụ, tre trẻ "quy" tất, thế là kỳ lạ phải không ? Kỷ niệm vậy đó.
Hoa tre trên cao nguyên
Những nụ hoa tre
Cả đời tre, hoa tre chỉ nở một lần
Hoa tre nở từ mắt tre

Tre trúc là biểu tượng của mẫu người quân tử bởi loài cây này tuy cứng mà vẫn mềm mại, đổ mà không gẫy, rỗng ruột như tinh thần an nhiên tự tại, không mê đắm quyền vị, vật chất. Và cũng như một người quân tử, tre và hoa tre chết đứng chứ không rũ xuống như những loài hoa khác. Đó là hình ảnh hiếm thấy giữa đất trời.

Măng trúc mùa xuân
Trúc lâm thất hiền
Nguyễn Tịch, Kê Khang, Lưu Linh
Sơn Đào, Hướng Tú, Vương Nhung, Nguyễn Hàm
Trúc lâm thất hiền, bảy nhà thơ, nhà văn Trung Quốc sống thời kì cuối Ngụy đầu Tấn, thế kỉ thứ 3, ở ẩn trong rừng trúc, đánh đàn, uống rượu, ngâm thơ, bàn triết học Lão Trang, nói chuyện huyền viễn để tỏ lòng chống đối chế độ đen tối đương thời.

                                                                                                     

Cảnh đấu kiếm trong rừng trúc
Phim Ngọa hổ tàng long


*****
Trúc tước họa
Xưa ông trạng Mạc Đỉnh Chi đi sứ bên Tầu ...
... Từ xưa, tôi chỉ nghe nói có "Mai tước họa" (bức vẽ cành mai chim sẻ) chứ chưa hề nghe nói đến" trúc tước họa" (bức vẽ cành trúc chim sẻ). Nay tể tướng lại để bức trướng "Trúc tước họa", "Trúc" là quân tử, "Tước" là tiểu nhân; làm như vậy là để tiểu nhân lên trên quân tử, tôi e rằng cái đạo tiểu nhân sẽ ngày càng rông rỡ, mà cái đạo quân tử sẽ ngày một tiêu tan.


Dưới chế độ Ngô Đình Diệm, tất cả các khuôn dấu của cơ quan chính quyền, kể cả khuôn dấu của tổng thống đều có bình bụi trúc ở hình tròn nhỏ phía trong.
Bụi trúc, nói theo cách Tầu là "Tiết trực tâm hư", có nghĩa là tiết tháo (hoặc đoạn, khúc giữa hai mắt tre) ngay thẳng, vì dân vì nước, không xiên xẹo; tâm có nghĩa là lòng thì trống rỗng, không có gì riêng tư cho bản thân. "Tiết trực tâm hư" tượng trưng cho tấm lòng của người quân tử. Ông Ngô Đình Diệm cai trị nhân dân theo cung cách của một người quân tử nên ông lấy cây tre, bụi trúc làm biểu tượng, làm lời nhắc nhủ cho công chức, cán bộ.


 *****                         
                                                      
                                                                                                                         
BIỂU TƯỢNG TRÚC VÀ THI NHÂN
ThS - GV. Võ Minh Hải
(Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Quy Nhơn)
    
Từ xưa đến nay, màu xanh thẫm của những rừng trúc đã khiến cho không biết bao nhiêu văn nhân, thi sĩ hết lời ca tụng. Thơ phú từ khúc viết về trúc có thể nói là vô số, không thể lượng tả được. Cổ nhân quan niệm: “Ninh khả thực vô nhục, bất khả cư vô trúc. Vô nhục sử nhân sấu, vô trúc sử nhân tục寧 可食無肉不可居無竹. 無肉使人瘦無竹使人俗” (Có thể ăn mà không cần có thịt nhưng không thể sống mà không có trúc, không có thịt thì chỉ khiến cho người ốm đi, không có trúc khiến cho người trở nên bình thường). Câu nói trên đã khẳng định nhã thú thanh cao thoát tục của văn nhân sĩ đại phu thời trước.
Trịnh Bản Kiều 鄭板橋 đời Thanh 清代 là người cả đời chỉ vẽ trúc và làm thơ về trúc (vịnh trúc hoạ trúc 詠竹畫竹) và đã để lại khá nhiều hảo thủ giai cú (好首佳句) viết về trúc, trong bài thơ Trúc thạch 竹石, ông viết:

                  Giảo định thanh sơn bất phóng tùng,
                  Lập căn nguyên tại phá nham trung.
                  Cán ma vạn kích hoàn kiên kính,
                  Nhậm nhĩ đông tây nam bắc phong



Đĩa trúc lâm thất hiền
咬定青山不放鬆,

立根原在破岩中.

幹磨萬擊還堅勁,

任爾東西南北風”


Tạm dịch            
Bám chặt núi xanh chẳng buông rời,
Gốc mọc bền vững nơi vách xa.
Ngàn đập muôn va vẫn cứng chắc,
Bốn bề gió cuộn mặc thổi qua.


Ý tứ của bài thơ không ngớt lời ngợi ca khí chất hùng dũng của cây trúc trước phong ba của cuộc đời. Các hoạ gia đời trước không chỉ vẽ trúc mà còn kết hợp với những yếu tố khác hình thành một trường phái hoạ trúc (Trúc tử hoạ thể 竹子畫體). Tô thức 蘇軾 (tức Đông pha cư sĩ 東坡居士, một danh sĩ đời Tống 宋代) cũng yêu trúc và thích vẽ trúc. Ông nói: “Hàn mai nhi tú, trúc sấu nhi thọ, thạch xú nhi nghĩa 寒梅而秀, 竹瘦而壽, 石醜而義” (Mai lạnh nhưng đẹp, trúc thon nhưng sống lâu, đá xấu nhưng lại có nghĩa), do đó người đời mới gọi chúng là “Tam ích 三益” (ba cái có ích) và từ đó cũng hình thành một hoạ phái lấy đá và trúc làm chủ đề chính. Nguyên Nhược Can 元若干, hoạ gia đời Tống cũng rất thích vẽ Tùng松, Trúc 竹, Mai 梅, thường xưng là Tuế hàn tam hữu 歲寒三友 (Ba người bạn mùa đông). Vì lẽ ấy, văn nhân đời sau thường lấy trúc để biểu đạt tình cảm, ý chí của cá nhân mình, bởi họ xem trúc là loài cây tượng trưng cho sự Thanh cao 清高, Khí tiết 氣節, Kiên trinh 堅貞 của kẻ trượng phu.

Trúc là loại cây đã gần gũi với cuộc sống con người từ ngàn xưa, phần lớn các đồ gia cụ ngày trước đều được làm từ trúc. Trong hội hoạ, người ta cũng thường lấy phong thái cao khiết của trúc làm đề tài. Trong kiến trúc phong thuỷ Trung Hoa, các nhà phong thuỷ học cũng thường xây dựng các mô hình rừng trúc trong vườn nhà để tạo không gian tĩnh mịch, yên lặng, thư thái, còn thơ ca từ trước đến nay thì hết lời ca tụng, tán mỹ. Tô Đông Pha làm thơ về trúc khá nhiều, thưởng thức tác phẩn Thư Yên Lăng Vương Chủ Bạ Sở Hoạ Tích Chi 書鄢陵王主簿所畫析枝 của ông, chúng ta sẽ cảm thấy được tấm lòng của bậc cao sĩ đối với trúc: “Phàm luận về hoạ thì lấy đường nét làm chủ, nói về thi phú thì bàn đến âm điệu du dương, Thơ và hoạ vốn là một luật chung, tạo hoá và văn nhân ấy đều là người sáng tạo... Trúc thon như U nhân (người ở ẩn), u hoa (hoa buồn) như Xử nữ (con gái còn trình nguyên), con chim sẻ trên cành trúc ngang tàng nhìn bóng sương rơi như hoa tuyết, đôi cánh như muốn bay nhưng lá trúc như muốn ào ào phóng vượt. Đáng thương cho con mật rong ruổi, gánh bầu mật thơm oằn cả hai vai. Ôi, người thì sâu sắc, trời thì xảo diệu thay! Ta muốn làm câu thơ nên gởi thanh âm và tìm diệu ngữ…”
            

... đâu đâu cũng có luỹ tre xanh rì rào ẩn hiện.
Trong câu “Sấu trúc như u nhân, u hoa như xử nữ 瘦竹如幽人, 幽花如處女”, Tô Đông Pha dùng hình ảnh của trúc để nhấn mạnh đến phẩm cách và lý tưởng của người quân tử. Tao nhân mặc khách vui thích khi vẽ trúc, ngâm thơ về trúc là quá trình cao khiết hoá phẩm cách cá nhân mình, lấy trúc để nói về ý chí con người, tìm bạn tri âm.


Trong ngôn ngữ giao tế, người ta nhận thấy có khá nhiều mỹ từ nói về trúc. Hình ảnh của trúc được dùng để biểu đạt khí phách cao khiết, văn nhân yêu trúc, dùng ống trúc để cắm hoa và xem nó như một biểu tượng của cái đẹp. Những giai cú, mỹ từ chúc tụng nhau, văn nhân, dật sĩ thường dùng trúc như một biểu tượng, ví dụ như.
   Phú quý bình an 富貴平安. Biểu tượng là Mẫu đơn牡丹 và Trúc 竹.
   Phúc thọ bình an 福壽平安. Tùng松, Trúc竹, Mai梅
   Bình an đại cát 平安大吉. Trúc 竹, Đại Dữu 大柚 (cây quýt lớn)
   Quân tử chi giao 君子之交. Trúc 竹, Mai 梅
   Tử tôn phồn vinh 子孫繁榮. Trúc 竹, Đồng 筒 (ống trúc)
       
Bên cạnh đó, trúc cũng được xem là biểu tượng của sự cương nghị, xem thường phú quý, tượng trưng cho đức trọng, khí phách hiên ngang của người quân tử. Lời đề từ, lạc khoản cho những bức hoạ thuỷ mặc, các hoạ gia thường sử dụng các thành ngữ, giai từ như.
   Tuế hàn nhị hữu 歲寒二友. Tùng 松, Trúc 竹
   Tuế hàn nhị nhã 歲寒二雅. Mai 梅, Trúc 竹
   Tuế hàn tam hữu 歲寒三友. Tùng 松, Trúc竹, Mai梅
   Tam ích hữu 三益友. Tùng 松, Trúc竹, Thạch 石
   Tứ quân tử 四君子. Lan 蘭, Trúc竹, Cúc菊, Mai 梅
   Tứ hữu 四友. Tùng 松, Trúc竹, Mai梅, Cúc菊
   Ngũ Thanh 五清. Tùng 松, Trúc竹, Cúc菊, Thạch 石, Ba Tiêu 芭蕉   
   

Hình ảnh Trúc từ một loài cây quen thuộc với cuộc sống đã trở thành một biểu tượng cho khí cốt con người và cũng là đề tài quen thuộc của thơ ca từ xưa đến nay. Với văn nhân mặc khách, hình ảnh của Trúc không chỉ là nơi để ký thác tâm sự mà còn là biểu tượng của đạo đức, là sự biểu trưng cho tư tưởng nhàn dật, góp phần làm phong phú thêm văn hoá ẩn sĩ - một nét đặc trưng của văn hoá phương Đông, một trường phái văn học tiêu biểu của văn học cổ điển Trung Quốc. Trong quá trình hình thành và phát triển của trường phái này, hàm nghĩa văn hoá của Trúc đã hun đúc và dần trở thành một biểu tượng văn hoá đặc biệt, là thi liệu tiêu biểu của văn chương cổ trung đại Trung Hoa, Việt Nam.        

21 nhận xét:

  1. Chào bác VanPham! HG tôi cũng đã được đọc và nghe nói về cốt cách và đức hạnh của người quân tử, tuy vậy entry này của Bác đã giúp tôi có thêm nhiều hiểu biết. Cảm ơn Bác nhiều.
    (HG tôi vẫn thường xuyên là khách không mời của Bác)

    Trả lờiXóa
  2. Cảm ơn HG ghé thăm.
    Thời lính của tôi cũng gần một năm (1974) gắn bó với rừng tre Tuyên Quang. Năm đó, khi tôi đến, nhìn xa,tre phủ núi Nà mượt xanh như một tấm lông thú. Rồi sau đó, rừng chuyển màu vàng lúa chín, người Cao lan (Sơn dương) gọi là rừng "quy", khoảng 100 năm một lần. Cả rừng, tre già, tre cụ, tre trẻ (quy" tất, thế là kỳ lạ phải không ?. Kỷ niệm vậy đó.
    HG! thức khuya vậy.
    Chúc Bạn vui!

    Trả lờiXóa
  3. bạn làm ơn cho mình hỏi đặt cành trúc có 8 cành ở bàn làm việc là có ý nghĩa gì ? cảm ơn bạn rất nhiều.
    Rât mong nhận được thư trả lời từ bạn.
    Yahoo: kenny_pr0

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Bạn thân mến!
      Tôi không hiểu về phong thủy, chỉ thiển nghĩ rằng:
      Cây trúc trong nét vẽ phương Đông đi liền với lá trúc, để không là “khô trúc” và cũng chưa là “Trúc Thạch”, mà chỉ có “trúc ba” (hoa trúc) thì không . Cây trúc phải có sương gió và không gian “quân tử”. Nhà tôi những bụi trúc để ở nơi ngắm nhìn thoáng hoạt cho lòng tiết tháo.
      Nếu như bạn nói, chắc đó là nghệ thuật sắp đặt nay. Mà nó có nhiều quan niệm. Có thể đó là “Tử tôn phồn vinh 子孫繁榮. Trúc 竹, Đồng 筒 (ống trúc)” chăng! Bạn nhớ rằng: người quân tử (trúc) ít đứng một mình; hoặc là bụi trúc hay “tuế hàn nhị hữu’… “tứ quân tử” hay như “Tử tôn phồn vinh” như bạn kể…
      Cảm ơn Bạn ghé thăm!

      Xóa
  4. Hoa tre trông rất lạ. Đẹp mắt. Cảm ơn bài viết công phu.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Cảm ơn Tám đã đọc bài.
      Năm 1974, tôi ngắm rừng tre Tuyên Quang cùng với hình ảnh những bông hoa tre đó.
      Khi đó cả một miền rừng núi chuyển sang màu vàng nhạt và tre bắt đầu "Quy".

      Xóa
  5. Wonderful beat ! I would like to apprentice while you amend your
    web site, how could i subscribe for a blog website?
    The account aided me a acceptable deal. I had been tiny bit acquainted of this your broadcast offered
    bright clear concept
    Feel free to visit my blog post : forteviot

    Trả lờiXóa
  6. Vẫn ra vào ngắm bài này đó anh VP ạ. Ngắm trong bận rộn, chán vậy đó.
    Nhưng cố gõ lại vài lời.. để lưu dấu vết ở đây. Hình như càng ngày càng ít thời gian.. bây giờ lại đi với bận rộn của mình. Sẽ vào xem lại sau vậy.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. ÔI, bạn đã đọc tôi viết về đâu đó...
      Chúc Mai vui!

      Xóa
  7. Đọc bài này em được mở mang thêm kiến thức về hình tượng cây trúc quân tử. Cảm ơn Thầy Văn ạ. Chúc Thầy vui Thầy nhé!

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Cảm ơn Cô nhỏ ghé thăm.
      Tôi vẫn mê bạn kiểu viết 'ý nhị và thơ ngây'.
      Chúc Cô giáo vui!

      Xóa
  8. Trong Tứ quân tử (4 loại cây) bên trên MAI - LAN - CÚC - TRÚC, thì hoa MAI lại không phải là cây Mai vàng ngày tết ở miền Nam (thuộc họ Mù u), mà là cây Mai trắng phương Bắc (Trung Hoa), thuộc họ Đào.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Cảm ơn Bạn, xem các bức họa 'Mai Thọ', 'Trúc Mai' trên đĩa cổ ở nhà, tôi cũng nghĩ rằng: Mai trong 'Tứ quân tử' là cây Mai trắng. Người Hanoi gọi là Chi mai. Xưa Thày (bố) tôi trồng nhiều và bây giờ tôi cũng ươm nhiều. Thắc mắc này tôi có hỏi một số người, nhưng không có câu trả lời. Phải chăng, thời nhà Nguyễn, cây Mai vàng đã khắc trên Cửu đỉnh cùng với cánh sao vàng sau chiến thắng mà người ta yêu quý đó chăng?.

      Bây giờ tôi đã có thêm thông tin của Bạn. Nhà tôi, như tôi chứng kiến; đã ba đời trồng Mai trắng (Chi Mai) dể chơi trong dịp tết.


      Xóa
    2. Đúng bạn ạ, cây Mai miền Nam có tên khoa học là Ochna integerrima, thuộc họ Ochnaceae (Mù u), còn cây Mai trắng miền Bắc có tên khoa học là Prumus mume và Prumus amenica, thuộc họ Rosaceae (Đào), người Việt gọi Mai trắng là Nhất Chi Mai.

      Trên Cửu đỉnh thời Minh Mạng có khắc hình cây Mai vàng miền Nam đấy. vậy nhà bạn có vườn trồng cây hay quá.

      Xóa
    3. Cảm ơn Bạn thân mến.
      Thày tôi bảo là Hoa Nhị Độ Mai (Nhất Chi Mai)

      Xóa
  9. Bài viết này của anh Nay sỏi mới biết và vào đọc. Cảm ơn anh! Sỏi cũng có một cái đĩa "Dầm" khá đẹp vẽ Thạch trúc, có đề câu thơ mà Sỏi không biết của ai hay nó chỉ là câu trong cổ ngữ Trung Hoa : "TÂM HƯ QUÂN TỬ TRÍ - DUẪN NÃI CAO NHÂN PHONG" Tạm dịch (Lòng thanh thán trí người quân tử- Cây măng mọc thẳng là cốt cách bậc cao nhân). Cái dầm này có ảnh nhưng không pot vào comment được!Sỏi rất thích cái dầm này!

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Cảm ơn Hòn Sỏi. Bạn đặt thẻ [img] link hình ... [/img] là được.

      Xóa
  10. Qua đọc một số bài của bác, bác ốm và đã đỡ rồi( phê bình nếu còn uống rượu khi ốm dạy đấy ạ)
    Ong đặc biệt thích hoa tre, khi tẩy trắng để làm hoa khô cắm một mình cũng đẹp, làm nền cho hoa khác cũng rất có lý.
    Cảm ơn bác đã thấy cái " thờ ơ" bên nhà Ong.

    Trả lờiXóa
    Trả lời
    1. Cả đời, đã một lần thấy hoa tre, cũng may mắn lắm thay.
      Rất thích cách viết của Ong. Nhưng phải đọc chậm

      Xóa
  11. Soi Donghoang viết

    未 出 土 時 先 有 節 (Vị xuất thổ thời tiên hữu tiết)
    到 崚 雲 處 也 虚 心 (đáo lăng vân xứ dã hư tâm)
    Đó là đôi câu đối của người xưa mà mình rất thích. Người xưa mượn cách nói về cây tre để nói lên cái chí của người quân tử.
    (Tạm dịch nghĩa:
    Vị xuất thổ thời tiên hữu tiết : Chưa ra khỏi mặt đất, trong người đã có đốt, có khí tiết
    Đáo lăng vân xứ dã hư tâm : Chạm đến mây trời, ruột vẫn hư (rỗng) không.
    Trong lúc tìm hiểu xuất xứ của câu đối xem từ thời kỳ nào và do ai là người viết. Tình cờ mình đọc được một tài liệu có ghi đó là đôi câu đối được ông Ngô Đình Diệm khảm trai và treo ngay đầu giường ngủ của mình.
    Lạ! Thật lạ và thú vị!
    Câu đối này sau được mình viết thành phướn treo lên hai ngọn tre bày trong bối cảnh kết phim ở đám tang cụ Kim Ngọc trong phim Bí Thư Tỉnh Ủy.
    P/s: Văn bản của câu đối ban đầu mình đọc và cứ băn khoăn vì vế sau của nó là chữ "vô tâm" (không phải hư tâm) vậy là mình và một ông anh (Bu Khin ) cùng nhau lục tìm các văn bản suốt hàng tháng trời. Rồi cuối cùng thống nhất câu đối mà Đỗ Phủ viết là sớm nhất, dùng chữ "hư tâm".
    Sau đó mình lại đọc được 1 tư liệu thấy đối câu đối treo đầu giường Ngô tổng thống cũng dùng chữ "hư tâm" . Bèn thấy tự tin hơn khi sử dụng để đưa vào phim.

    Trả lờiXóa
  12. BẤT KHẢ NHẤT NHẬT VÔ THỬ QUÂN
    BÀN VỀ CHỮ “TRÚC”

    Trúc 竹 là chữ tượng hình, chữ “trúc” kim văn giống hình hai chiếc là rủ xuống. Trúc là loại thực vật xanh quanh năm, không phải thảo cũng không phải mộc. Mộc có vòng tròn tính tuổi trong thân cây, trúc không có, tùng và trúc thường nhắc chung với nhau, nhưng thân trúc thì rỗng mà thân tùng thân bách thì đặc; thảo khó có thể so cao thấp với trúc, trúc gọi là rừng, còn thảo gọi là bụi. Trúc cũng được gọi là “hoàng” 篁, “tu hoàng” 修篁 là loại trúc nhỏ dài, “u hoàng” 幽篁 chỉ rừng trúc. Trúc cũng còn được gọi là “quân” 筠, “quân” vốn chỉ da xanh của trúc, cũng chỉ trúc. Lá trúc là “nhược” 箬, quả của trúc gọi là “luyện thực” 练实. Mầm của trúc gọi là “duẩn” 筍. Chữ “duẩn” có bộ “trúc” 竹 và chữ “tuần” 旬. Trong Bì nhã 埤雅 viết rằng:
    Bao chi nhật vi duẩn
    包之日为筍
    Tức khi còn được bẹ bao lại gọi là “duẩn”.
    Trúc không cương không nhu, chất phác không hoa lệ; cao tiết hư tâm, mọc lên dong dõng cao; khi gió tới phát ra tiếng, khi mặt trời lên có bóng râm; sống không kén chọn thổ nhưỡng, chặt đi lại sinh ra; bốn mùa xanh tươi; làm bạn cùng tùng mai. Có thể tôi luyện tiết tháo và tăng trưởng ý vị thẩm mĩ của con người. Trong Thế thuyết tân ngữ 世说新语 có chép chuyện của Vương Huy Chi 王徽之 ở nhờ một gian nhà trống của một người khác, ông đã sai người nhà trồng trúc, và nói rằng:
    Bất khả nhất nhật vô thử quân
    不可一日无此君
    (Không thể một ngày không có anh này)
    Về sau, từ “thử quân” 此君 cũng dùng để chỉ trúc. Tô Đông Pha 苏东坡 cũng có nói:
    Ninh khả thực vô nhục, bất khả cư vô trúc (*)
    宁可食无肉, 不可居无竹
    (Thà ăn cơm không có thịt chứ không thể ở mà không có trúc)
    Còn như thơ vịnh trúc thì nhiều vô kể, như Lí Bạch 李白:
    Bạch sa lưu nguyệt sắc
    Lục trúc trợ thu thanh
    白沙留月色
    绿竹助秋声
    Cát trắng lưu ánh trăng
    Trúc xanh giúp tiếng thu
    Đỗ phủ 杜甫:
    Thiên hàn thuý tụ bạc
    Nhật mộ ỷ tu trúc
    天寒翠袖薄
    日暮倚修竹
    Trời lạnh tay áo mỏng
    Chiều tối dựa trúc xanh
    Lưu Vũ Tích 刘禹锡:
    Sổ gian tố bích sơ khai hậu
    Nhất phiến thanh quang nhập toạ trung
    数间素壁初开后
    一片清光入坐中
    Mấy gian nhà vách trắng sau khi mới mở cửa ra
    Một mảng ánh sáng mát trong rọi vào chỗ ngồi
    Còn như Lí Xương Cát 李昌吉 trong Xương bắc viên tân duẩn 昌北园新笋 (**)đã viết rằng:
    Chước khứ thanh quang tả Sở từ
    Nhị hương xuân phấn hắc li li
    Vô tình hữu hận hà nhân thức
    Lộ áp yên đề thiên vạn chi
    斫去青光写楚辞
    腻香春粉黑离离
    无情有恨何人识
    露压烟啼千万枝
    Chặt lấy trúc xanh để viết Sở từ
    Trúc mới nên có mùi thơm và phấn trắng, nhưng chỗ viết lại thấm mực đen
    Vô tình và hữu hận nào ai là người biết cho
    Chỉ có sương và khói đè lên ngàn vạn cành trúc
    Những bài thơ nêu trên đẹp, thâm trầm, mỗi bài đều có tình cảnh riêng. Thơ vịnh trúc xưa nhất phải kể đến bài Đoạn trúc ca 断竹歌:
    Đoạn trúc, đoạn trúc
    Phi thổ trục nhục
    断竹, 断竹
    飞土逐肉
    Bài ca này xuất phát từ Ngô Việt Xuân Thu 吴越春秋. Trong Văn tâm điêu long – Thông biến 文心雕龙 - 通变 cũng có nói đến Hoàng Đế 黄帝 ca Đoạn trúc 断竹. Ý của bài thơ là
    Cưa cành trúc, chặt cành trúc, làm thành cây cung, dùng đất sét nắn thành hòn đạn, đi săn bắt dã thú.
    Đây là bài thơ về săn bắn, tả cảnh săn bắt của nhân dân lao động, có thể nói đó là thiên sử thi rất có giá trị.

    Trả lờiXóa